Trương Thái Du
Viết tại Đà Lạt, tháng Tư 2005
|
|
|
Đền thờ Hai Bà Trưng ở Vĩnh Phú
|
Tìm hiểu về cổ sử Việt Nam là một đề tài phức tạp, hấp
dẫn nhưng cũng gây nhiều tranh cãi.
Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà
sưu khảo độc lập Trương Thái Du quanh vấn đề tìm lại manh mối
về Hai Bà Trưng.
Nội dung trong bài viết là quan điểm riêng
của tác giả. Rất mong nhận được ý kiến tranh luận, phản hồi
từ quý vị độc giả trong tinh thần cởi mở, tương kính và lành mạnh.
Lời phi lộ: Bài viết này tiếp tục chuỗi t́m
hiểu cổ sử Việt Nam của tác giả và nằm trong hệ thống các hệ quả từ một
cách tiếp cận chưa được thảo luận rộng răi. Về cơ bản cách tiếp cận này
như sau:
1. Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về
vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu
thời Chu chính là Đan Dương (nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Sau hàng
ngàn năm nam tiến của các đoàn quân đế quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng
dịch chuyển dần về phương nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến
thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ.
2. Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt
được h́nh thành tại Động Đ́nh Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm
Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đă chạy giặc
Sở xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên
bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đ́nh Hồ là Văn Lang Tây Giang.
“Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đă
thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc. Không ít cư
dân Văn Lang Động Đ́nh Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng
trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Ở
mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xă hội theo mô h́nh
Văn Lang Động Đ́nh Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu hệ không c̣n liên kết
chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ c̣n là
thủ lănh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà
thôi.
3. Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng
Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc
ḿnh là Đất Nước, khi kư âm bằng Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Lạc Việt
chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà
lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu
Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa là vùng
đất phía tây Phiên Ngung. Chữ Tây này tồn tại cho đến hôm nay trong
trong tên gọi hiện đại của vùng đất này là Quảng Tây. Do đó không tồn
tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm
179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đă
dung ḥa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em
cùng cội rễ Lạc Việt Động Đ́nh Hồ. Chính cội rễ ấy đă che hết những mối
nối kư ức, những khoảng trống và “mưu mô” của sử sách Trung Quốc, biến
cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực
kỳ mâu thuẫn.
Mặc dù c̣n rất nhiều sai sót, nhầm lẫn và mâu thuẫn
trong các bài viết đă phố biến đây đó, tác giả hy vọng cách tiếp cận cốt
lơi của ḿnh nên được các nhà sử học chuyên nghiệp tham khảo nghiêm túc.
Trong khi vẫn tiếp tục chỉnh lư chiều sâu văn bản cho một tập hợp mới
nhằm đi đến xuất bản chính thức, sự mở rộng phạm vi của cách tiếp cận
này là cần thiết.
Mùa xuân 2005, tṛn 1962 năm ngày Hai Bà Trưng bỏ
ḿnh v́ nước, xin được viết bài này như nén hương ḷng thành kính dâng
lên Hai Bà. Mong âm linh liệt mẫu giúp đỡ con cháu Việt Nam của ḿnh làm
sống dậy tiếng trống đồng bất khuất của nền văn minh Lạc Việt, để người
đời có cái nh́n khác đi với h́nh ảnh sáo ṃn vay mượn “phất cờ khởi
nghĩa” của cuộc binh biến mang tên Tự Do mà Trưng Trắc là lănh tụ, là vị
Vua Bà bất tử đầu tiên và cũng là cuối cùng của mảnh đất tiền Việt Nam.
1. Thời Hai Bà Trưng, mẫu hệ hay mẫu quyền?
Rất nhiều sử gia đă đồng t́nh rằng theo Thủy Kinh
Chú, chồng bà Trưng Trắc tên Thi. Ông chẳng những không hề bị Tô Định
sát hại, mà c̣n sát cánh bên phu nhân của ḿnh trong cuộc nổi dậy năm
40. Khi Mă Viện tấn công, đuối sức, ông bà bỏ chạy vào Kim Khê, ba năm
sau mới bị bắt. Chuyện tiếp theo như thế nào th́ Thủy Kinh Chú bỏ lửng.
Chỉ biết dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát giang. Có giả
thuyết Hai Bà sau đó bị Mă Viện bắt và chém đầu rồi đem thủ cấp về Tàu
báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn có tục kiêng màu đỏ.
Hậu Hán Thư chép bà Trưng Trắc bị xử trảm. Ở đây tôi muốn trả lời câu
hỏi: Tại sao sử gia phong kiến Việt Nam lại mượn tay Tô Định khai tử ông
Thi?
Ư kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20
cho rằng các nhà Nho, khi viết sử phải “giết” ông Thi, v́ nếu ông c̣n
sống mà bà Trưng Trắc làm vua th́ ngược lẽ… thánh hiền Khổng – Mạnh! Họ
cũng thống nhất cư dân Việt cổ h́nh như theo chế độ mẫu hệ - bằng chứng
là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ rất nhiều, nào là Lê Chân (thánh
chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công chúa), Vũ Thục Nương (bát
nàn công chúa), Thiều Hoa (đông quân tướng quân), Diệu Tiên v.v. Giải
thích như thế chưa thuyết phục lắm. Theo tôi sự bịa đặt c̣n ẩn chứa hàm
ư sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm của cuộc nổi
dậy.
Trưng Trắc và Trưng Nhị đă tập hợp lực lượng và
tuyên chiến với Tô Định tại Mê Linh, với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ ḿnh
là bà Man Thiện. Thành công, Trưng Trắc xưng vương và đóng đô cũng tại
Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của bà. Giả sử Hai Bà Trưng không có em
trai. Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này đang ở bên chồng) về lại quê
cùng giữ quyền thế tập với em gái, rồi “Hận người tham bạo, thù chồng
chẳng quên… phất cờ khởi nghĩa”. Chuỗi luận thật tṛn trịa, dễ ru ngủ
người đời. Thật sự nó đă ru biết bao thế hệ người Việt ngủ ngon hằng
ngàn năm.
Quả t́nh ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc
tướng Châu Diên, rất “môn đăng hộ đối” với Trưng Trắc, chứ không phải
một anh lực điền tứ cố vô thân được gia chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu
(theo quan điểm phụ hệ sau này). Không có ông bên cạnh Trưng Trắc đánh
đuổi Tô Định, sẽ không ai thắc mắc khi lấy vợ ông đi ở rể hay rước dâu
về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đă theo chế độ phụ hệ, Trưng Trắc phải về
nhà chồng. Và nếu hưng binh tất bà sẽ chọn Chu Diên chứ không phải Mê
Linh. Do đó ta thấy vai tṛ của kẻ làm dâu trong một gia tộc danh giá
thời ấy hơi khác thường.
|
Vai
tṛ của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành
công khá mờ nhạt. Thay vào đó là h́nh ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng
Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xă hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền
thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất
Trương Thái Du
|
Đến đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với
Trưng Trắc, ông Thi phải theo vợ sang Mê Linh. Vai tṛ của ông Thi trong
cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào
đó là h́nh ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xă
hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ
nhất, thậm chí Trưng Nhị c̣n có thể thừa kế cả anh rể ḿnh nữa, điều này
hoàn toàn không có ǵ xa lạ với nhiều bộ tộc c̣n chậm tiến trên thế giới
ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có thể lấy chuyện hôn nhân của Mỵ
Châu và Trọng Thủy trước đó hơn 200 năm làm một điểm tựa. H́nh ảnh
truyền thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ chạy khỏi Cổ Loa,
cũng mơ hồ cho thấy Mỵ Châu cần được bảo vệ như một “thái tử” trong cơn
nguy cấp. Có thể tham khảo thêm bộ sử “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ (năm
233 – 297): “Ở hai huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ và Đô Lung của quận
Cửu Chân, anh chết th́ em trai lấy chị dâu”.
Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng,
cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn c̣n theo chế độ mẫu hệ nếu không
muốn nói là mẫu quyền. Khái niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng
phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa
con trong một gia đ́nh mang họ mẹ, chỉ các con gái mới được giữ quyền
thừa kế. Mẫu quyền th́ đi xa hơn, quyền hành gia đ́nh và xă hội nằm tất
ở nữ giới, lănh tụ phải là nữ giới. Do đó việc tồn tại các nam thủ lĩnh
trong những bộ tộc Việt cổ không hề mâu thuẫn với nội dung mẫu hệ. Nội
dung mẫu hệ này xuyên suốt trong hầu hết các văn bản huyền sử Việt Nam,
mặc dù nó đă bị chế độ phụ hệ nối tiếp bóp méo, biên tập khá bài bản và
công phu.
Rơ nhất phải kể đến truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ
với cặp khái niệm “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước”. Trong trật tự lời
văn của Lĩnh Nam Chích Quái: “Long Quân nói: Ta là ṇi rồng, đứng đầu
thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại
mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, gịng giống bất đồng, khó ở
lâu với nhau được". Rơ ràng mẹ Âu Cơ là Dương chứ không phải Âm. Minh
chứng thêm ở đây: tết Đoan Dương (ngày nóng nhất trong năm, dương khí
cực thịnh) hay c̣n gọi là Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm lịch cũng là ngày
giỗ Âu Cơ. Chế độ phụ hệ dù có bóp méo truyền thuyết theo chiều hướng
nào đi nữa vẫn không thể thay ngày giỗ mẹ bằng giỗ cha. Trong câu ca dao:
“Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, cặp
“Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước” trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân đă bị
chế độ phụ hệ hoán đổi trật tự một cách rất khéo thành “Mẹ - Nước” và
“Cha – Núi (đất)”. Bản thân yếu tố “Thái sơn” rặt Tàu cũng cho thấy đâu
là nguyên nhân của sự thay đổi ấy. Sẽ có người phản bác lập luận của tôi:
xét theo cấu tạo của bộ phận sinh dục, nếu cho rằng mẹ là dương rất
không ổn. Một cách t́nh cờ lưỡng nghi (hào dương và hào âm) của Kinh
Dịch có thể tương đương với Linga và Yoni của người Chiêm Thành. Tuy
nhiên khi so sánh ngực người nam và người nữ th́ rơ ràng giống cái lại
chứa dương tính. Vấn đề giờ đây thu hẹp về các góc nh́n mà thôi.
2. Một cách lư giải toàn cảnh
Năm 111 TCN Lộ Bác Đức diệt Nam Việt, kết thúc gần
100 năm vương triều của họ Triệu. Tượng quận, vùng đất chưa bị xâm lăng,
một tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo cách của nhà Tần (nó
tương đương với Giao Chỉ của nhà Chu) bắt đầu được Hán Vũ Đế mở mang.
Chín quận mới liệt kê ở Hán Thư là Đạm Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, Thương
Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ, Cửu
Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm, thứ khái niệm nói lên tính tự
cao, tự đại, ḷng tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán.
Sau hàng trăm năm dừng lại và khai phá các vùng đất
phương nam đă chiếm được và đặt quan trấn nhậm (tức 6 quận trong tổng số
9 quận thuộc Giao Chỉ bộ), đầu công nguyên nhà Tây Hán bắt đầu ḍm ngó
xuống ba quận ảo là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lần đầu tiên ta thấy
xuất hiện chức danh Thái thú của quận Giao Chỉ là Tích Quang (năm 1 đến
năm thứ 5 sau Công Nguyên). Người này chắc chắn chỉ là lănh đạo một sứ
bộ có qui mô nhỏ, mang danh nghĩa “thông giao” đến đất mới thăm ḍ, thám
thính và xem xét khả năng áp đặt kềm kẹp đô hộ. Công việc của Tích Quang
c̣n dang dở th́ Trung Nguyên hỗn loạn v́ Vương Măng cướp ngôi.
Năm 23 Lưu Tú dẹp được Vương Măng tiếm quyền nhưng
Trường An đổ nát, hoang tàn trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến
Lạc Dương lập nên nhà Hậu Hán. Để nối lại cuộc thám sát mảnh đất Việt
cổ, năm 25 Nhâm Diên được cử sang Cửu Chân. Những chính sách mị dân mà
Tích Quang và Nhâm Diên áp dụng khi ấy không ngờ c̣n lưu truyền tới tận
thế kỷ 20, với vỏ bọc h́nh thức khá ngây thơ. Đến tận Việt Nam sử lược
của Trần Trọng Kim gần đây vẫn c̣n viết: “Người ấy (Tích Quang) hết ḷng
lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân trong quận có
nhiều người kính phục”. Và “Dân sự quận ấy (Cửu Chân) ái mộ Nhâm Diên,
làm đền thờ.”
Năm 34, có lẽ do chủ quan khi nhận định t́nh h́nh
sau hai cuộc thám sát, Hán triều cử sứ đoàn do Tô Định cầm đầu xuống
đồng bằng sông Hồng để tiến hành thực dân hóa quận Giao Chỉ. Nhiệm vụ
của tân thái thú chắc chắn là phải xây dựng bộ máy bóc lột nhằm biến
quận Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn tiệc thực dân, chứ không
thể măi măi là mảnh đất ảo trang trí trên bản đồ đại Hán. Có thể Tô Định
đă tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên tử Tàu và áp Hán
luật vào đời sống nhân dân sở tại. Không c̣n những hành động khoan ḥa
vờ vĩnh kiểu Tích Quang, Nhâm Diên. Tự do của người bản xứ đă bị xâm hại
nghiêm trọng. Trưng Trắc, vị thủ lĩnh tự trị của vùng đất kề cận nơi Tô
Định đặt bản doanh chịu sức ép thực dân nhiều nhất đă đứng lên hiệu
triệu các thủ lĩnh khác cùng đoàn kết đánh đuổi thù chung.
Hai Bà Trưng nổi trống đồng khởi nghĩa năm 40, dân
Việt đồng t́nh hưởng ứng khắp nơi. Tô Định chuồn thẳng về Nam Hải (tức
Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) mà không hề có một
trận chiến ra tṛ nào để sử sách hoặc dân gian truyền lại. Chi tiết này
thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được xây dựng ở trên là hợp lư. Qui mô
đội quân chiếm đóng của Tô Định rất nhỏ, chẳng thể đánh đấm ǵ được.
Cuộc hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh
chóng thành công. Điều này là tiền đề thuận lợi cho Hai Bà tập hợp được
thêm nhiều lực lượng ủng hộ, tiến tới xưng vương rồi đóng đô tại Mê
Linh.
Mùa xuân năm 42 Mă Viện mang theo quân thiện chiến
sang quận Giao Chỉ. Bằng kinh nghiệm lọc lơi của một tên tướng phong
kiến, Mă Viện kiên nhẫn đóng quân tại Lăng Bạc và nghe ngóng t́nh h́nh.
Hai Bà Trưng chủ động tấn công trước và thất bại, phải rút về Mê Linh
rồi Cấm Khê (chân núi Ba V́). Mă Viện tiếp tục truy kích và tháng giêng
năm 43 đă bắt được Hai Bà Trưng. Tàn quân Việt chiến đấu được vài tháng
nữa mới tan ră. Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng là 6.2.43
và 8.3.43 (năm Quư Măo, âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng bị
bắt và ngày sau là ngày họ bị hành h́nh. Ở đây xuất hiện hai khả năng:
Một là Mă Viện giữ Hai Bà để dụ hàng nhằm kêu gọi nhóm nghĩa quân chưa
buông vũ khí ra tŕnh diện. Hai là Mă Viện thuyết phục Hai Bà kêu gọi
nhân dân thuần phục nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta cũng
biết chắc một điều Hai Bà Trưng đă không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ ḿnh.
Sự kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mă Viện dẫn
đến một liên tưởng hơi ngoài lề: Hậu Hán Thư không ghi nhận tổng quân số
của Mă Viện nhưng chỉ riêng cánh tiến đánh Cửu Chân sau đó gồm hơn hai
ngàn chiến thuyền và hơn hai vạn lính. Vậy ít nhất Mă Viện phải thống
lĩnh lực lượng gấp rưỡi con số này cho trận đánh với Hai Bà Trưng. Cũng
theo sách ấy, Mă Viện đă giết hại cả ngàn quân của Hai Bà Trưng và bắt
sống hàng vạn tại Lăng Bạc. Như thế có thể đoán quân của Hai Bà Trưng
cũng tṛm trèm con số vài vạn, ngang ngửa với quân Mă Viện. Với lực
lượng bề thế nhường ấy, nếu Cổ Loa của An Dương Vương thực sự được xây
dựng tại đồng bằng sông Hồng (chứ không phải ở Quảng Tây như giả thuyết
của tác giả bài này), th́ tại sao Hai Bà Trưng không củng cố thành cũ để
đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài thực địa đền Cổ Loa Đông Anh chỉ
cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay, không hề bị sông lớn, suối
rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà Trưng có hơn 2 năm để chuẩn
bị một cuộc kháng chiến dài lâu. Như vậy truyền thuyết An Dương Vương và
Loa thành từng hiện hữu ở Việt Nam có thêm một nghi chứng phủ nhận.
Xin tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc
gia (những khái niệm không thể có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên
b́nh diện văn minh mà dè dặt nói: Kết cục cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng
và Mă Viện có thể tiên liệu trước, chế độ thị tộc mẫu hệ, hay ít ra là
tàn dư của nó phải bị khuất phục trước một mô h́nh xă hội tân tiến hơn,
để giải phóng sức sản xuất xă hội, phân công lại lao động, đưa con người
và lịch sử tiến lên phía trước. Sự thật là Hai Bà Trưng đă phải đương
đầu với Mă Viện, một tên tướng xâm lăng nên nguyên nhân thất bại cốt lơi
của Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu hết người Việt Nam, không
phân biệt tŕnh độ nhận thức.
3. Con cháu Hai Bà Trưng ngoài đảo xa
Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bị xử trảm. Các tùy
tướng của Hai Bà đem tàn quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc Cửu Chân
(Thanh Hóa). Mă Viện tiếp tục truy kích đến cuối năm 43 th́ hoàn thành
cuộc xâm lăng. Một bộ phận nữa phải hàng phục. Tuy nhiên có một bộ phận
bất khuất không nhỏ đă lên thuyền ra khơi. Thời điểm cuối năm 43 hoàn
toàn hợp lư và là chi tiết quan trọng, v́ trên biển Đông bắt đầu vào đợt
gió mùa Đông Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do trời đất ban tặng cư dân
Việt cổ, đẩy những con thuyền đưa họ đến eo Malacca. Cũng có khả năng
nhiều người trốn chạy theo đường bộ, rồi ḥa lẫn vào những bộ lạc sống
dọc bờ biển trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ đă góp phần xây dựng nên đế
chế Chiêm Thành sau này.
Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc mẫu hệ, nguồn gốc
gần gũi, sống hai bên eo biển Malacca, thuộc hai quốc gia: 1. Cộng đồng
thứ nhất là người Minangkabau, sống ở đảo Sumatra, Indonesia. Họ có
khoảng 4 triệu người, chiếm ¼ dân số của đảo. 2. Cộng đồng thứ hai sống
ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán đảo Peninsular, Malaysia. Họ cũng là
người Minangkabau. Họ vượt eo Malacca đến đây định cư khoảng từ TK 15
đến TK 16, và ngày nay sống rải rác trên một diện tích khoảng 6,645 km2,
dân số hơn 722.000 (số liệu 1991). Negeri Sembilan dịch nghĩa là “Nước
(số) chín”. Chữ “nước” ở đây đồng nghĩa với chữ “Nagar - nước, xứ sở”
của người Chiêm Thành và chữ “Lạc – nác, nước” của người Lạc Việt xưa.
Thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng 64 km.
Nền văn hóa của hai cộng đồng này mang bản sắc độc
đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền thừa kế nằm
hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lănh thổ chung của
họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng đầu
vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak
Undang. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, các
em gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (tiếng
Bahasa Indonesia lần lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi). Ngữ âm
này, sau biết bao biến đổi qua thời gian, đọc lên vẫn thấy mơ hồ hai cái
tên Trưng Trắc, Trưng Nhị [1].
Về đời sống, nam giới có trách nhiệm chính với mẹ
và chị em gái của họ trong thị tộc. Nhiều nơi, nam giới chỉ ở với vợ ban
đêm, ban ngày trở về với chị em gái ḿnh và những đứa cháu. Nữ giới lập
gia đ́nh thường ở lại nhà cha mẹ họ. Những người chị đă lập gia đ́nh
luôn có mối liên hệ gần gũi với các em gái chưa lập gia đ́nh, thậm chí
họ c̣n ở chung với nhau. Ở Indonesia hôm nay, người Minangkabau là những
nhà kinh doanh giỏi. Điều này được tạo nên một phần bởi sắc thái văn hóa
Minangkabau. Nam nhi Minangkabau phải rời gia đ́nh đi t́m tương lai. Họ
buộc phải thành công. Khắp Indonesia ta gặp rất nhiều các ông chủ lớn
nhỏ người Minangkalau. Họ theo đạo Hồi đă vài thế kỷ. Tuy nhiên truyền
thống văn hóa và tín ngưỡng đă ḥa hợp một cách đáng ngạc nhiên.
Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại trong những cộng
đồng người Minangkabau luôn lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử
và nhân loại học. Ngành du lịch Indonesia và Malaysia cũng khai thác
triệt để tính đặc thù này để thu hút du khách. Trong rất nhiều đoạn phim
quảng bá du lịch người Minangkabau đă không dưới một lần tuyên bố tổ
tiên họ là người Việt và đă di cư đến Nam Dương bằng thuyền.
Kiến trúc truyền thống Minangkabau cũng khiến không
ít người suy tư: “Ở Indonesia, người Minangkabau có những ngôi nhà mái
cong rất đẹp, nhịp điệu bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi nhà sàn
h́nh thuyền, một mặt lại giống mái cong của đ́nh chùa Việt Nam [2]”.
Xin hăy tham khảo một giai thoại Minangkabau [3]:
Ngày xưa có một mối bất ḥa giữa người Minangkabau và người Java, thay
v́ giải quyết bất ḥa đó bằng một cuộc chiến với máu đổ không cần thiết,
họ thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java có một con trâu khổng
lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người Minangkabau chỉ có một con nghé con. Người
Java rất tin tưởng con trâu của ḿnh sẽ đè bẹp chú nghé kia. Vậy mà yếu
đă thắng mạnh. Người Minangkabau bỏ đói con nghé nhiều ngày. Trước trận
đấu họ buộc một con dao sắc vào đầu nghé. Vào trận nghé đói tưởng trâu
là mẹ ḿnh. Lập tức nó rúc vào bụng trâu để t́m vú. Con trâu kềnh càng
đă bị chết v́ dao đâm thủng bụng. Và người Minangkabau đă chiến thắng.
Cũng theo giai thoại này Minang nghĩa là chiến thắng, kabau là trâu.
Bất kỳ người Việt nào cũng t́m thấy ở câu chuyện
trên một thứ ǵ đó thật gần gũi với bản sắc văn hóa đồng bằng sông Hồng.
Chuyện dân gian Trạng Quỳnh dùng nghé đấu Trâu của sứ Tàu với truyện
trên, có lẽ là hai biến thể của một tư duy chung, một triết lẽ giản dị
nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và ḷng yêu chuộng ḥa b́nh, ḥa
hợp, lấy trí thắng lực, hóa giải mâu thuẫn bằng trái tim nhân hậu. Và
tôi chợt hiểu, linh vật trâu vàng cho lễ hội thể thao khu vực Đông Nam Á
đầu tiên do Việt Nam tổ chức, tức Seagame 2003, đă được chọn bằng tâm
thức văn hóa, lịch sử.
Phải chăng người Minangkabau ở Indonesia và
Malaysia hôm nay cũng là con cháu của Hai Bà Trưng? Phải chăng cái tên
mà hai ngàn năm nay người Việt tôn gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị không phải
là tên riêng mà là chức danh của hai hoặc một nhóm người phụ nữ Việt Nam
bất khuất? Câu trả lời đang ở một tương lai rất gần.
4. Vua Bà và trống đồng
Xưa từ Hùng ư chỉ thủ lĩnh một vùng. Tùy Thư (thế
kỷ VII), thiên Địa Lư Chí Hạ c̣n ghi “Người man (tức người Lạc Việt) ai
giàu mạnh là người hùng”. Con vua Hùng là Quan Lang cai quản địa phận
trực thuộc, qui mô chắc cũng như làng xă ngày nay. Chữ “Làng” có thể
xuất phát từ chữ “Lang” trong “Quan Lang”, người Mường gần đây vẫn c̣n
Quan Lang. Vậy có thể hiểu “Hùng” là người đứng đầu thị tộc mẫu hệ. Liên
minh thị tộc mẫu hệ sẽ h́nh thành dạng nhà nước sơ khai như Văn Lang, và
Vua Hùng hẳn là lănh tụ của nhà nước sơ khai ấy.
Khi lưu vong đến Quảng Tây, các bộ tộc Lạc Việt cổ
từ Động Đ́nh Hồ vẫn c̣n gắn kết ở dạng nhà nước sơ khai kia, nó thể hiện
trong truyền thuyết xung đột giữa “Thục vương tử” và Vua Hùng. Tuy vậy
trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc của An
Dương Vương) và 111 TCN (năm Lộ Bác Đức b́nh định Nam Việt), những nhóm
người đi tiếp xuống đồng bằng sông Hồng có lẽ đă không thể bảo tồn h́nh
thái xă hội Văn Lang cũ. Điều này khá dễ hiểu: Địa bàn mới hoang vu (dù
chắc chắn tồn tại ít nhiều nhóm chủng tộc gốc Nam Á du canh du cư với
kinh tế hái lượm, săn bắn), thổ nhưỡng ẩm thấp, mùa mưa ngập lụt chia
cắt, dân số ít, giao thương trở ngại… Đến đầu công nguyên, ít nhất là
t́nh h́nh dân số của các bộ tộc Lạc Việt ở đồng bằng sông Hồng đă được
cải thiện. Để chống lại âm mưu nô thuộc của nhà Đông Hán, Hai Bà Trưng
đă liên minh các thủ lĩnh vùng lại với nhau đánh đuổi Hán quan, xưng
vương.
Ở xă hội Lạc Việt cổ, trống đồng là biểu hiện quyền
uy của tù trưởng, tộc trưởng. Cũng Tùy Thư nói: “Khi chiến tranh th́
trống đồng được đánh, người người khắp nơi nghe lời hiệu triệu tụ họp
về. Dân Lạc Việt rất phục tùng người sở hữu trống” – đây phải chăng là
câu trả lời dứt khoát cho hành xử của Mă Viện với quốc bảo trống đồng.
Thật vậy, Mă Viện nam chinh đă phá vỡ liên minh Văn Lang vừa được Trưng
Trắc tái lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt tự trị ở đơn vị Làng. Thế
là sau khi giết hại vợ chồng bà Trưng, Mă Viện vội vàng cho quân lính đi
thu gom trống đồng nhằm bẽ găy các cuộc phản kháng tiếp theo (nếu có) từ
trong trứng nước. Bản chất gốc của vấn đề xem ra rất kín kẽ, c̣n hiện
tượng Mă Viện nấu đồng đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ làm cột thiên
văn quan sát bầu trời, xác định vị trí khu vực vừa chiếm được trên bản
đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn ḷa x̣a che mắt sự thật lịch sử.
Tôi đă gặp rất nhiều người Việt Nam không tin tổ
tiên họ là chủ sở hữu của trống đồng, hoặc cho rằng đề cao trống đồng
như quốc bảo của dân tộc là thiếu chứng lư. Họ bảo không như người Tráng
tại khu tự trị Quảng Tây Trung Quốc (tức hậu duệ những thần dân của An
Dương Vương không di cư chạy giặc Triệu Đà xuống đồng bằng sông Hồng năm
179 TCN) vẫn c̣n sử dụng trống cho lễ hội, trống đồng ở Việt Nam chỉ đào
được nơi các vỉa đất của quá khứ. Hy vọng nguyên nhân mang tên Mă Viện
tôi vừa nêu, sẽ góp phần chứng minh người Việt xưa đă phải đành đoạn
chôn trống gửi đến tương lai, mong con cháu ḿnh măi măi trân trọng và
giữ ǵn nó
Cùng với việc hủy hoại trống đồng và làm tan ră
h́nh thức nhà nước sơ khai trên mảnh đất Việt Nam cổ, Mă Viện đại diện
cho nhà Đông Hán cũng chính thức khai sinh đơn vị hành chính tự trị là
Làng, Xă. Do được tự trị, tinh thần độc lập và tự chủ của người Việt Nam
đă luôn được nuôi dưỡng dưới các nếp nhà sau lũy tre làng. Từ “Làng
Nước” sinh ra từ đây. Làng trở thành một đất nước độc lập tự chủ thu nhỏ
của những người dân Việt bất khuất. Hơn 800 năm sau, tinh thần ấy lớn
mạnh rồi bùng phát để đưa cả dân tộc thoát kiếp nô lệ. Khi người Việt có
quốc gia rồi, th́ làng xă lại trở về thế đối lập một cách tương đối với
các chính sách chính trị tổng thể của chính quyền trung ương. Để dung
ḥa lợi ích nhà nước và làng xă, mỗi làng đă được chính quyền chọn ra
một vị thần được ưa chuộng nhất để sắc phong làm Thành Hoàng. Như vậy
mâu thuẫn đă được giải quyết ở một mức độ chấp nhận được: ông vua của
làng là thánh linh (hoặc một con người có thật đă được thánh hóa), được
ông vua của cả nước hợp thức hóa bằng một văn kiện.
5. Kết luận
Người Lạc Việt cổ bắt đầu gần một thiên niên kỷ lưu
vong từ chiếc nôi Động Đ́nh Hồ, từ châu Kinh, châu Dương bên bờ Trường
Giang khi văn minh Hoa Hạ nam tiến và nước Sở được h́nh thành. Đến Trưng
Trắc th́ sức người có hạn, văn minh vật chất sơ sài trong khi sơn đă tận
mà thủy th́ mênh mông, đa số họ bắt buộc phải dừng lại, nhẫn nhục chấp
nhận thêm tám trăm năm nô lệ nghiệt ngă.
Máu lưu vong trước nghịch cảnh chính trị của tiên
tổ người Việt Nam đă hơn một lần bùng phát, già ngàn năm trở lại đây nơi
hậu duệ của họ: Khi nhà Trần tiếm đoạt vương quyền, một nhánh họ Lư đă
chạy qua Cao Ly. Lê – Mạc đấu đá rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh, bao
người phải bỏ xứ xuống khai phá đồng bằng sông Cửu Long trù phú. 1954 và
1975, hàng triệu sinh linh lại lên đường vào nam, hoặc ra biển tỏa khắp
năm châu. Ai đó đă có lần so sánh người Việt Nam với dân Do Thái ở góc
độ lưu vong, cũng chẳng khập khiễng chút nào.
Tự đặt ḿnh vào bối cảnh năm 40 sau Công Nguyên,
tôi bỗng thấy h́nh ảnh sáo ṃn Hai Bà Trưng “phất cờ khởi nghĩa” có vẻ
không hợp lư. Nên chăng hăy h́nh dung những hồi trống đồng liên hoàn
dưới các nếp nhà sàn hiền ḥa, thôn nối thôn, làng tiếp làng, thị tộc
này kêu gọi thị tộc khác cùng đoàn kết trong âm vang tự do dưới sự lănh
đạo của Trưng Trắc tiến thẳng về Long Biên, quét sạch bắc quân xâm lược.
Hai Bà Trưng ra đi khép lại thuở bán khai trên đất
mảnh đất tiền Việt Nam. Thời điểm này chính là hoàng hôn trước đêm dài
nô lệ. Người Việt biết chấp nhận nỗi nhục thiếu tự do để học hỏi, tự
hoàn thiện ḿnh. Thỉnh thoảng một vài ngọn đuốc lại bừng sáng mang nhiều
cái tên anh hùng như Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan hay Phùng Hưng. Đáng
kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lư Nam Đế cùng các phụ triều trong giấc
mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước tiến vững chắc, không thể
phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử, làm bệ phóng cho kỷ
nguyên tự chủ bắt đầu với Khúc Thừa Dụ năm 905. Tám trăm năm tṛn bắc
thuộc là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩa. Dân tộc Việt Nam, văn
minh Việt Nam h́nh thành trong gian khó và thử thách đă lớn mạnh vượt
bậc. Từ đó về sau phong kiến phương bắc không lần nào hoàn toàn khống
chế được họ nữa. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu
là Pháp Lang Sa, với ưu thế hơn hẳn họ về sức mạnh vũ khí được sản xuất
dưới một nền khoa học kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xă hội tư bản tiến bộ,
cũng chỉ áp đặt sự đô hộ không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này tṛm
trèm 80 năm mà thôi.
Nếu không kể đến An Nam Chí Lược (1335) của một kẻ
bán nước, từ quyển hiến sử đầu tiên c̣n lưu lại đến ngày này là Đại Việt
Sử lược (1377 – 1388), sử gia Việt Nam vừa xem sách Tàu, vừa chấm bút
lông vào nước lă để viết về ông Thi. Thậm chí họ c̣n sơ ư nhầm tên chồng
bà Trưng Trắc là Thi Sách! Năm tháng qua đi, sách sử nối nhau ra đời, Bà
Trưng Trắc vẫn phải làm một quả phụ bất đắc dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu
khái niệm không cùng thời với bà. Lối tư duy suy diễn chủ quan, nô lệ
sách Tàu và kinh viện, kết hợp với truyền thống tạo dựng chính sử thiên
kiến và không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô h́nh chung đă
tô son trát phấn lên bà mẹ chân đất được Thủy Kinh Chú mô tả là “vi nhân
hữu đảm dũng”. Kết quả là người mẹ vĩ đại của họ chẳng đẹp hơn tí nào.
Nó chỉ khiến người đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và
đồng bóng của bà.
Mảnh đất h́nh chữ S có tên Việt Nam ngày nay hiện
hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà Trưng. Đó là tuyên bố rơ ràng nhất về vai
tṛ lớn lao của Hai Bà trên non sông này. Mọi lư thuyết học thuật cổ kim
đều không thể phủ nhận bản chất anh hùng và tinh thần bất khuất của Hai
Bà Trưng, vị Vua Bà đầu tiên và cuối cùng của mảnh đất Việt Nam, người
mẹ đáng kính của lịch sử Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
Chú thích
[1] Các ngữ âm dẫn theo gợi ư của Phạm Chánh Trung
– Trang web viethoc.org
[2] Văn ngọc: Từ những ngôi nhà h́nh thuyền,
www.zdfree.free.fr/diendan/articles/u125vngoc.html
[3] Dẫn theo Dien A. Rice: “Minangkabau Life and Culture”,
www.haqq.com.au |