|
Thử Viết Lại Cổ Sử Việt Nam
Trương Thái Du
____________________________________________________
Đôi
lời giới thiệu
Câu
Lạc Bộ Hùng Sử Việt nhận được bài biên khảo “Thử viết lại cổ sử Việt Nam”
của Tác giả Trương Thái Du dưới đây. Nhận thấy bài viết được tham khảo khá
công phu và tác giả đă nêu lên một số điều mới lạ, Ban biên tập xin trân
trọng giới thiệu với quí vị độc giả.
Những
ư kiến và quan điểm về tài liệu lịch sử của tác giả trong bài viết không
hẳn là ư kiến và quan điểm của Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt. Tuy nhiên tất cả
những bài viết quan niệm rằng “Tổ Tiên Oai Hùng, Con Cháu Hănh Diện” đều
phù hợp với quan điểm và chủ trương của Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt.
____________________________________________________
Lịch sử Việt Nam từ thời Mê Linh liệt nữ trở về trước luôn là sự khơi gợi
khám phá và thách thức cho bản thân tôi. Bằng những con đường không “chiêu
thức” của một kẻ viễn kiến ngôi đền sử học, tôi đă tự t́m hiểu khoảng thời
gian kia bằng dăm bài viết, có tham khảo một số sách vở và thư tịch cổ Việt
Nam cũng như Trung Quốc. Khi hệ thống những bài viết này [1] hoàn thành,
cũng là lúc nhận thức của tôi về thời bán sử Việt Nam bước qua một trang mới.
Những nhầm lẫn và mâu thuẫn lộ liễu sẽ được thanh lọc, mạch sử đơn lẻ được
tổng hợp lại để thành trang viết mới dài hơi hơn, cụ thể hơn. Tóm tắt nghiên
cứu:
- Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương
quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ
Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng c̣n gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa
luôn tên nước Sở thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến
Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, Giao Chỉ thời
Tây Hán là bắc bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành
địa danh cố định và xác thực trên địa đồ. Đóng khung bởi kiến thức thiên
văn thời Tần – Hán, Nhật Nam nghĩa là vùng đất phía nam mặt trời, là bán
cầu nam, Cửu Chân là Chân Trời, Xích Đạo. Có thể người Trung Quốc không
lầm, hơn ai hết họ hiểu Giao Chỉ là ǵ nhưng họ cố ư tung hỏa mù và diễn
dịch sai lạc ư nghĩa của từ Giao Chỉ. Đây là phương diện học thuật trong
tổng thể âm mưu thực dân của đế quốc Hán. Kẻ “bé cái lầm” là ai nếu không
phải nền sử học non yếu của người Việt Nam?
- Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được h́nh thành tại Động
Đ́nh Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng
cuối cùng trong số 18 vua Hùng đă chạy giặc Sở xuyên qua đồng bằng Tây
Giang, Quảng Tây, Trung Quốc, xuống vùng Phong Châu thuộc đồng bằng sông
Hồng khoảng TK 7 đến TK 8 TCN.
- Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc
Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc ḿnh là Đất Nước, khi
phiên dịch qua Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Do đó Lạc Việt chính là Nước
Việt hay Việt (Thường?) quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước
Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đó sinh
ra từ Tây Âu Lạc, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung.
- Không ít cư dân Văn Lang Động Đ́nh Hồ đă dừng lại bên con sông Tây
Giang, Quảng Tây và cũng dựng nên một phiên bản giống như Văn Lang Phong
Châu là Văn Lang Tây Giang. “Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí
Châu – Tây bắc Quảng Tây) đă thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước
Tây Âu Lạc. Trong ngôn ngữ của Tư Mă Thiên, Tây Vu (vùng đất phía tây Nam
Việt) chính là Tây Âu Lạc sau khi đă bị Triệu Đà thôn tính, nó không phải
Tây Vu (vùng đất phía tây đồng bằng sông Hồng) thời Mă Viện. Thời Hán Vũ
Đế, Tây Âu Lạc trở thành quận Hợp Phố. Người Lạc Việt ở Hợp Phố xưa hôm
nay có thể là người Tráng. Truyền thống xem trống đồng là bảo vật linh
thiêng của Lạc Việt vẫn được người Tráng lưu giữ. Ở nhiều ngữ cảnh, chữ
Tráng đồng nghĩa với chữ Hùng trong từ Hùng Vương.
- Tây Âu nghĩa là Đất Tây, Lạc Việt nghĩa là Nước Việt, chúng nói về hai
cộng đồng người Kinh – Thượng, hai lănh thổ không có ranh giới chi tiết
được tách ra từ nền văn minh Thần Nông h́nh thành ở bờ nam Trường Giang.
Không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên.
Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc (Quảng Tây) chạy giặc Triệu Đà
xuống Bắc Việt đă dung ḥa và pha trộn con người cũng như lịch sử với
những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đ́nh Hồ. Chính cội rễ ấy đă
che hết những mối nối kư ức, những khoảng trống và “mưu mô” của sử sách
Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức
tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn.
____________________________________________________
A. Giao Chỉ, Tượng Quận, Cửu Chân, Nhật Nam là ǵ?
1. Nam Giao, một trạm quan trắc thiên văn cổ xưa
Trong Thượng Thư, quyển sử cổ nhất của Trung Hoa, chương Ngu thư, mục
Nghiêu điển đă có từ Nam Giao: “Thân mệnh Hy Thúc trạch Nam Giao, b́nh trật
nam ngoa, kính trí. Nhật vĩnh, tinh Hỏa, dĩ chính trọng hạ. Quyết dân nhân,
điểu thú hy cách”. Nghĩa là: “(Vua Nghiêu) sai Hy Thúc đến Nam Giao, quan
sát mặt trời di chuyển về phương nam, ghi ngày Hạ chí. Lúc ngày dài nhất,
sao Hỏa đầu hôm ở đỉnh đầu sẽ là ngày trọng Hạ (giữa mùa Hạ). Dân ăn mặc
quần áo mỏng, chim thú thay lông”. Nam Giao nằm trong một hệ thống địa danh
gồm: Dương Cốc (phía đông), Muội Cốc (phía tây), Sóc Phương (phía bắc), Nam
Giao (phía nam). Từ 4 nơi này, các vị quan mà vua Nghiêu phái đến sẽ quan
sát qui luật chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các v́ sao rồi tổng hợp
các qui luật ấy thành lịch phù hợp với sự vận hành của thiên nhiên nhằm áp
dụng thẳng vào đời sống nhân dân. Bốn địa danh trên chính là bốn trạm quan
trắc thiên văn cổ xưa của loài người.
Khảo cổ hiện đại ở Trung Quốc vẫn chưa thể xác định kinh đô Nghiêu –
Thuấn ở đâu, dù vẫn biết nó không nằm ngoài trung lưu Hoàng Hà (thuộc ba
tỉnh Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Tây). Bốn trạm thiên văn sẽ nằm về bốn hướng mà
kinh đô Nghiêu – Thuấn là trung tâm. Trong một bài toán thiên văn, sai số đo
đạc (ắt phải có) càng ít ảnh hưởng đến kết quả nếu khoảng cách các trạm càng
xa nhau. Tuy nhiên khi các trạm quá xa th́ mối liên hệ giữa các trạm lại gặp
nhiều trở ngại. Theo tôi, khoảng cách giữa hai trạm Đông – Tây hoặc Nam –
Bắc sẽ cỡ 10 kinh – vĩ độ là tối đa. Một vĩ độ trên mặt đất dài hơn 111 km.
Do đó Nam Giao không thể xa hơn kinh đô Nghiêu – Thuấn 500 km, và lại càng
không thể vượt khỏi ḍng Trường Giang rộng lớn hung dữ phía nam. Tôi xin
tŕnh bày ở đây một bài toán thiên văn đơn giản nhất để làm minh họa: Bằng
các phép đo mặt trời cực kỳ thô sơ người ta có thể suy ra vĩ độ tại một vị
trí bất kỳ trên trái đất. Biết vĩ độ hai điểm nào đó sẽ tính ra khoảng cách
gần đúng giữa 2 điểm ấy theo đường chim bay.
Xác định vĩ độ của Hà Nội: Chọn một trong 4 ngày Xuân phân, Hạ chí, Thu
phân hoặc Đông chí. Dựng một cây cột thẳng vuông góc với mặt đất. Giữa trưa,
khi bóng cột đổ dài đúng hướng Bắc – Nam ta đánh dấu đầu bóng cột trên mặt
đất. Dễ dàng tính được góc kẹp giữa cột và cạnh huyền của tam giác vuông tạo
bởi cột, bóng cột và cạnh huyền (là cạnh ảo). Vĩ độ V của Hà Nội sẽ là:
- Với ngày Xuân phân và Thu phân: V = Giá trị góc kẹp
- Với ngày Đông chí: V = Giá trị góc kẹp – 23 độ 27 phút.
- Với ngày Hạ chí: V = 23 độ 27 phút – Giá trị góc kẹp
Dù t́m V ở ngày nào, nó luôn bằng 21 độ. Với cách làm tương tự, ta tính
ra vĩ độ Sài G̣n là 10 độ 30 phút. Khoảng cách theo đường chim bay Hà Nội và
Sài G̣n là: D = (21 độ - 10 độ 30 phút)x 111km = 1.165,5 km.
Ở trường hợp Hà Nội và Sài G̣n, chênh lệch kinh độ nhỏ không ảnh hưởng
nhiều đến kết quả gần đúng. Khi kinh độ chênh lệch lớn người ta phải dùng
thêm vài bài toán phụ trợ khác nữa.
Tóm lại Nam Giao chính là một địa danh. Sau này kiến thức thiên văn của
con người sâu sắc hơn, các dụng cụ quan trắc tinh tường hơn th́ không cần
thiết đi quá xa để đo đạc. Đài Nam Giao có thể dựng ở ngay kinh đô vương
quốc. Vua dễ dàng cúng mặt trời trên đài, lần hồi Đài Nam Giao đă biến thành
Đàn Nam Giao cho nghi thức tế trời. Vai tṛ trạm thiên văn của Nam Giao bị
che khuất bởi hành vi tín ngưỡng. Hơn nữa chỉ cần một máy đo cao độ mặt trời,
cùng với việc tra các bảng tính sẵn trong sách vở, mọi bài toán thiên văn
phức tạp nhất đều có thể tính ra.
2. Địa danh Nam Giao góp phần sinh ra khái niệm Giao Chỉ
Nam Giao sẽ đẻ ra khái niệm Giao Chỉ. Thật vậy, Giao Chỉ với chữ Chỉ có
bộ phụ mang nghĩa là vùng đất, khu vực. Giao Chỉ là vùng đất tiếp giáp, vùng
biên cương vương triều ở về phía nam của địa danh Nam Giao. Chữ Chỉ ngoài bộ
phụ, c̣n có một chữ Chỉ nữa đồng âm nhưng bộ Túc (bàn chân). Sự nhầm lẫn
giữa hai chữ Chỉ này góp phần khiến cho nhiều sử gia từ Đông Hán trở về sau
có rất nhiều cách giải nghĩa Giao Chỉ. Trần Thư, một bộ sử do Diêu Tư Liêm
viết năm 636 đă lần đầu tiên ghi thêm một chữ Chỉ nữa với bộ Thổ (đất) trong
từ Giao Chỉ. Cổ văn Trung Hoa có qui tắc “đồng âm thông giả”, tức những chữ
đồng âm đều có thể mượn và sử dụng lẫn lộn. Khi t́m nghĩa một chữ phải vận
dụng ngữ cảnh đang xét chứ không thể máy móc giữ nghĩa chết của chữ ấy trong
những tài liệu khác ít liên hệ.
Thượng Thư, tương truyền do Khổng Tử san định, là quyển sách đầu tiên nói
đến Giao Chỉ, phần Đại truyện ghi: “Phía nam Giao Chỉ có Việt Thường quốc,
đời Thành Vương (1063 TCN - 1026 TCN) họ qua 3 lần phiên dịch đến giao hảo
và hiến tặng chim Trĩ”. Thượng thư c̣n được giải thích là sách trời. Đây
chính là lư lẽ của bài thơ Nam Quốc Sơn Hà thời Lư:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Người Việt không c̣n lưu được quyển sử nào vào thời Lư, song chỉ qua bài
thơ trên cũng thấy rơ quan niệm họ cho rằng ḿnh là hậu duệ của Việt Thường
quốc phía nam Giao Chỉ. Bởi Giao Chỉ không hề được Thượng thư xem là một
quốc gia. Chắc chắn Lư Thường Kiệt hiểu Giao Chỉ đơn giản là một khái niệm
nên mới cho lưu truyền bài thơ đó nhằm khích lệ tinh thần vệ quốc của quân
dân. Và trước đó, ông đă dụng binh như một bước thăm ḍ khả năng thu lại
những phần đất Lạc Việt cũ đă bị Trung Quốc thôn tính. Thế kỷ 18 Quang Trung
Nguyễn Huệ cũng mang tâm tư ấy. Thế kỷ 19 vua Gia Long toan đổi tên nước
thành Nam Việt nhưng chẳng thành, để rồi cháu ông là Tự Đức ngậm ngùi trong
Khâm Định Việt sử: “Thế mới biết việc thu hồi đất đai đă mất, từ đời trước
đă là việc khó, chứ không những ngày nay mà thôi. Thật đáng thương tiếc”.
Cuối bài tôi sẽ chứng minh Lạc là Nước, là quốc gia. Như thế Lạc Việt chính
là Việt (Thường) quốc.
Từ Nghiêu – Thuấn đến đầu triều Chu lănh thổ Trung Quốc chưa bao giờ vượt
qua ḍng Trường Giang. Thiên Vũ Cống của Thượng Thư nhắc đến cương vực vương
quốc gồm cả bờ nam Trường Giang, nhưng nhiều nhà nghiên cứu tin rằng nội
dung của Vũ Cống bị điều chỉnh rất nhiều và thậm chí có thể được viết vào
thời Chiến Quốc chứ không thể xa hơn. Do đó không cần vị trí chính xác của
Nam Giao vẫn biết được khái niệm Giao Chỉ mô tả vùng đất tiếp giáp Nam Giao,
nằm bên bờ bắc trung lưu Trường Giang. Giả dụ có địa danh Giao Chỉ, từ Đông
Chu trở đi, việc nước Sở h́nh thành và bành trướng về phương nam ắt phải
xuyên qua Giao Chỉ và địa danh Giao Chỉ phải được nhắc đến không dưới một
lần trong rất nhiều sách sử có nói về nước Sở.
Chuỗi luận này sẽ đưa ra một câu hỏi hết sức bất ngờ: “Phải chăng đất Sở,
mảnh đất mà Chu Thành Vương phong cho Dục Hùng chính là một phần của vùng
Giao Chỉ thời ấy?” Đoạn đầu An Nam Chí Lược, Lê Tắc có dẫn quyển Hán Quan
Nghi của Ứng Thiện chép rằng trước tiên Trung Quốc mở mang từ Sóc (phương
bắc) rồi tiến sang phương nam lấy làm Cơ Chỉ. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo
Nguyên cũng viết Giao Chỉ là Cơ Chỉ (cơ sở) mà Hán Vũ Đế mở mang cho con
cháu (sẽ dẫn kỹ lưỡng ở bên dưới). Cơ Chỉ đồng nghĩa với Cơ Sở. Chữ Sở trong
từ Cơ Sở chỉ khác tên nước Sở ở bộ Thạch nằm bên trái. Theo qui tắc “đồng âm
thông giả” th́ đất Sở mà Thành Vương phong cho Dục Hùng chính là Cơ Sở của
nhà Chu, là Cơ Chỉ của nhà Chu và là một phần Giao Chỉ (vùng đất phía nam
đang khai phá) của vương triều Chu. Dục Hùng đến Đan Dương lập quốc, nơi đó
hôm nay nằm ở bờ bắc Trường Giang, thuộc tỉnh Hồ Bắc.
Tại Nam man truyện trong Hậu Hán Thư, sau khi nhắc đến ghi chép về Việt
Thường quốc ở Thượng Thư đại truyện, Phạm Việp nói tiếp: “Nhà Chu suy, đến
lúc Sở xưng bá th́ Bách Việt triều cống Sở”. Lôgic ở đây là Việt Thường quốc
nằm trong Bách Việt. Nước Sở c̣n được gọi là nước Kinh. Người Sở có ḍng máu
Việt. Từ ngày Hùng Thông, hậu duệ của Dục Hùng tiếm đoạt vương hiệu, Trung
Quốc luôn coi nước Sở là man di. Không c̣n trong ṿng cương tỏa của triều
đ́nh Đông Chu nữa, nước Sở bành trướng ra măi và có thời làm chủ các chư hầu
phương đông. Đó là lư do khái niệm Giao Chỉ bị mất tích trong một thời gian
rất dài. Và đó cũng là lư do sử sách Trung Quốc khuyết đi những mô tả chi
tiết về Việt Thường quốc và nhiều vùng khác thuộc Bách Việt từ Xuân Thu đến
cuối Chiến Quốc. Sử nước Sở, sử của man di không đáng gọi là chính sử để
truyền bá nên hầu hết đă bị nhà Tần đốt hoặc thất truyền.
Sử Kư, chương Triệu Thế Gia, nhân việc năm 307 TCN Triệu Linh Vương cải
đổi trang phục giống người Hồ để cưỡi ngựa và xây dựng lực lượng kỵ binh,
viết: “Sách Dư Địa Chí nói thời Chu Giao Chỉ là Lạc Việt, thời Tần là Tây
Âu, họ vẽ ḿnh, cắt tóc ngắn để tránh giao long. Tây Âu Lạc ở về phía tây
Phiên Ngô (tức Phiên Ngung). Nam Việt và Âu Lạc có rất nhiều họ (chữ Hán là
thiên tính: hàng ngàn họ, khác với bách tính của người Trung Quốc là hàng
trăm họ). Sách Thế Bản cũng viết người Việt nhiều họ, có cùng tổ tiên với
người Sở”. Dư Địa Chí và Thế Bản là hai quyển sách đời sau chú giải Sử Kư
gốc. Như vậy xung quanh thời điển 307 TCN (nửa cuối thời Chiến Quốc) trong
vùng Giao Chỉ phía nam nước Sở có nhóm người Lạc Việt cùng tổ tiên với người
Sở.
Khi Tần diệt Sở, nước Sở bị gộp vào Trung Nguyên, khái niệm Giao Chỉ
không thấy xuất hiện. Sử Kư, Nam Việt úy Đà liệt truyện, viết: Năm 214 TCN
quân Tần cướp Dương Việt đặt 3 quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng. Quế Lâm và
Nam Hải khá rơ ràng, duy Tượng Quận đă tốn không biết bao nhiêu giấy mực mà
hai ngàn năm nay người ta chưa rơ nó ở đâu. Cũng v́ nhà Tần quá ngắn ngủi,
chiến tranh sau đó làm sách vở tiêu tán gần hết. An Nam chí lược của Lê Tắc
bảo: “Nhà Tần lấy Giao Chỉ làm Tượng Quận”.
Một khi khái niệm Giao Chỉ bị xếp lại, hẳn nhiên phải có một khái niệm
khác thay thế. Phải chăng đó là Tượng? Để mô tả thứ nào đó trừu tượng người
ta hay dùng phép tượng trưng. Giai thoại “Thầy bói mù xem voi” đă mượn con
voi nhằm nói về sự trừu tượng. Nghĩa của chữ Tượng rơ nhất trong môn cờ
tướng, người Trung Hoa đă sáng tạo ra Tượng Kỳ chậm nhất là vào thời Chiến
Quốc, khi chiến xa c̣n được coi như “ông kẹ” của chiến trường. Tṛ giải trí
siêu đẳng này h́nh tượng hóa một trận đánh thời cổ đại vào 64 ô vuông chia
đôi bởi một ḍng sông. Bàn cờ có hai quân Tượng. Đây không phải loài voi như
nhiều người lầm tưởng. Quân Tượng không bao giờ qua sông. Nó biểu trưng cho
những yếu tố trừu tượng có ảnh hưởng nhất định đến toàn cuộc như công tác
tâm lư chiến, dân vận, ư chí của con người, tinh thần xả thân hy sinh… B́nh
Nguyên Lộc trong quyển “Nguồn gốc Mă Lai của dân tộc Việt Nam” cho biết sách
Lễ Kư, chương Vương Chế ghi nhận thời Hạ, Thương, Chu, người Trung Hoa gọi
phương nam là Tượng. Triều Chu đă đặt chức quan “Tượng tư” có nhiệm vụ trông
nom việc bang giao với các man di phương nam.
Tượng quận có thể hiểu là một vùng đất phương nam tạm để đó, chưa đến lúc
xâm lăng, chưa có dịp “khai phá” và “khai thác” theo đúng ngôn ngữ Xuân Thu
– Chiến Quốc. Tượng Quận là tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo
cách của nhà Tần và nó tương đương với Giao Chỉ của nhà Chu. Giao Chỉ của
Tần Thủy Hoàng là Tượng Quận, tiếp theo Tượng Quận là Nhật Nam sẽ hoàn toàn
hợp lư với tư duy ngôn ngữ trong giới hạn kiến thức địa lư xưa kia.
Nhật Nam nghĩa là phía nam mặt trời. Sử kư viết: “Đất đai (nước Tần)…
phía nam đến miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc”. Cũng như từ Giao Chỉ, Nhật
Nam ban đầu chỉ là khái niệm và có liên quan đến thiên văn. Phần lớn đất
nước Trung Quốc ở trên Bắc Chí Tuyến (vĩ độ 23 độ 27 phút, ngang qua thành
phố Quảng Châu), do đó mặt trời với họ luôn ở về phía nam, mọc phương đông
nam và lặn phương tây nam. Rơ nhất trong ngày Đông Chí đêm dài ngày ngắn,
mặt trời lẩn quẩn hẳn về phía nam. V́ vậy khi tế trời (cúng mặt trời) thiên
tử phải quay mặt về phương nam. Có lẽ muộn nhất là thời Tần, người Trung
Quốc đă biết trái đất h́nh tṛn và tự quay quanh trục của nó. Họ tính được
quĩ đạo mặt trời (hoàng đạo) và suy luận rằng đi về phía nam đến một nơi nào
đó, muốn nh́n thấy mặt trời, muốn hưởng sự ấm áp của ánh nắng, con người
phải làm nhà quay mặt về hướng bắc.
Tư Mă Thiên viết câu trên chứng tỏ ngành thiên văn biết vậy nhưng sự thực
người Trung Quốc chưa bao giờ đặt chân đến vùng Nhật Nam. Theo đúng nghĩa
th́ Nhật Nam xa lắm, vượt qua xích đạo và Nam Chí Tuyến, ở tận các đảo phía
nam Indonesia, Papua New Guinea và Úc Châu hôm nay.
3. Sự lẫn lộn giữa khái niệm và địa danh
Nhà Tần bỏ khái niệm Giao Chỉ và dùng từ Tượng Quận. Nhà Hán nối tiếp nhà
Tần, và cũng như trường hợp nước Sở trước kia, Nam Việt của Triệu Đà đă chặn
cương thổ vương quốc Hán ở phía nam 93 năm. Nam Việt bị diệt, sự lẫn lộn
trong việc dùng từ Giao Chỉ vừa là địa danh, vừa là khái niệm bắt đầu diễn
ra. Điều này thể hiện khi họ đặt tên khu vực mới chiếm được năm 111 TCN.
Hán Thư của Ban Cố viết: “Nam Việt dĩ b́nh toại dĩ kỳ địa vi Đạm Nhĩ Chu
Nhai Nam Hải Thương Ngô Uất Lâm Hợp Phố Giao Chỉ Cửu Chân Nhật Nam cửu
quận”. Tức là: “B́nh được Nam Việt chia làm 9 quận…”. Chu Nhai, Đạm Nhĩ
thuộc đảo Hải Nam. Nam Hải, Thương Ngô thuộc Quảng Đông. Uất Lâm và phần lớn
Hợp Phố thuộc Quảng Tây. Theo tôi Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là
khái niệm, thứ khái niệm thuần thiên văn nói lên tính tự cao, tự đại, ḷng
tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán.
Người Trung Quốc dùng khái niệm Giao Chỉ để gọi chung cho 9 quận mới.
Giao Chỉ bộ là tên gọi nửa khái niệm, nửa địa danh. Quan trông coi Giao Chỉ
Bộ chỉ được đặt ra năm 106 TCN, đó là Thứ Sử Thạch Đái. Nếu các quận Giao
Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là địa danh th́ bắt buộc phải có Thái Thú trấn nhậm.
Điều này chỉ xảy ra hơn 100 năm sau, vào đầu công nguyên với Tích Quang và
Nhâm Diên. Hán Thư cũng nghi nhận năm 48 TCN, theo lời tấu của Giả Quyên
Chi, Hán Chiêu Đế đă bỏ quận Chu Nhai v́ Hán quan nơi ấy thường bị dân bản
địa chống đối, nổi dậy giết hại. Trường hợp Thái Thú Tôn Hạnh cuối thời Hán
Vũ Đế là ví dụ điển h́nh. Giả sử quận Giao Chỉ dân cư đông đúc, văn minh,
từng có nước Âu Lạc, có thủ đô của nhà nước sơ khai Văn Lang th́ thật quá
khó hiểu. Tại sao nhân dân nơi ấy “ôn ḥa” sống với ngoại bang là những ông
quan ảo, chịu bị bóc lột hàng trăm năm đến tận thời Mê Linh liệt nữ!?
Đến lúc này dù Giao Chỉ nằm trong cụm Giao Chỉ Bộ hay Giao Chỉ Quận, nó
vẫn là nơi liên giao phía nam nhà Hán với phương nam. Như vậy trải qua nhiều
trăm năm bành trướng về phương nam của người Trung Quốc, khái niệm Giao Chỉ
cũng dịch chuyển theo bước chân các đoàn quân đế quốc. Phải chăng đó là lư
do để chữ Chỉ tồn tại thêm một dạng viết có bộ túc?
Rắc rối xuất hiện ở chỗ tại sao lại có Cửu Chân chen giữa Nhật Nam (khu
vực mà người Hán chưa biết, chỉ đoán ṃ) và quận Giao Chỉ. Theo tôi Cửu Chân
nghĩa là nơi ở của mặt Trời, đại khái là Xích Đạo vậy. Cửu là số chín, số
chín tượng trưng cho Trời th́ khỏi phải bàn căi. Chữ Chân chắc chắn là gốc,
giống như “quy chân” là trở về gốc. Chân cũng có thể mang nghĩa là Trọng,
như từ Trọng Hạ (giữa mùa hạ) đă dẫn trong sách Thượng Thư ở trên. Dịch Cửu
Chân qua tiếng Việt hiện đại th́ ư nghĩa sẽ sáng tỏ không ngờ: Chân Trời!
Khái niệm Giao Chỉ, với chữ Giao đă đi song song cùng chữ Nam và nam tiến
hàng ngàn năm, đến đây đă đứng lại. Người Hán tưởng rằng họ đă đến được Xích
Đạo (Cửu Chân), cũng chẳng sai nhiều v́ giữa trưa từ ngày Xuân Phân đến Thu
Phân, mặt trời gần như luôn ở trên đỉnh đầu cư dân vùng Thanh Hóa Việt Nam.
Việc họ đoán bên kia chân trời (Cửu Chân) mặt trời chếch về phía bắc là hợp
lư. Những người Trung Quốc đến vùng biển đông thám thính hoặc giao thương
xem ra khó có thể mang theo một chuyên gia thiên văn của triều đ́nh (chỉ
quen với thư pḥng giữa kinh đô Hán). Dù sao ngữ nghĩa mới của từ Cửu Chân
và Nhật Nam vẫn chỉ là khái niệm, thứ khái niệm sinh ra do ngành thiên văn
học ngày càng chính xác hơn, thứ khái niệm cần phải có sau khi khái niệm
Giao Chỉ đă hết tác dụng, đă biến thành nửa khái niệm, nửa địa danh.
Thiên văn học của người Trung Quốc thời đó cần thêm nhiều dữ kiện thực tế
để xác tín lư thuyết. Mà muốn có thực tế th́ phải đợi, và quả là họ đă đợi
hàng trăm năm đến ngày Mă Viện nam chinh. Khoảng trống ấy đă vô t́nh làm tan
loăng tất cả ư nghĩa thiên văn trong tên gọi Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam,
để rồi chúng măi măi mất đi tính khái niệm và đường hoàng trở thành địa danh
trên bản đồ đại Hán.
Cột đồng Mă Viện dựng năm 43 ở Giao Chỉ và Tây Đồ Di cũng chính là đài
quan trắc thiên văn. Cựu Đường Thư (của Lưu Hủ hoàn thành khoảng năm 924 đến
946) viết về vấn đề này rơ nhất trong thiên Địa Lư chí thứ 4: “Mă Viện đi
qua Nhật Nam, qua Lâm Ấp, đến biên giới Tượng Lâm và Tây Đồ Di dựng hai cột
đồng ghi công tích toàn thịnh của nhà Hán. Có vài chục người không thể về
Hán (!?) bèn lưu lại dưới chân trụ đồng, đến thời Tùy đă thành hơn 300 nhà.
Người Nam Man gọi họ là Mă Lưu Nhân”.
Có hai khả năng: Một là Lưu Hủ thực sự không biết mục đích Mă Viện dựng
cột đồng là để đo cao độ mặt trời, lập bảng thiên văn và tính khoảng cách từ
Tượng Lâm về kinh đô Hán. Hai là Lưu Hủ biết nhưng tuân thủ triệt để nguyên
tắc bảo mật các bí quyết khoa học của triều đ́nh Trung Hoa, viết chỉ để cho
người biết đọc. Trong công tác thiên văn thời Mă Viện, để xác định những
vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác.
Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên
chất liệu đồng đă được chọn. Muốn đo đầy đủ th́ phải cử người ở lại làm
việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian
Việt Nam kể rằng Mă Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định
đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa
nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một ḥn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu
“Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mă Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên
văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở
tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.
4. Hàng ngàn năm sa lầy của sử học Việt Nam và Trung Hoa
Thiết nghĩ không nên kể ra đây hàng lô hàng lốc những suy diễn của các sử
gia Trung Hoa và Việt Nam về ư nghĩa sai lạc của các từ Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam từ thời Đông Hán đến hôm nay. Ai đó từng nói chân lư không bao giờ
thuộc về đám đông ở trường hợp này rất đáng tham khảo. Tôi sẽ nêu nguyên
nhân của tất cả các suy diễn ngây thơ ấy.
Sử Kư (hoàn thành khoảng thập kỷ 90, TK 1 TCN) không kể tên 9 quận phía
nam nhà Hán mà Lộ Bác Đức lấy được năm 111 TCN. Có thể Tư Mă Thiên chưa theo
kịp các diễn biến thời sự. Chín cái tên ấy chỉ xuất hiện trong Hán Thư, một
quyển sử ghi chép chuyện xảy ra từ năm 206 TCN đến năm 6 SCN của Ban Cố
(sinh năm 32 – mất năm 92). Đến Hậu Hán Thư của Phạm Việp (398 – 455), chép
sự việc từ năm 25 đến 190, th́ bắt đầu có những giải thích không căn cứ về
địa danh Giao Chỉ.
Trung Quốc từ Ân – Thương vốn đă có chức quan Thái sử ghi chép các sự
kiện diễn ra từ quá khứ đến hiện tại. Ta thấy thời của Tư Mă Thiên và Ban
Cố, chức Thái sử vẫn kiêm thêm việc nghiên cứu thiên văn, lịch pháp. Chẳng
hạn Tư Mă Thiên đă cùng Hồ Toại sửa lịch cũ thành Hán lịch. Sử Kư và Hán Thư
luôn có những chương viết về thiên văn rành mạch và kê cứu rất nhiều hiện
tượng thiên văn dọc năm tháng như Thiên Thạch (Tần Thủy Hoàng bản kỷ), điểm
đen trên mặt trời (Ngũ hành chí, Hán Thư). Do đó việc các sử quan góp ư với
vua cách đặt địa danh và khái niệm trên cơ sở hệ thống thiên văn học là hoàn
toàn dễ hiểu. Họ chưa có tư liệu thực tế về Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam th́
đành vọng đoán bằng thiên văn.
Cũng từ Tư Mă Thiên và Ban Cố trở về sau thiên văn học Trung Quốc phát
triển rất nhanh chóng. Ví như Đổng Trọng Thư tra trong giáp cốt văn mà tính
được ngày rằm tháng hai năm Vơ Đinh thứ 29 có nguyệt thực. Con người hiện
đại lần theo dương lịch th́ đúng là ngày 23 tháng 11 năm 1311 TCN có nguyệt
thực thật. Kỷ Tây Hán, các nhà thiên văn chuyên nghiệp Trung Quốc cũng đă
tính được chu kỳ sao Hỏa là 584,4 ngày, so với phương pháp thiên văn vũ trụ
hiện đại là 583,921 ngày, sai số nhỏ đến nỗi không thể tưởng tượng! Hồn
Nghi, một dụng cụ quan trắc thiên văn khá chính xác đă được chế tạo vào thời
Hán Vũ Đế, nó thể hiện đầy đủ thiên kinh tuyến, quỹ đạo mặt trời và thiên
xích đạo. Đến Trương Hoành (78 – 139), thiên văn cổ đại Trung Quốc đă lên
đến đỉnh cao nhân loại. Họ Trương chế ra Hồn Thiên Nghi biểu diễn sự vận
hành của thiên thể, có ṿng hoàng đạo và thiên xích đạo tạo thành 1 góc 24
độ trong khi thực tế nó là 23 độ 27 phút (đây chính là số hiệu chỉnh vĩ độ
Hà Nội trong bài toán thiên văn tôi đă đưa ra ở mục 1).
Do sự phức tạp và đồ sộ của những kiến thức thiên văn mới, Thái sử không
c̣n đủ sức kiêm công việc quan trắc bầu trời nữa. Tôi đoán thiên văn đă tách
ra thành một ngành riêng. Phạm Việp (398 – 455) tác giả Hậu Hán Thư có lẽ ít
am hiểu thiên văn nên ông ta không rơ ngôn ngữ của các sử gia như Tư Mă
Thiên, Ban Cố. Chính Phạm Việp đă mở ra phong trào suy diễn các khái niệm và
địa danh để lớp lớp các nhà sử học Việt – Trung sau này “tận tín thư” đi
theo. Trong Nam man truyện, Hậu Hán Thư, Phạm Việp viết: “Lễ kư xưng nam
phương viết man điêu đề giao chỉ. Kỳ tục nam nữ đồng xuyên nhi dục, cố viết
giao chỉ”. Tạm dịch: “Sách Lễ kư bảo người phương nam là man (di). Họ xăm
trán, giao chân. Tục của họ là trai gái có thể tắm chung một khúc sông nên
gọi là Giao Chỉ”. Cách giải thích của Phạm Việp vừa đầy suy diễn vừa cũ kỹ,
ông ta chỉ biên tập lời Giả Quyên Chi ghi ở Hán Thư mà thôi: “Lạc Việt chi
nhân phụ tử đồng xuyên chi dục (người Lạc Việt cha con thường tắm chung trên
một khúc sông)”. Trong tinh thần Nho Giáo Trung Hoa, Phạm Việp chẳng hiểu
làm sao mà cha con Lạc Việt có thể ḥa đồng như vậy, ông ta bèn thay bằng
trai gái cho dễ chấp nhận. Dù sao vi phạm luật “Nam nữ thụ thụ bất thân” c̣n
nhẹ hơn xâm hại Ngũ Luân!
Nếu nói mọi người đều lầm hết sẽ rất tùy tiện. Thỉnh thoảng trong các
sách ra đời sau Hậu Hán Thư vẫn thấy từ Giao Chỉ được dùng như một khái
niệm, trong ngữ nghĩa khởi thủy của nó, dù thời điểm ấy Giao Chỉ hiển nhiên
đă là địa danh cố định. Lịch Đạo Nguyên viết trong Thủy Kinh Chú (hoàn thành
năm 515): “…thời hựu kiến Sóc Phương minh dĩ thủy khai bắc thùy toại tịch
Giao Chỉ vu nam vị tử tôn cơ chỉ dă”, tức: “Vua (Hán Vũ Đế) vừa khai phá
biên thùy Sóc Phương phía bắc, vừa mở Giao Chỉ phương nam làm nền móng cho
con cháu”. Người đọc tinh ư sẽ thấy ngay cặp khái niệm bắc – nam song đối
Sóc Phương và Giao Chỉ, nó không khác cặp Sóc Phương và Nam Giao đă dẫn
trong Thượng Thư là mấy.
Có thể có một cách giải thích khác cho vấn đề này. Người Trung Quốc không
lầm, họ cố ư tung hỏa mù và diễn dịch sai lạc ư nghĩa của từ Giao Chỉ. Đây
là phương diện học thuật trong tổng thể âm mưu thực dân của đế quốc Hán.
Ngay cả ngôn ngữ họ cũng không chừa, bằng chứng là họ dùng chữ Việt bộ Tẩu
cho quốc danh nước Việt, c̣n tộc danh của người Quảng Đông lại là chữ Việt
bộ Mễ dù người bản địa cổ xưa ở Lưỡng Quảng và Việt Nam đều là người Lạc
Việt. Chính sách phân hóa, chia nhỏ các dân tộc thuộc địa để trị luôn là con
bài thâm hiểm của tất cả các đế quốc từ Á sang Âu, xuyên suốt xưa nay. Trong
bối cảnh ấy mới thấy tầm vóc những cá nhân kiệt xuất của dân tộc Việt Nam
như Lư Thường Kiệt, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh… Trái lại, ngành sử học non yếu
của Việt Nam nên có những việc làm cần thiết tự xét lại ḿnh.
____________________________________________________
B. Cội nguồn dân tộc Việt Nam
1. Lư thuyết địa đàng Phi châu và những cuộc di dân
Lư thuyết địa đàng Phi châu cho rằng loài người tiến hóa từ giống khỉ tại
châu Phi. Những cuộc di cư sau này đă đưa con người đến khắp nơi trên mặt
đất. Tôi xin dùng công tŕnh nghiên cứu di truyền của Spencer Wells làm nền
tảng cho bài viết này. [2] Mặc dù c̣n rất nhiều ư kiến của các nhà nhân
chủng học thế giới không đồng t́nh với Wells, nhưng nói chung họ chỉ thắc
mắc ở thời điểm di cư. Tôi sẽ dùng cách khảo nghiệm duy lư với văn hóa, khảo
cổ và lịch sử để cọ sát với lư thuyết di truyền của Wells, hầu mong đưa ra
một giả thuyết tham khảo.
Với kết luận của Spencer Wells, tôi tính ra: Cuộc di dân đầu tiên từ Phi
châu diễn ra cách nay 60 ngàn năm. Đoàn người đi dọc vùng đồng bằng ven biển
Nam Á, đến Đông Nam Á. Tại đây một nền văn minh đồ đá đă được h́nh thành. Từ
9 đến 12 ngàn năm trước, kiến tạo địa chất ở vành đai lửa Indonesia với sóng
thần, đất sụt đă nhấn ch́m trung tâm văn minh Tiền Đông Nam Á. Những cư dân
c̣n sót lại sau thảm họa đă chia làm hai nhánh, nhánh thứ nhất đến châu Úc,
nhánh thứ hai rẽ lên phía bắc, rồi dừng lại khá lâu bên bờ nam Trường Giang.
Có thể trước đó văn minh Tiền Đông Nam Á cũng có những làn sóng khai phá đất
mới ở hai phía bắc và nam nhưng thưa thớt và chậm chạp v́ cuối kỷ băng hà
càng xa xích đạo khí hậu càng lạnh. Cuộc di dân thứ hai cũng từ Phi châu
cách nay 45 ngàn năm. Họ đến Trung Đông, từ Trung Đông hai phân nhóm đă h́nh
thành tiến vào Ấn Độ và vùng tây bắc Trung Hoa. Cuộc di dân thứ ba (không sử
dụng trong bài viết này) diễn ra cách nay 40 ngàn năm, đoàn người đến Trung
Á và sau đó tràn qua châu Âu.
Tại sao họ ra đi? Tất cả các nền văn minh sơ khai đều thờ mặt trời. Những
chữ viết đầu tiên của nhân loại ở khắp nơi tương đồng một cách đáng ngạc
nhiên ở chữ “mặt trời”: một ṿng tṛn có chấm chính giữa. Thần mặt trời ở Ai
Cập là Ra, tại Lưỡng Hà là Samat, ở Nhật là Amaterasu O Mikami (Thiên chiếu
đại thần, Thái dương thần nữ). Vua của người Trung Quốc và cả người Inca tận
châu Mỹ đều tin ḿnh là con trời hoặc con của thần mặt trời. H́nh ảnh mặt
trời trên trống đồng Đông Sơn th́ thật ấn tượng. Về góc độ khoa học, mặt
trời là nguồn sống của trái đất, là năng lượng cho tiến hóa. Đi về phía
đông, di cư về phương đông chính là đến gần hơn với mẹ mặt trời. Và thật
không có h́nh ảnh nào đẹp đẽ bằng: loài người đă đi theo ánh sáng mặt trời
để phủ kín trái đất.
Tại sao cuộc di cư đầu tiên của người Tiền Đông Nam Á dừng lại bên ḍng
Trường Giang mà không phải xa hơn về phía bắc? Trường Giang hung dữ và quá
rộng lớn, đă phần nào cản bước đoàn di dân. Thêm nữa, theo ngành thủy văn,
Trường Giang dưới tác động của lực coriolis, bờ bắc lở trong khi bờ nam bồi
lắng. Cư dân nông nghiệp có xu hướng chọn vùng phù sa màu mỡ định cư lâu
dài. [3] Họ chỉ tiến qua bờ bắc khi đối mặt với nạn nhân măn, hoặc dưới các
nguyên cớ khác.
Phân nhánh của đoàn di dân thứ hai tiến vào trung lưu Hoàng Hà bằng hành
lang Cam Túc, xây dựng nền văn minh tạm gọi là Hoa Hạ. Ba di chỉ đồ đá có
mối liên hệ rơ ràng tạo thành tam giác trung tâm của nền văn minh Hoa Hạ:
Đại Địa Loan (hơn 8000 năm) nằm ở mạn phải ḍng Thanh Thủy, Tần An, Cam Túc;
Bán Pha (khoảng 6 ngàn năm) thuộc Tây An, Thiểm Tây; và Giả Hồ (cũng hơn
8000 năm) tại Hà Nam. Bán Pha và Giả Hồ đều về phía bờ nam Hoàng Hà. Ngoài
ra trên bờ bắc Hoàng Hà tại làng Đào Tự, Tương Viên, Sơn Tây người ta vừa
đào được 1 tường thành dài 130m, 4500 tuổi. [4] Nó cho thấy hướng phát triển
ban đầu của văn minh Hoa Hạ. Di vật của Hoa Hạ chứng tỏ nó không dính dáng
ǵ đến con người của bờ nam Trường Giang, vào thời điểm đó. Kiểu hạn canh
trong sản xuất nông nghiệp và quần cư tại các khu đô thị sơ khai cũng là đặc
điểm riêng biệt của văn minh Hoa Hạ. Như vậy nền văn minh Hoa Hạ h́nh thành
quốc gia Hạ sơ khai, khoảng năm 2200 TCN phần nào đă sáng tỏ. Các nhà khảo
cổ cũng tin rằng lúc này chế độ mẫu hệ của văn minh Hoa Hạ dần dần được thay
bằng phụ hệ. Những truyền thuyết truyền hiền, rồi truyền ngôi cho em và cuối
cùng là cho con trai trưởng của dân tộc Trung Hoa ẩn chứa quá tŕnh biến
chuyển kia. [5] Ngay cả việc Ngu Thuấn là con rể của Đường Nghiêu và đă được
Đường Nghiêu cho thừa tự ngai vàng cũng thấp thoáng nội dung mẫu hệ.
2. Sự h́nh thành và phân ră văn minh Thần Nông
Thời điểm dừng lại bên ḍng Trường Giang, đoàn di dân Tiền Đông Nam Á đă
tạo nên một không gian văn hóa và chủng tộc gần gũi khá rộng lớn: phía nam
là đồng bằng sông Cả, sông Mă (Việt Nam hôm nay), phía tây cận cao nguyên
Tây Tạng, phía đông giáp biển Thái B́nh Dương. Tôi tạm gọi đây là văn minh
Thần Nông.
Tôi đă cân nhắc hai tên gọi khác cho văn minh Thần Nông là văn minh
Trường Giang và văn minh Dương Tử. Đây là cách đặt tên phổ biến trong sử
học. Chẳng hạn chúng ta có văn minh Lưỡng Hà, văn minh Hoàng Hà. Tuy nhiên
cái tên văn minh Thần Nông hữu lư nhất mặc dù nó có thể gây ra những tranh
căi về gốc Việt hay Hoa của từ Thần Nông. Xin hăy hiểu Thần Nông là những
nhà thủy nông giỏi giang như thần thánh. Nói đến nền văn minh Thần Nông th́
không ǵ hay hơn là nói về những con người b́nh dị nhưng vĩ đại của các đồng
bằng chuyên canh lúa nước. Văn minh bao giờ cũng thuộc về cộng đồng người
xây dựng lên nó bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu xương suốt chiều dài đằng
đẵng của lịch sử.
Thổ nhưỡng và khí hậu tổng thể của khu vực quy định một số đặc điểm của
nền văn minh này: sinh sống bằng nghề nông mà chủ yếu là trồng lúa nước,
thuần hóa trâu ḅ làm sức kéo; nghiên cứu thiên văn lịch pháp phục vụ mùa
màng, làm thủy lợi; dùng cây cỏ chữa bệnh và khai sinh Đông Y; sử dụng thành
thạo ghe thuyền, đánh cá, khai thác thủy sản; họ ăn trầu, nhuộm răng, xăm
ḿnh, cắt tóc ngắn, cài nút áo bên trái…
Văn minh Thần Nông phát triển đều đặn, có nhiều thành tựu nhưng lưu cữu
hai khuyết điểm rất lớn: không tạo ra được chữ viết (hay ít ra là thứ kư tự
phổ thông, tiện dụng); do đời sống tự cung tự cấp gắn chặt với lao động trên
ruộng lúa nước nên bảo thủ, dẫn đến mất cơ hội đột phá chấm dứt chế độ mẫu
hệ. Hệ quả là nền văn minh Thần Nông tồn tại rất lâu ở dạng thị tộc, bộ lạc
hoặc liên minh bộ lạc, chậm vươn đến h́nh thức nhà nước sơ khai.
Sau một thời gian phát triển tại chỗ, những con người của văn minh Thần
Nông đủ sức vượt ḍng Trường Giang. Họ tiến lên phía bắc, giao tiếp với văn
minh Hoa Hạ cũng đang trên đường xuôi về phương nam. Xin hiểu sự giao tiếp
này bao gồm cả những tranh chấp, và không thể không có xung đột. Thần thoại
Trung Quốc kể chuyện Hoàng Đế đánh nhau với Suy Vưu (con cháu Thần Nông) nói
lên điều đó.
Văn minh Hoa Hạ và văn minh Thần Nông tiếp xúc nhau ở khoảng giữa hai lưu
vực Hoàng Hà và Trường Giang, đă góp phần tạo nên một nền văn minh bắt đầu
có hiến sử là văn minh Trung Nguyên – Hoa Hạ (Trung Hoa). Văn minh Hoa Hạ
sẵn có phần bổ khuyết khuyết điểm của văn minh Thần Nông. Nó hấp thụ tất cả
tinh túy của văn minh Thần Nông để lớn mạnh vượt bậc, rồi quay ra chèn ép
chính thân sinh Thần Nông của ḿnh. Song nó cũng thu nhận h́nh ảnh Thần Nông
vào hệ thống huyền thoại Tam Hoàng, Ngũ Đế mô tả thời khởi thủy của ḿnh.
[6] Cái tên Trung Quốc bắt đầu sinh ra từ đây. Nguyên thủy, nó mang nghĩa
quốc gia ở giữa thiên hạ v́ kiến thức đương thời chỉ mới biết hai nền văn
minh, hai chủng tộc lớn là Thần Nông và Hoa Hạ. Chỉ một phần đất đai của văn
minh Thần Nông ḥa nhập với văn minh Hoa Hạ. Phần lớn c̣n lại v́ trải trên
địa bàn quá rộng, rải rác suốt bờ Trường Giang, đặc biệt là phía nam Trường
Giang, vẫn tách biệt, đây chính là vùng Bách Việt, như cách gọi của người
Trung Hoa sau này.
Thành công rực rỡ nhất của cuộc liên giao Thần Nông và Hoa Hạ biểu hiện ở
nhà nước Sở đông đúc, rộng lớn, giàu có và tiến bộ, từng làm bá chủ chư hầu
đe dọa vương triều Thần Chu (chỉ c̣n là h́nh thức sau khi nước Sở ra đời).
Sở cũng là nước kế cuối trong lục quốc bị Tần thôn tính sau này, bằng rất
nhiều binh lực và xương máu, dù Sở giáp ranh với Tần. Tuy vậy, chưa đầy 13
năm sau khi mất nước, một vị anh hùng có tiền nhân đời đời làm tướng nước Sở
là Hạng Vũ, đă đứng lên lấy danh nghĩa phục Sở tiêu diệt nhà Tần, chia đất
cho thiên hạ và tự xưng là Tây Sở Bá Vương. Năm 202 TCN Hạng Vũ bại vong
trước Lưu Bang. Cao Tổ nhà Hán cũng là người nước Sở. Lịch sử bi hùng của
nước Sở tồn tại hơn 500 năm đă vĩnh viễn khép lại.
Lịch sử nước Sở bắt đầu bằng việc Thành Vương phong tước Tử của nhà Chu
cho Mị Dục Hùng, [7] ở vùng biên viễn phía nam vương quốc Chu. Dục Hùng vốn
từng lập công với nhà Chu. Đến đời Hùng Thông, hậu duệ của Dục Hùng (khoảng
đầu thời Đông Chu, dưới ngai Hoàn Vương năm 719 đến 697 TCN), nước Sở đă
tiêu diệt và sáp nhập rất nhiều lân bang và bành trướng đến vùng Trường
Giang. Dù không được Hoàn Vương chấp nhận, Hùng Thông vẫn tự xưng là Sở Vũ
Vương và làm chủ các nước chư hầu ở phương đông. Hùng Thông mất, con là Hùng
Si nối ngôi cùng các vương triều tiếp theo mở rộng nước Sở xa dần về hướng
đông nam, vượt qua ḍng Trường Giang hùng vĩ.
3. Nhà nước sơ khai Văn Lang
Những biến cố lịch sử diễn ra trên mảnh đất Việt Nam tương đối rơ ràng từ
thời Mê Linh liệt nữ trở về sau. Sách sử xưa nhất do chính người Việt viết
c̣n lưu truyền đến ngày nay chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 14. Tuy nhiên
có một truyền thuyết được nhắc đi nhắc lại là thủy tổ Kinh Dương Vương là
cháu 4 đời của Thần Nông, Kinh Dương Vương lấy Long nữ Động Đ́nh Hồ sinh ra
Lạc Long Quân. Lạc Long Quân cưới Âu Cơ và đẻ 100 trứng, nở trăm con. Cuộc
chia ly êm dịu diễn ra sau đó: Âu Cơ đem 50 người con lên rừng, Lạc Long
Quân dẫn số c̣n lại xuống biển. Nước Văn Lang do Hùng Vương, người con cả
theo Lạc Long Quân dựng lên, đóng đô ở Phong Châu, vùng trung du tương đối
bằng phẳng thuộc đồng bằng sông Hồng.
Rơ ràng đă có một cuộc di cư nằm ẩn trong chính truyền thuyết trên.
Khoảng cách giữa Động Đ́nh Hồ và Phong Châu là gần 1000 km theo đường chim
bay. Sâu hơn nữa, tham khảo B́nh Nguyên Lộc, tôi nghĩ có lẽ truyền thuyết
100 trứng kia nói về cuộc chia tách đại chủng tộc Thần Nông làm hai nhánh
lớn: Tây Âu và Lạc Việt. Người Tây Âu đi về vùng núi non phía tây, và ít
nhiều thay đổi tập quán sinh sống truyền thống của nền văn minh Thần Nông.
Người Lạc Việt ở lại hoặc tản về phương đông và lưu giữ gần đủ đặc điểm cũ.
Bản thân Tây Âu và Lạc Việt vẫn tiếp tục phân hóa thành nhiều nhóm nhỏ nữa.
Con số 100 trứng, đáng ngạc nhiên, trùng khớp với tên Bách Việt mà người
Trung Hoa đặt ra, để gọi những nhóm dân bờ nam trung và hạ lưu Trường Giang.
Đây rơ ràng là dấu vết giao lưu văn hóa Thần Nông và Hoa Hạ, bởi Kinh Thi có
câu “Tắc bách tư nam” (chúc có hàng trăm con trai), vậy một trăm hay bách
nghĩa là nhiều.
Nếu đồng ư với không gian truyện cổ tích là Kinh Dương Vương sinh Lạc
Long Quân ở Ngũ Lĩnh (rặng núi phía nam Động Đ́nh Hồ) th́ sẽ giải mă được
“giặc Ân” trong một truyện cổ tích khác là “Thánh Gióng”. Thật vậy, Ân –
Thương mất nước bởi dân Chu năm 1066 TCN, việc họ nam tiến trước hoặc lưu
vong sau thời điểm 1066 TCN và đụng độ với Lạc Việt là hoàn toàn có cơ sở.
Khảo cổ học đă xác định tương đối chính xác kinh đô Ân – Thương nằm giữa
tỉnh Hà Nam hiện đại, cách Động Đ́nh Hồ chỉ vài trăm cây số theo đường chim
bay. Rất có thể liên minh thị tộc mẫu hệ Văn Lang, hạt nhân của Thần Nông và
Lạc Việt, h́nh thành ở khu vực từ rặng núi Ngũ Lĩnh đến bờ nam Trường Giang
mà trung tâm là Động Đ́nh Hồ, sau khi nhà nước Ân – Thương ra đời (khoảng
năm 1700 TCN). [8] Tôi tạm tính một đời vua Hùng trung b́nh 25 năm, chuyện
Thánh Gióng xảy ra năm 1066 TCN, suy ra Hùng vương thứ 18 lên ngôi năm 741
TCN. Con số 741 TCN rất thuyết phục, v́ nó xê dịch không nhiều với năm tháng
nước Sở h́nh thành và bành trướng về phía nam. Đại Việt sử kư toàn thư ghi
năm thứ nhất họ Hồng Bàng là năm Nhâm Tuất 2879 TCN. Theo chuỗi luận của tôi
đưa ra th́ kỷ nguyên Văn Lang bắt đầu cũng từ năm Nhâm Tuất nhưng là
Nhâm Tuất 1199 TCN.
Văn minh Trung Hoa phát triển xuống, những con người bất khuất nhất không
chịu đánh mất bản sắc và lề thói để ḥa nhập với văn minh Trung Hoa đă ra
đi. Kẻ ở lại cùng người mới xây dựng nên nước Sở. Là cư dân sinh sống bằng
ruộng lúa nước, sử dụng thành thạo thuyền bè nên cuộc di cư h́nh thành hai
cách lên đường chính là bộ hành và hải hành, họ chia thành nhiều nhóm thị
tộc nhỏ túa về ba phương Tây – Đông – Nam hoặc xuôi Trường Giang ra biển.
Mục đích đầu tiên của họ là t́m kiếm một vùng đồng bằng sông nước khác lập
nghiệp. Những con người giỏi giang nhất luôn đi xa nhất, t́m được mảnh đất
ưng ư nhất, và cuối cùng họ đă đến miền bắc Việt Nam ngày nay. Hiện thực thế
kỷ 21 chứng minh điều đó, hậu duệ của đoàn người lưu vong kia lập nên Việt
Nam, quốc gia duy nhất trong Bách Việt không bị Hán hóa và thâu nhập đất đai
và con người vào nền văn minh Trung Hoa. Đường di cư trên bộ trải dài từ
Động Đ́nh Hồ, qua đồng bằng hẹp Tây Giang, Quảng Tây để đến đồng bằng sông
Hồng. Có không ít cư dân Văn Lang đă trụ lại bên ḍng Tây Giang này. Họ cũng
lập nên phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đ́nh Hồ với thủ lĩnh là
Vua Hùng, tôi tạm gọi là Văn Lang Tây Giang.
Đồng bằng sông Hồng lúc ấy cũng có thể đă có người sinh sống, nhưng chắc
chắn dân cư rất thưa thớt, đầm lầy nhiều, rừng nhiệt đới rậm rạp, mùa mưa
th́ ngập lụt tràn lan. V́ lẽ đó vùng định cư trung tâm được chọn là miền
trung du Phong Châu cao ráo. Mang trọn bản sắc Văn Lang ra đi, những con
người bất khuất, yêu chuộng ḥa b́nh và tự do vẫn gọi quê mới là Văn Lang,
lănh tụ của họ xưng là Vua Hùng, danh chính ngôn thuận tiếp nối Vua Hùng của
nước Văn Lang ở Động Đ́nh Hồ. Hành tŕnh t́m kiếm Phong Châu c̣n ít nhiều
đọng lại trong truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh, ở đời vua Hùng thứ 18.
Các di chỉ khảo cổ đă khai mở ở Việt Nam không thể bác được giả thuyết di
cư này: Phùng Nguyên niên đại 3500 năm (chưa có đồ đồng), Đồng Đậu niên đại
trên 3000 năm (đồ đồng rất ít và nhỏ như mũi tên, ŕu), G̣ Mun vào cỡ thế kỷ
8 TCN, Đông Sơn thế kỷ thứ 7 TCN. Đặc biệt, mọi di chỉ đều nằm trên các khu
đồi cao ráo, càng củng cố dự đoán về thổ nhưỡng đă nói.
Niên đại xa nhất của trống đồng t́m được ở Việt Nam và Trung Quốc cũng
rất gần nhau: khoảng TK 7 đến TK 8 TCN. [9] Địa bàn chính đào được trống
đồng rất rộng lớn, nó bao gồm bắc Việt Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quí Châu,
Quảng Tây, Quảng Đông. Ba nơi nhiều trống đồng nhất là Đông Sơn (Thanh Hoá,
Việt Nam), Vạn Gia Bá (Vân Nam) và Khu tự trị dân tộc Tráng (Quảng Tây).
Đáng ngạc nhiên là kiểu trống đồng đẹp nhất cũng là kiểu xưa nhất. Giả
thuyết của tôi lư giải được điều này: trên đỉnh cao của ḿnh, nhà nước Văn
Lang sơ khai ở Động Đ́nh Hồ, vừa bị văn minh Trung Hoa chèn ép, vừa không
vượt lên chế độ phụ hệ được, đă phân hóa thành nhiều nhóm thị tộc nhỏ trôi
giạt khắp nơi. Kỹ nghệ đúc đồng tuyệt diệu của họ lan về các hướng theo đoàn
di dân. Và thật đáng tiếc, từ đây nền văn minh khu biệt của từng đoàn người
lưu vong lần hồi thoái trào, trống đồng ngày càng thô hơn.
Có một điều rất lạ là trung lưu sông Hồng và ḍng Tây Giang khá giống
nhau. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên có viết về Diệp Du Hà với thượng
nguồn thuộc tỉnh Vân Nam, chảy vào Giao Chỉ (Bộ hay Quận?) tụ thành 3 nhánh
rồi xuôi hướng đông. Thật khó đoán định Diệp Du Hà là sông Hồng hay Tây
Giang. Có thể đây cũng là một nguyên nhân khiến cho Văn Lang Phong Châu và
Văn Lang Tây Giang ngoài yếu tố chủng tộc tương đồng, c̣n giống nhau ở mô tả
địa lư trong sử sách và văn ngôn truyền khẩu.
Văn Lang Phong Châu ở góc độ nào đó, là bước lùi so với Văn Lang Động
Đ́nh Hồ. Con người Văn Lang mất quá nhiều thứ trên đường đến châu thổ Hồng
Hà. Ràng buộc giữa các thị tộc ngày càng lỏng lẻo, dân ít, địa bàn cư trú
dàn trải, lũ lụt chia cắt, dần dần thủ lĩnh tối cao mất hết quyền lực, trở
thành biểu trưng tinh thần đơn thuần. H́nh ảnh vua Hùng trong thực tế cuộc
sống tự động biến mất, nhưng nó măi măi lưu truyền giữa tâm thức con người
Văn Lang để hoài nhớ về một thời hoàng kim bất diệt.
4. Giải cấu truyền thuyết An Dương Vương
Gần đây, việc khám phá di chỉ Tam Tinh Đôi [10] cách Thành Đô (Tứ Xuyên)
40km đă hé mở một nước Thục cổ đại có lịch sử từ năm 3000 TCN. Văn minh Thục
phát triển rực rỡ, đă h́nh thành lối quần cư đô thị bề thế hơn cả đỉnh cao
triều đại Thương – Ân. Họ là dân tộc đầu tiên của nhân loại biết sử dụng
gạch chưa nung để xây nhà cửa, thành quách. Theo nhiều nhật báo Trung Quốc
mới đây, vết tích tường thành cũ niên đại trên 3000 năm ở Tam Tinh Đôi lớn
hơn cổ thành thời Thương tại đất Ân rất nhiều. Phải chăng Thục là nhánh “lên
ngàn” của văn minh Thần Nông (tức Tây Âu, anh em với Lạc Việt) hoặc một
nhánh của đoàn di dân Tiền Đông Nam Á? Sử kư, phần “Truyện Trương Nghi” kể
rằng Tần Huệ Vương đă nghe lời Tư Mă Thác đánh Thục, truất phế Thục Vương
làm chức Hầu. Như vậy hoàn toàn có khả năng Thục Hầu và một bộ phận nhân dân
Thục muốn tránh nhà Tần bạo ngược đă lên đường lưu vong. Đoàn người đi về
phương Nam tạo nên cộng đồng Khương, sau này bị nhà Hán lấn tiếp, họ theo
ḍng Cửu Long đến vùng đất Campuchia ngày nay và góp phần xây dựng nên nền
văn minh Khơ Me kiêu hùng. Đoàn người đi về hướng đông nam vượt ḍng Trường
Giang đến Quí Châu và tây bắc Quảng Tây. Việc họ thành lập một quốc gia mới
là rất khả dĩ.
Á Đông cổ xưa chỉ có hai cộng đồng Hán và Thục sử dụng thành quách ở
những vùng đất bằng phẳng như Trung Nguyên, Tứ Xuyên. Ngay cả Triệu Đà cũng
không nghe nói đă xây thành tŕ vững chắc tại Phiên Ngung, một phần cũng v́
Phiên Ngung không bằng phẳng, đồi núi lô nhô. Chi tiết mô tả trong trận đánh
giữa Phục Ba và Kiến Đức – Lữ Gia tại Sử Kư là xác chứng: quân của Kiến Đức
– Lữ Gia bỏ thành ra hàng rất nhiều, họ nhận ấn Hán quan rồi lại quay vào
thành để chiêu dụ người khác. Xét ra thành của Triệu Đà chẳng qua là những
chiến lũy đơn giản, lấy địa thế mà lập vậy. Năm đó người Hán chỉ mới đến
Phiên Ngung, công nghệ để xây thành Cổ Loa của An Dương Vương tại đồng bằng
Tây Giang có gốc Thục Tứ Xuyên là hợp lư.
Sự kiện An Dương Vương là con vua Thục đến đây có thể đă sáng tỏ. Nước
Thục (Quí Châu – Quảng Tây) giáp giới với Văn Lang Tây Giang. Vua Thục cho
người qua hỏi con gái Hùng Vương Tây Giang làm vợ nhưng bị từ chối. Đời sau,
một trong những con trai vua Thục tấn công Hùng Vương, chiếm toàn bộ đất đai
của Văn Lang Tây Giang rồi thành lập nước Tây Âu Lạc. Thành Cổ Loa 9 ṿng
cao ráo và vững chăi trong truyền thuyết có khả năng ở đồng bằng Tây Giang
chứ không thể nằm ở đồng bằng sông Hồng được. Khảo cổ hiện đại Việt Nam đă
không t́m ra những di vật cần thiết tại di chỉ Cổ Loa Đông Anh để xác chứng
đó là Cổ Loa của An Dương Vương là dễ hiểu. Chương “Nam Việt Úy Đà liệt
truyện” của Sử Kư chép về nước Tây Âu Lạc này rất rơ, nhiều sử gia không
liên hệ được sử liệu đă mạnh dạn nghĩ Tư Mă Thiên viết nhầm Âu Lạc thành Tây
Âu Lạc! Sử Kư không chỉ 1 lần khẳng định về nước Tây Âu Lạc và người Âu Lạc.
Thái Sử Công nói về chiến tranh biên giới giữa Nam Việt và Mân Việt: “Âu Lạc
tương công Nam Việt động dao, Hán binh lâm cảnh Anh Tề nhập triều”, phải
hiểu là “Người Âu Lạc (ở Nam Việt) đánh nhau (với Mân Việt) làm nước Nam
Việt dao động, quân nhà Hán phải can thiệp, (mang ơn nhà Hán nên) thái tử
Anh Tề vào triều đ́nh (làm con tin)”. Chương Triệu Thế Gia được đời sau bổ
chú: “Sách Dư Địa Chí nói thời Chu Giao Chỉ là Lạc Việt, thời Tần là Tây Âu,
họ vẽ ḿnh, cắt tóc ngắn để tránh giao long. Tây Âu Lạc ở về phía tây Phiên
Ngô (tức Phiên Ngung). Nam Việt và Âu Lạc có rất nhiều họ (chữ Hán là thiên
tính: hàng ngàn họ, khác với bách tính của người Trung Quốc là hàng trăm
họ). Sách Thế Bản cũng viết người Việt nhiều họ, có cùng tổ tiên với người
Sở”. Chiếu theo chuỗi luận xuyên suốt ở bài khảo cứu này th́ không khó nhận
ra Lạc Việt là một vùng đất rất rộng lớn bao gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng
Đông đổ về phương nam.
Sau khi gồm thâu lục quốc nhất thống Trung Nguyên, năm 214 TCN Tần Thủy
Hoàng sai Đồ Thư đem 50 vạn quân và dân ô hợp vượt Ngũ Lĩnh, đánh Bách Việt
chiếm lấy vùng đất phía đông nam nước Tần rồi lập ra các quận Quế Lâm, Nam
Hải, Tượng. Nước Tây Âu Lạc của Thục Phán nằm trong Tượng Quận. Văn Lang
Phong Châu phía nam Tây Âu Lạc hoàn toàn không dính dáng đến cuộc chiến kia.
Tượng là một quận ảo, không cần thiết t́m hiểu Văn Lang Phong Châu có thuộc
Tượng Quận hay không. Nhân dân Tây Âu Lạc không chịu làm nô lệ đă vào rừng
kháng chiến và kết quả là đă giết được Đồ Thư.
Sách sử Việt Nam và Trung Quốc đều ghi nhận sơ sài Triệu Đà người huyện
Chân Định (nay thuộc Hà Bắc, TQ). Không ai xét sâu hơn Chân Định vốn là đất
Triệu thời chiến quốc. Sử Việt chép theo sử Trung Quốc, c̣n sử Trung Quốc
tuân thủ tư tưởng đại nhất thống của triết học Tiên Tần (khởi đi từ Khổng
Tử, với nguyên ủy “Tôn Chu nhương Di, nội chư Hạ nhi ngoại Di địch”) nên xóa
hẳn các tên gọi của Tam Tấn. Tần Đại Đế áp dụng thành công tinh hoa nhân đạo
của triết học Tiên Tần, đă chấm dứt vĩnh viễn cảnh chiến quốc nồi da xáo
thịt. Tần Thủy Hoàng ra đời tại kinh đô Hàm Đan nước Triệu. Mẹ Triệu Cơ của
ông, được Sử Kư ghi nhận là con nhà tai mắt tại đấy. Khi cha ông theo Lă Bất
Vi trốn về Tần, mẹ con Tần Thủy Hoàng phải ẩn ḿnh trong dân chúng Triệu và
chịu nhiều cảnh cơ cực. Sau khi Trung Nguyên nhất thống, người Triệu lại
phải họa đi xây Trường Thành, họ căm tức vua Tần nên bịa chuyện dè bỉu Tần
Thủy Hoàng là con hoang của Triệu Cơ và Lă Bất Vi. Dân gian c̣n đem cả nàng
Mạnh Khương gần hai trăm năm trước từ nước Tề đến khóc bên Trường Thành để
trù úm đại công nghiệp của vua Tần. [11] Sẵn ác cảm cũ, vua Tần bắt rất
nhiều con dân cứng đầu cứng cổ ở Triệu xung vào đạo quân viễn chinh của Đồ
Thư. Triệu Đà ở trong số đó. Sau này cháu Triệu Đà là Minh Vương Anh Tề làm
con tin ở Trường An cũng thành thân cùng một người con gái nước Triệu (Sử Kư
viết là người huyện Hàm Đan). Bà ta chính là Cù hậu, do làm nội ứng cho nhà
Hán chiếm Nam Việt, nên đă bị thừa tướng Lữ Gia giết. Những người Triệu bị
đày tập trung tại quận Nam Hải thời đó đă quần cư và tạo thành nhóm dân tộc
nhỏ mang tên Triều Châu, phía đông bắc tỉnh Quảng Đông Trung Quốc hôm nay.
Năm 208 TCN Triệu Đà thành lập nước Nam Việt. Hán Cao Tổ b́nh định xong
Trung Nguyên không c̣n sức giải quyết Nam Việt, nên năm 196 TCN đành phong
Triệu Đà làm Nam Việt Vương, và dặn Nam Việt phải ḥa hợp với Bách Việt. Khi
Cao hậu tiếm quyền, Trường Sa Vương cấm vận kinh tế Nam Việt ḥng làm Nam
Việt suy yếu để dễ bề xâm lăng. Triệu Đà lập tức đem quân đánh Trường Sa,
cắt đứt đường thông thương với nhà Hán và chốt giữ các nơi hiểm yếu. Cao Hậu
sai Lâm Hi Hầu hỏi tội Triệu Đà, chiến cuộc biên cương giằng co hơn một năm
rồi nhà Hán băi binh v́ đám tang Cao Hậu.
Rảnh tay với Hán, Triệu Đà dùng tiền của đút lót quư tộc Tây Âu Lạc và
Mân Việt để hai nước này chịu lệ thuộc. Sự kiện Trọng Thủy kết hôn với Mỵ
Châu chắc chắn ghi nhận thỏa hiệp dễ dăi của những người lănh đạo Tây Âu Lạc
trước âm mưu của Triệu Đà. Trận chiến đánh vào ḷng người toàn thắng, năm
179 TCN Triệu Đà tấn công và sát nhập Tây Âu Lạc vào Nam Việt. Từ đó Nam
Việt rất rộng lớn, Triệu Đà đường hoàng tự xưng Nam Việt Vũ Đế, đi xe mui
lụa vàng như vua Hán. Triệu Đà người Hoa Bắc chỉ quen đánh nhau trên bộ, cho
nên không thể tồn tại khả năng ông ta đă tấn công An Dương Vương tại đồng
bằng sông Hồng. Măi đến đầu công nguyên đường bộ khai thông Hoa Nam và Bắc
Việt vẫn rất khó đi nên đoàn quân của Mă Viện mới phải dùng thuyền.
Một bộ phận nhân dân Tây Âu Lạc, những con người bất khuất từng giết Đồ
Thư, đă đem tàn quân và bầu đàn thê tử chạy đến châu thổ Hồng Hà. Tôi nghĩ
có một nhánh nhỏ người Tây Âu Lạc ra đi bằng thuyền đă ghé vào bờ biển trung
bộ Việt Nam. Họ trở thành hạt nhân của nền văn minh Chàm bắt đầu khởi sắc từ
thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Những liên hệ Thục – Khơ Me – Chàm trong bài
viết này chỉ thuần lư thuyết, trên cơ sở nghiên cứu văn bản và h́nh ảnh,
nhưng tôi tin đô thị sơ khai Cổ Loa, cách dùng gạch không nung của người Khơ
Me và người Chàm chắc chắn có dấu ấn văn minh Thục cổ đại.
Người Tây Âu Lạc và người Lạc Việt ở Văn Lang Phong Châu rất gần gũi về
chủng tộc và có thể họ vẫn c̣n hiểu ngôn ngữ của nhau sau gần 150 năm xa
cách ( tạm tính từ năm 316 TCN Thục Vương bị Tần truất phế, đến năm 179 TCN
năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Nhóm dân Tây Âu Lạc mất nước nhanh chóng
ḥa hợp cùng nhân dân bản xứ trên mảnh đất bắc Việt và gọi nơi đây là Âu
Lạc. Họ nối các g̣ đất, đồi nhỏ thành đê bao ngăn thủy triều và nước lụt tại
Cổ Loa, Đông Anh và quần cư trong ấy. Đến năm 43, Mă Viện củng cố hai ṿng
ngoài và xây thêm ṿng thành nhỏ thứ ba ở giữa để tạo nên Kiển Thành. Độ cao
của dấu vết tường thành Cổ Loa Đông Anh xấp xỉ cao độ các con đê hai bờ sông
Hồng, sông Đuống xung quanh, xác tín giả thiết Cổ Loa là đê hơn là thành
lũy.
Nhân dân Âu Lạc ở đồng bằng sông Hồng lúc đó đă thoát nạn xâm lăng của
Triệu Đà và yên ổn sinh sống, làm ăn. Họ hấp thu tất cả bản sắc Tây Âu Lạc
và những câu chuyện truyền miệng về Vua Hùng Văn Lang Tây Giang, về “Thục
Vương tử” tên Phán, về thành Cổ Loa, về Nỏ Thần cùng Mị Châu và Trọng Thủy.
Chính sự tương đồng như nhất của hai phiên bản Văn Lang Phong Châu và Văn
Lang Tây Giang là chất keo kết dính con người và lịch sử Việt Nam cổ đại
thành một khối tưởng như không có mối nối.
Người Tây Âu Lạc không di cư xuống đồng bằng sông Hồng hiện tại đă trở
thành một nhóm dân tộc thiểu số lớn ở Hoa Nam. Đó là người Tráng cư trú rải
rác ở Vân Nam, Quảng Đông và tập trung chủ yếu tại khu tự trị Tráng Quảng
Tây với thủ phủ là thành phố Nam Ninh, cách Hà Nội chưa đầy 400 km. Theo số
liệu thống kê dân số năm 2000, dân tộc Tráng có trên 16 triệu 178 ngàn
người. Nói chung người Tráng mang bản sắc rất riêng so với dân tộc Hán ở Hoa
Nam. Họ vẫn sử dụng trống đồng trong các lễ hội đầy màu sắc. Họ cũng có hệ
thống chữ viết h́nh thành giống cơ sở chữ Nôm Việt Nam. Nơi lưu giữ truyền
thống chính yếu của dân tộc Tráng là tổ chức làng xă với câu nói bất hủ:
“Thà bán ruộng đồng của cha ông để lại c̣n hơn bán đi ngôn ngữ riêng của cả
dân tộc”. Kư ức dân gian của họ vẫn c̣n nguyên câu chuyện hoàng tử ở rể với
bảo kiếm và nỏ thần về cơ bản rất giống chuyện Mị Châu – Trọng Thủy của Việt
Nam. Trong nhiều ngữ cảnh chữ Tráng đồng nghĩa với chữ Hùng trong từ Hùng
Vương, chúng cũng có thể ghép lại thành một từ hoàn hảo hơn là “Hùng
Tráng”.[12]
Năm 111 TCN Nam Việt bị Lộ Bác Đức xóa tên khỏi bản đồ. Nhà Hán cho người
sang thuyết phục nhân dân Tây Âu Lạc theo ḿnh, với chính sách rất thâm độc
là để quí tộc Tây Âu Lạc (những kẻ đă bị Triệu Đà mua chuộc) tiếp tục quản
lư những vùng đất của họ. Sử Kư viết: “Hoàng Đồng từng là tả tướng Âu Lạc.
Ông ta chém Tây Vu vương để theo nhà Hán và được phong làm Hạ Lệ Hầu năm 110
TCN”. Theo tôi Tây Vu không phải địa danh mà chỉ là khái niệm vùng đất chư
hầu phía tây với gốc tọa độ là kinh đô Phiên Ngung của vua Nam Việt. Rất dễ
hiểu Tây Vu chính là Tây Âu Lạc sau khi bị Triệu Đà thôn tính. Các sử gia sử
dụng Tây Vu như một địa danh đă vô t́nh xem Tây Vu ở Tây Âu Lạc cũng là Tây
Vu ở Âu Lạc thời Mă Viện (tức vùng đất phía tây đồng bằng sông Hồng). Chi
tiết này rất quan trọng, nó làm cho người ta tưởng Tây Âu Lạc (Quảng Tây) và
Âu Lạc (Bắc Việt Nam) là một. Hậu Hán Thư, Mă Viện liệt truyện viết: “Viện
tấu ngôn Tây Vu huyện hộ hữu tam vạn nhị thiên, viễn giới khứ đ́nh thiên dư
lư, thỉnh phân vị Phong Khê, Vọng Hải nhị huyện, hứa chi. Viện sở quá triếp
vi quận huyện trị thành quách, xuyên cừ quán khái, dĩ lợi kỳ dân”. Nghĩa là:
“Mă Viện tâu rằng vùng đất phía tây của huyện đặt sở trị (có thể là Long
Biên của Tô Định hoặc Mê Linh) có ba vạn hai ngàn hộ, từ biên giới xa đến sở
trị hơn ngàn dặm, xin chia thành hai huyện Phong Khê, Vọng Hải, (vua) đồng
ư. Viện nhân đó liền lập quận huyện sửa thành quách, khơi thông kênh rạch
tưới tiêu, làm lợi cho dân chúng”. Trong câu Hán văn, chữ “huyện” nằm sau
“Tây Vu” với chữ “đ́nh” trong cụm “viễn giới khứ đ́nh” có sự liên hệ ngữ
cảnh. Sơ ư một li bỏ qua ngữ cảnh ấy đă khiến thành Cổ Loa truyền thuyết của
An Dương Vương đi trên dưới 300 km từ Quảng Tây đến Đông Anh Hà Nội!
Năm 110 TCN nhà Hán phong tước cho Hoàng Đồng. Sau đó Thạch Đái được cử
sang làm Thứ sử Giao Chỉ bộ, phủ trị ở Quảng Tín, quận Thương Ngô. Với sự
giúp sức của Hoàng Đồng, Thạch Đái ủy lạo và hợp thức hóa danh vị Lạc Hầu,
Lạc Tướng bằng ấn đồng đeo cổ. Chắc chắn mục đích tối thượng của Thạch Đái
là âm thầm chia rẽ các liên minh của quí tộc Tây Âu Lạc, không cho Lạc Hầu,
Lạc Tướng có cơ hội đoàn kết xây dựng nhà nước chống xâm lăng.
Trong hệ thống hành chính Hán, nước Tây Âu Lạc trở thành quận Hợp Phố.
Tôi cả quyết điều này v́ trong 9 quận của Giao Chỉ Bộ th́ Chu Nhai và Đạm
Nhĩ thuộc đảo Hải Nam, Nam Hải tức Phiên Ngung và Uất Lâm tức Quế Lâm thuộc
nam Quảng Đông và bắc Quảng Tây; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam chỉ là khái
niệm về các vùng đất phương nam; c̣n lại Thương Ngô và Hợp Phố để suy xét.
Sử Kư, Nam Việt Úy Đà liệt truyệt viết: “Thương Ngô Vương là Triệu Quang là
người cùng họ với Việt Vương, nghe quân nhà Hán đến, cùng quan huyện lệnh Kê
Dương của Việt tên là Định tự quyết định đi theo nhà Hán; quan giám quận Quế
Lâm của Nam Việt là Cư Ông dụ dân Âu Lạc đi theo nhà Hán”. Rơ ràng cái tên
Thương Ngô đă có trước năm 111 TCN. Chúng ta chỉ c̣n mỗi chọn lựa là nhà Hán
đă lấy đất Tây Âu Lạc làm quận Hợp Phố.
Đồng bằng sông Hồng giờ đây được người Hán gọi là quận Giao Chỉ, một quận
ảo, một vùng đất nằm trong hệ thống khái niệm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Nền chính trị xă hội Âu Lạc chưa đủ chín để thống nhất các khu tự trị riêng
biệt của Tù trưởng, Tộc trưởng thành quốc gia, song với kinh nghiệm xương
máu ở Tây Âu Lạc, người Âu Lạc chắc cũng có những quan hệ mềm dẻo với các
quận lân cận của nhà Hán. Người Thục gốc Tây Âu Lạc mang theo văn minh đô
thị đến Cổ Loa Đông Anh dần dần tự đồng hóa ḿnh với cư dân bản xứ. Đặt giả
định Âu Lạc là một nhà nước hoàn thiện, con người Âu Lạc có ư thức sâu sắc
về quốc gia và từng bị Triệu Đà thôn tính bằng quân sự (như quan niệm của sử
sách Việt – Trung lâu nay), ta sẽ thấy diễn biến lịch sử ôn ḥa từ năm 111
TCN đến năm 34 tại đồng bằng sông Hồng là không b́nh thường.
Thực ra những địa danh, nhân danh của khu vực phía nam Trường Giang ghi
trong cổ sử Trung Quốc như Sử Kư, Hán Thư, Hậu Hán Thư rất tương đối và khập
khiễng. Sử gia phải dùng Hán tự kư âm địa phương ngôn nên khá khó khăn, hậu
quả là đôi khi họ bỏ qua phương ngôn để dùng chữ Hán thuần khái niệm mô tả
tên đất, tên người. Cái tên Tây Âu Lạc là một ví dụ. Âu Lạc mang nghĩa đất
nước, tổ quốc, nhưng khi đi vào Hán sử Tây Âu Lạc trở thành tên nước. Tuy
vậy ngày nay chúng ta không thể biết An Dương Vương gọi tổ quốc, gọi “Âu
Lạc” của ḿnh là ǵ nên không thể dẹp bỏ cụm từ Tây Âu Lạc kia.
Sau cả thế kỷ ổn định và phát triển trong nước, xă hội Hán cuối cùng cũng
có những thay đổi về chất và lượng, bắt đầu manh nha công cuộc cải cách lớn
của Vương Măng. Đầu công nguyên, ḷng tham của vua Hán sống dậy, lập tức
Nhâm Diên và Tích Quang được cử sang quận Giao Chỉ và Cửu Chân tiến hành
những chính sách mị dân, nhằm thăm ḍ tiềm lực thuộc địa cũng như khả năng
phản kháng của nhân dân nếu áp đặt cai trị trực tiếp mà không dùng đến binh
lực. Công việc của nhóm này chưa xong th́ Vương Măng tiếm ngôi, Trung Nguyên
hỗn loạn. Sự kiện lịch sử ở thời điểm này rất rơ ràng. Giao Chỉ Bộ (bao gồm
9 quận cũ, trong đó có quận Giao Chỉ, Cửu Chân) không thuần phục Vương Măng
đă củng cố các quận, cắt đứt liên lạc với trung ương và chào đón Hán dân
chạy loạn, di cư để tạo vây cánh. Vương Măng bị diệt, năm 29 Thứ Sử Giao Chỉ
Bộ là Đặng Nhượng mới sai sứ về cống nhà Đông Hán.
Có lẽ âm mưu xâm lăng bắt đầu với Nhâm Diên và Tích Quang đă được Quang
Vũ Đế cân nhắc. Năm 34 Tô Định nhậm chức Thái thú quận Giao Chỉ rồi áp dụng
chế độ kềm kẹp hầu mong biến mảnh đất Âu Lạc (thuộc quận Giao Chỉ ảo hôm
nào) thành miếng bánh ngon trên bàn tiệc thực dân. Dưới sức ép ấy, nhân dân
đồng bằng sông Hồng đă nổi dậy. Mê Linh liệt nữ thất bại trước Mă Viện chính
thức biến Giao Chỉ và Cửu Chân thành quận huyện trực trị và xác thực của nhà
Hán, mở đầu kỷ nguyên 800 năm nô lệ cay đắng trên mảnh đất tiền Việt Nam.
Cách tính thời gian bắc thuộc của tôi là có căn cứ, v́ có bớt ra vài đoạn
gián cách người Việt giành được độc lập như thời Lư Nam Đế và Khúc Thừa Dụ.
____________________________________________________
C. Đôi nét văn hóa
1. Từ Kinh Dịch đến chữ viết của tổ tiên người Việt Nam
Trong quá khứ, không ít sử gia Việt Nam đă nghiệm rằng Kinh Dịch chứa rất
nhiều yếu tố vay mượn từ văn minh Thần Nông. Gần đây một bài báo ở Việt Nam
tự hào tuyên bố Kinh Dịch chính là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt.
Tôi quan sát rất kỹ các tranh luận xưa nay và tự hỏi: “Ngôn ngữ điện toán
hiện đại chỉ cần hai tín hiệu CÓ và KHÔNG, khi thể hiện trên giấy nó tương
đương số 1 và số 0. Năo điện toán dễ dàng đọc mọi văn bản chỉ toàn 0 và 1
đan xen, nối nhau thành chuỗi, v́ tốc độ xử lư thông tin của nó rất cao.
Nguyên lư khởi đầu của Dịch là Âm Dương sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ
Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái. Sau Bát Quái c̣n có thêm 64 Quẻ. Kư hiệu
Dương là một vạch liền, Âm là một vạch đứt. Hoàn toàn tồn tại khả năng văn
minh Trung Hoa đă mượn thứ kư hiệu này của văn minh Thần Nông và phát triển
thành Kinh Dịch. Như vậy tại sao không thể đặt giả định hệ thống kư hiệu xây
dựng từ hai đơn tố Âm và Dương là những chữ cái của một thứ ngôn ngữ bí hiểm
nào đó trong văn minh Thần Nông”.
Đến đây th́ tôi thấy cần xét lại một “khuyết điểm lưu cữu lớn” của văn
minh Thần Nông là không có chữ viết, đă đề cặp ở trên. Hai đơn tố Âm và
Dương rơ ràng đă đan xen, tạo thành chuỗi. Việc nó có thể dùng làm số đếm
(hệ nhị phân), chữ cái hoặc chữ viết hay không, không c̣n phụ thuộc vào khả
năng biểu đạt của hai đơn tố ấy, mà phụ thuộc vào khả năng xử lư tín hiệu
của con người thời đó. Tôi đă loại bỏ được chất hoang tưởng trong giả định
của ḿnh.
Tôi đă đến viện bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh xem 1
chiếc trống đồng Đông Sơn. Trống đồng là bảo vật của dân tộc Việt Nam. Rất
nhiều nhà khoa học đă đồng ư trống đồng lưu giữ dấu ấn thờ mặt trời của con
người buổi b́nh minh lịch sử. Ở giữa mặt trống có mặt trời tỏa tia. Nửa
ngoài mặt trống có 2 cặp ṿng tṛn đồng tâm chứa rất nhiều vạch liền xếp
cạnh nhau. Theo ngôn ngữ Dịch, một vạch là Dương (trong lưỡng nghi), hai
vạch là Thái Dương (trong tứ tượng), ba vạch là Càn (trong bát quái), sáu
vạch là Càn Vi Thiên (trong 64 quẻ). Tất cả đều chỉ mặt trời hoặc ông trời.
Nếu nói những nét liền kia nằm cạnh nhau là những chữ CÀN - CÀN – CÀN… liên
tục tức TRỜI - TRỜI - TRỜI… liên tục th́ khả dĩ chăng? Hay Thái Dương – Thái
Dương – Thái Dương…? Đây chỉ là sự t́nh cờ th́ thật lạ. Nhiều vạch quá, nh́n
qua tủ kiếng tôi không thể đếm được bao nhiêu vạch. Nếu tổng số các vạch đó
luôn chia hết cho 6, ở bất cứ chiếc trống đồng nào th́ giả thuyết của tôi
hữu lư nhất. Ngoài ra c̣n có một ṿng tṛn đồng tâm khác chạy những đường
hoa văn h́nh “dấu ngă”, liên kết các “dấu ngă” này là những ṿng tṛn nhỏ,
có chấm chính giữa. Đây cũng có thể là chữ “mặt trời” giống như chữ “mặt
trời” ở nhiều nền văn minh sơ khai khác.
Giả thuyết tôi đưa ra nếu đúng sẽ dẫn đến sự xét lại: Ngôn ngữ Dịch là
của văn minh Thần Nông. Dùng cơ sở “Phục Hy đặt ra bát quái” [14], Khổng Tử
đắp tượng Văn Vương và Chu Công cho học thuyết của ông, bằng cách khẳng định
hai người này đă viết “Thoán từ” và “Hào từ”. Khả năng “Thoán từ”, “Hào từ”
và “Dịch truyện” đă được chính Khổng Tử biên soạn, là rất lớn. Cho đến lúc
này, theo tôi, chỉ nên đặt câu hỏi Kinh Dịch là di sản sáng tạo của tổ tiên
người Việt Nam chăng? Chúng ta chưa có nhiều bằng chứng thuyết phục, chưa so
sánh được ngôn ngữ Dịch khởi thủy với Kinh Dịch. Lịch sử Trung Hoa vẫn tồn
nghi nguồn gốc Kinh Dịch hai ngàn năm nay. Người Việt Nam hiện đại đang có
niềm tin xác đáng hơn bao giờ hết để bước vào cuộc truy t́m bản quyền Kinh
Dịch. “Mỏ vàng nhân văn” này hứa hẹn trữ lượng nguồn sống tinh thần vô biên
cho con cháu Tiên – Rồng. Tóm lại, tôi tạm dừng công việc của ḿnh ở đây.
Nếu có những người ủng hộ trí tưởng tượng của tôi, xin hăy t́m đến các di
vật khảo cổ. Câu trả lời thật thuyết phục c̣n ở rất xa và có thể chẳng bao
giờ ta thấy được. Tuy nhiên tṛ truyện với các vật tạo tác linh thiêng của
tổ tiên ḿnh không bao giờ nhàm chán và vô nghĩa. Dù rằng sẽ không ai chứng
minh được tôi đúng song chứng minh tôi sai lại càng khó hơn. Cuối cùng cách
giải mă ngôn ngữ trên trống đồng của tôi vẫn nên tham khảo, v́ không lời
khen tặng nào là quá đáng đối với trống đồng và những con người cổ xưa đă
đúc nên chúng.
2. Những thông điệp nhân văn
Ngoài yếu tố lịch sử, truyền thuyết Kinh Dương Vương và An Dương Vương
c̣n mang những thông điệp nhân văn luôn cần được con người Việt Nam ở bất kỳ
thời đại nào giải mă.
Đất nước và tổ quốc: Sử Kư Tư Mă Thiên trong chương “Khổng Tử thế gia”
thuật lời Khổng Tử: “Khâu này nghe nói… Quái vật do nước sinh ra là con
rồng”. Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của “nước”. Ngôi
nhà của “nước” tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là “nước”.
Mẹ Âu Cơ tượng trưng cho “đất”. Chữ Âu từng được Trần Thánh Tông dùng: “Xă
tắc lưỡng hồi lao thạch mă – Sơn hà thiên cổ điện kim âu”. Hồ Quư Ly cũng
từng cải tên núi Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) thành Kim Âu. Thành ngữ “Tấc
đất tấc vàng” khá gần gũi với “kim âu”. Ngựa đá đứng trên đất vàng, thử hỏi
làm sao mà non nước Việt Nam chẳng vững chăi Vạn Xuân. [15]
Nền văn minh lúa nước được xây dựng từ “Đất” và “Nước” là điều không ai
có thể phủ nhận. Người Việt Nam c̣n gọi tổ quốc ḿnh là “Đất nước” có nguyên
căn sâu xa như vậy. Chuỗi luận này có thể dẫn đến việc giải nghĩa từ Âu Lạc
là “Đất nước”. Nếu bạn đọc thay các chữ “Âu” bằng “Đất”, “Lạc” bằng “Nước”
vào toàn bộ bài viết này, tôi tin nội dung tôi muốn chuyển tải sẽ sáng tỏ
hơn nhiều. Biết đâu cuộc chia ly của cha rồng mẹ tiên trong truyền thuyết
lại chính là dấu ấn của một đợt hạn hán khủng khiếp nơi đồng bằng phía nam
trung lưu Trường Giang.
Bài học đoàn kết: Mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân đă chia rẽ, làm suy yếu
nền văn minh Thần Nông. Hai nhánh Lạc Việt và Tây Âu, dù người xuống biển,
kẻ lên rừng nhưng đều mất địa bàn sinh sống, phải bước vào hành tŕnh ra đi,
trôi giạt. Cả ngàn năm sau họ mới t́m lại được nhau trong nhà nước Âu (Cơ) –
Lạc (Long Quân) sơ khai, non trẻ và yếu ớt.
Bài học chiến tranh: Mỵ Châu đại diện cho nhân dân Tây Âu Lạc, Trọng Thủy
đại diện cho người Nam Việt. Họ chính là nạn nhân đầu tiên và cuối cùng của
chiến tranh. Nỗi đau của dân tộc này biến thành ngọc trai, rửa ở cái giếng
ai oán thăm thẳm của dân tộc kia, sẽ lấp lánh vẻ đẹp vĩnh hằng của ḥa b́nh
và ḥa hợp.
Bài học cảnh giác: Cảnh giác, trước tiên là cảnh giác với chính ḿnh,
cảnh giác với kẻ thù ở hàng thứ hai. Nhà cầm quyền Tây Âu Lạc đă bị vàng bạc
và hôn nhân chính trị lung lạc. Ỷ thành cao, vũ khí lợi hại, An Dương Vương
buông thả, ruồng bỏ nhân tài Cao Lỗ, khiến nước mất nhà tan.
Biển cả và tự do: Lạc Long Quân là con rồng của biển cả. Ông dặn con cháu
nếu nguy cấp hăy quay về phía biển gọi “Cha ơi!”. Bại trận, An Dương Vương
ra bờ biển, lạnh lùng xử tử Mỵ Châu rồi lấy sừng tê rẽ nước mà đi. Thông
điệp “ra với biển” đă trở thành tiềm thức trong khối óc mỗi con người Việt
Nam từ đó trở đi. Sau này dân Việt Nam đă hơn một lần ra với biển đi t́m tự
do: những tùy tướng của Mê Linh liệt nữ chạy vào Cư Phong rồi lên thuyền
thẳng tiến đến Malacca, họ là người Minangkabau ở Maylaysia và Indonesia hôm
nay; hậu duệ nhà Lư th́ giong buồm đến Cao Ly; Hồ Quư Ly đáng lẽ không bị
bắt làm tù binh nếu không tắp vào bờ biển bắc trung bộ… Thông điệp “ra với
biển” ở thế kỷ 21 chắc chắn là mở ṿng tay Việt Nam với bè bạn năm châu, từ
bỏ suy nghĩ thủ cựu, chấm dứt các h́nh thức bế quan tỏa cảng.
3. Khuất Nguyên đă khóc cho văn minh Thần Nông
Khuất Nguyên sinh năm 343 TCN và mất năm 278 TCN. Ông bắt đầu làm quan
khi mới 21 tuổi, dưới ngai vàng của Sở Hoài Vương. V́ chủ trương chính trị
của Khuất Nguyên không được tôn trọng, cộng thêm dèm pha, Hoài Vương cách
chức ông. Nghe lời bọn xiểm nịnh, Hoài Vương bại vong dưới đao kiếm nước
Tần. Con cả Hoài Vương là Khoảnh Tương Vương lên ngôi lại tiếp tục tin nịnh
thần, bắt Khuất Nguyên lưu đày xuống Giang Nam (khu vực Động Đ́nh Hồ). Ông
giải thích chuỗi sự kiện này như sau: “Tất cả đời đều nhơ đục, chỉ một ḿnh
ta trong, tất cả mọi người đều say, riêng một ḿnh ta tỉnh, cho nên ta bị
đuổi”.
Sử Kư Tư Mă Thiên viết (thực ra đoạn này của Hoài Nam Vương Lưu An, Tư Mă
Thiên dẫn lại): “Ly Tao là nỗi buồn trong chia ly… Thơ Quốc Phong mê sắc mà
không dâm, thơ Tiểu Nhă oán trách mà không loạn. Ly Tao thực là gồm được cả
hai… Văn ông (Khuất Nguyên) ngắn gọn, kín đáo, chí ông trong sạch, nết ông
thanh cao; tuy nói những điều vụn vặt, nhưng ư nghĩa rất rộng; việc nhắc đến
tuy gần nhưng nghĩa th́ xa… Thật là ở bùn mà trong trắng chẳng lây đen”.
Khởi dư thân chi đạn ương hề
Khủng hoảng dư chi bại tích [16]
Ly Tao là đỉnh cao, là cảm hứng và xuất phát điểm của Sở Từ. Xét trên
quan niệm mới về tính đa nguồn gốc của văn minh Trung Hoa th́ ảnh hưởng của
Kinh Thi đến Sở Từ chính là giao lưu văn hóa. Kinh Thi khởi đi từ thơ hai
chữ khắc trên giáp cốt văn đời Thương, đến thời Chiến Quốc nó ḥa cùng Sở Từ
và chảy qua ngũ ngôn Kiến An (Hậu Hán) rồi xuôi thời gian làm thành ḍng
Đường thi trác việt. Những bài Sở Từ có thể hát lên dần chuyển hóa thành
Nhạc Phủ (đầu Hán), c̣n nhiều tác phẩm vận điệu trúc trắc là trực tổ của lối
văn Phú Tụng đời sau. Trên tổng thể, Sở Từ mang bản sắc rất riêng của nước
Sở (đứa con sinh ra bởi văn minh Hoa Hạ và Thần Nông). Đặt Sở Từ vào cội rễ
văn minh Thần Nông (mẹ đẻ của Lạc Việt) mới thấy hết sự vĩ đại và bất hủ của
Ly Tao và tác giả Khuất Nguyên.
Đọc Khuất Nguyên Liệt Truyện trong Sử Kư tôi thấy Tư Mă Thiên có sự đồng
cảm thân phận cao độ với Khuất Nguyên. Song, vượt lên giao cảm cá nhân, sự
nghiệp của Khuất Nguyên là tiếng nói của cả một nền văn minh độc lập, đau
đớn nh́n chính ḿnh đang vật vă trong làn sóng đồng hóa thô bạo bằng can
qua. Là tinh hoa của văn minh Sở, Sở Từ đă có những đóng góp cực kỳ lớn lao
cho văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu thật kỹ Sở Từ, gạn lọc pha tạp và ảnh
hưởng, tôi tin rằng người Việt Nam hiện đại sẽ bàng hoàng nhận ra ánh sáng
huy hoàng bất diệt của văn minh Văn Lang hôm nào.
“Tứ ngọc cù dĩ thừa ê hề. Khạp ai phong dư thượng chinh”. Tạm dịch: cưỡi
con ngựa ngọc dũng mănh như loài rồng không sừng, ngồi xe có trang trí lông
chim Trĩ, che gió bụi để bay bổng (thoát khỏi trần tục). Bạn đọc có nhận ra
chiếc xe cắm lông chim Trĩ, và những h́nh khắc trên trống đồng có một tương
quan tất yếu hay không? Nếu chưa tin tưởng, xin nhớ lại Thượng Thư của Khổng
Tử từng viết: “Đời Thành Vương (1063 đến 1026 TCN) Việt Thường quốc phía nam
Giao Chỉ đem bạch trĩ hiến cống, giao hảo với nhà Chu”. Người Sở c̣n được
gọi là người Kinh, người Việt. Sách Thuyết Uyển có dịch bài Việt nhân ca
(của người Sở, viết bằng ngôn ngữ Sở) như sau: “Kim tịch hà tịch hề, khiên
trung châu lưu. Kim nhật hà nhật hề, đắc dữ vương tử đồng chu”.
Người Lạc Việt thờ trời và rất hay hỏi trời. Ví như câu ca “Bắc thang lên
hỏi ông trời…”. Tác phẩm của Khuất Nguyên mang rất nhiều nét văn hóa Lạc
Việt, đó là lư do ông có hẳn một tác phẩm “Hỏi trời – Thiên vấn” gồm đến 189
câu hỏi dành cho ông trời! Đoạn kết ông viết: “Ta báo cho các bậc tiền nhân
nước Sở biết rằng nước nhà đang lúc khuynh nguy, sợ khó được trường tồn”.
Tác phẩm của Khuất Nguyên viết bằng ngôn ngữ nước Sở, muốn thưởng thức
trọn vẹn cái hay cái đẹp th́ phải đọc bằng giọng Hồ Nam. Đặc điểm này càng
chứng tỏ Kinh Thi và Sở Từ không cùng cội rễ. Thật vậy, đọc Kinh Thi với âm
Hán Việt vẫn thấy nó du dương không kém thơ Đường, nhưng nhạc tính của Sở Từ
th́ không thể bảo tồn nơi Hán Việt. Theo Nguyễn Tài Cẩn, [17] âm Hán Việt
chủ yếu là âm Hán thời Đường, cho nên tiếp cận Sở Từ rất cần lao lực và
những con đường hoàn toàn mới.
Nhạc kư của Khổng Tử nói: Phàm âm thân đều xuất phát từ tấm ḷng của con
người. Sự rung động của t́nh cảm sẽ tạo nên âm thanh, từ âm thanh sẽ tạo ra
lời ca tiếng hát. Căn cứ vào âm nhạc để biết thời thế. Nếu thời thế b́nh yên
th́ âm nhạc êm dịu, c̣n thời thế loạn lạc th́ âm nhạc ai oán, nếu chính trị
đồi bại th́ có lời ca ai oán v́ mất nước, sẽ có sự buồn nhớ đau thương để
nói lên nỗi thống khổ của người dân. Theo Đại Việt Sử Lược (1388): Mùa đông
năm Nhâm tuất 1202 Lư Cao Tông đi chơi ở hành cung Hải Thanh. Ở đấy đêm nào
cũng sai nhạc công khảy đàn Bà Lỗ, xướng điệu hát phỏng theo nhạc khúc Chiêm
Thành, âm thanh ai oán thảm thiết buồn bă oán hờn. Những kẻ tả hữu nghe đến
đều nghẹn ngào rơi lệ. Có vị tăng phó là Nguyễn Thường thưa: “Tôi thấy lời
tự trong kinh Thi rằng, âm thanh lúc nước loạn th́ ai oán, để tỏ ư căm giận
cái chính trị bạo ngược; âm thanh hồi mất nước th́ đau thương, để tỏ ư lo
cho dân trong cảnh khốn cùng cơ cực. Nay chúa thượng đi tuần du không chừng
mực, chế độ chính trị và việc giáo hóa th́ trái ngược, dân chúng ở dưới th́
sầu khổ. Sự nguy khốn đến thế th́ thật là tột mức, mà ngày nay nghe cái âm
thanh ai oán th́ không phải đó là cái điềm loạn ly vong quốc hay sao. Tôi
muốn xa giá từ đây trở về, đừng đi chơi nơi cái cung ấy nữa vậy”. Hơn 20 năm
sau, điềm gở thành sự thật, nhà Lư bị nhà Trần thay thế.
Chiếu theo lư luận âm nhạc cổ điển Á Đông đă dẫn, tham khảo thêm giọng
đọc Hồ Nam (không thật chuẩn) khi diễn tả Ly Tao, tôi nhận thấy rằng nhạc
điệu của Ly Tao thật thê lương. Hơn nửa thế kỷ sau ngày Khuất Nguyên mất,
nước Sở bị Tần tiêu diệt. Tiếng khóc của Khuất Nguyên chính là điềm báo của
văn minh Sở, hoặc nói rộng ra là điềm báo thoái trào của văn minh Thần Nông.
Khi Tần Thủy Hoàng đưa 500 ngàn dân – binh vượt Ngũ Lĩnh tấn công Bách Việt,
những nhánh nhỏ trong Thần Nông như Mân Việt (Phúc Kiến), Âu Việt (Chiết
Giang), Lạc Việt (Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam và Bắc Bộ Việt Nam) lần hồi
bị sáp nhập vào Trung Quốc. Bài ca Ngu Cơ của Hạng Vơ dưới làn điệu Sở là
kết cuộc bi hùng của dân tộc Sở. Lưu Bang cũng hát điệu ấy, nhưng bài “Đại
phong ca” đă biến thể. Văn minh Thần Nông vĩnh viễn ḥa trộn cùng Hoa Hạ để
tạo nên văn minh Hán. Những con người của Thần Nông từ đó trở đi đă thành
con dân Hán tộc, chỉ trừ mảnh đất Bắc Bộ Việt Nam kiêu dũng, cô độc thẳng
tiến đến tương lai trên con đường đầy gian nan và bất trắc.
Khuất Nguyên mang trong ḷng nỗi đau của cả một nền văn minh ngỡ là bị
ḥa lẫn, bị nh́n nhận như man di mọi rợ hàng thiên niên kỷ, bị tước đi vị
thế đặc biệt không thể chối bỏ của nó trong lịch sử Trung Hoa. Lẽ biến dịch,
thắng thua của thời gian với Khuất Nguyên thật là tương đối. Tầm vóc của ông
vượt lên tất cả, nghạo nghễ và phi thường, làm giá trị cho toàn bộ nhân quần
đời đời vẫn c̣n lấn cấn những được mất, thành bại.
Đọc Khuất Nguyên, không hiểu sao tôi cứ nghĩ các thể văn riêng của người
Việt (truyện, ngâm, hát nói) và Sở Từ có chung một nguồn cội. Những câu 6
chữ, 7 chữ rồi 8 chữ trong Ly Tao tải nhạc điệu rất gần gũi với Song Thất
Lục Bát, Lục Bát và đặc biệt là lối Hát Nói của người Việt Nam. Chữ đệm “hề”
đă từng có mặt trong ca dao đồng bằng sông Hồng:
Công anh đắp nấm, trồng chanh
Chẳng ăn được quả, vin cành cho cam
Xin đừng ra dạ bắc nam
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề
Huống tam thu như bất kiến hề
Đường kia, nỗi nọ như chia mối sầu [18]
Điều tôi nhận định được thể hiện rơ nhất tại bài Hát Nói “Vịnh Tiền Xích
Bích” của Nguyễn Công Trứ (trích đoạn phần lời ca):
Quế trạo hề lan tương
Kích không minh hề tố lưu quang
Diểu diểu hề dư hoài
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.
Phải chăng những tuyệt tác thơ Nôm đồ sộ của nền văn học Việt Nam như
Truyện Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc vẫn c̣n những mạch ngầm mang dấu ấn văn minh
Thần Nông? Trường thiên Ly Tao và Đoạn Trường Tân Thanh chỉ là một h́nh hài
song đối qua tấm gương thời gian hai ngàn năm có lẻ, qua hai bờ nam bắc của
Động Đ́nh Hồ?
Có thể Khuất Nguyên đă chọn tiết Hàn Thực của văn minh Thần Nông để ra đi
nhằm lôi kéo sự chú ư, cảnh tỉnh thế gian u muội. Dần dà ư nghĩa cổ sơ của
Đoan Ngọ bị thay thế bởi đám tang thi hào và ḷng thương cảm người đời dành
cho ông [19]. Hơn hai ngàn năm sau, Tú Mỡ, một nhà thơ Việt Nam (ở góc độ
nào đó cũng là một nhà văn hóa), đă bị đánh lừa nên từng viết:
Cái cụ Khuất bên Tàu
Chết từ hồi tam tổ
Có quan hệ ǵ ta
Mà sao phải ăn giỗ
Mồng 5 khỏe ăn càn
Mồng 6 ốm nhăn nhó
Có lỡ chết bỏ đời
Th́ lại cho tại số
Gần đây hơn người Việt Nam có Trịnh Công Sơn tài hoa. Gần nửa thế kỷ, lớp
lớp người Việt Nam thường quên hết mâu thuẫn, chia cách và dị biệt khi thả
hồn trong những ca khúc mang họ Trịnh. Theo tôi cái tinh túy trong những tác
phẩm của Trịnh Công Sơn không phải ở các nốt nhạc giản dị hoặc giữa vẻ đẹp
ngôn ngữ, nó ẩn sâu nơi nhạc điệu của ca từ rất gần với Hát Nói. Truyền
thuyết c̣n nhắc đến bản Diễm T́nh u hoài, khắc khoải triền miên từ nước Sở,
nay đă thất truyền. Có lẽ nhạc điệu ca từ của Trịnh Công Sơn cộng hưởng với
cung bậc hiện đại, đă đánh thức những giọt máu xa xưa nhất trong trái tim
mỗi con người Việt Nam, về lời ru đất nước từ thuở Văn Lang Động Đ́nh Hồ.
Đầu thế kỷ 21, tác giả Nguyễn Hữu Liêm đă tả thực thao thức và chiêm
nghiệm cá nhân bằng đoản văn “Cái âm điệu tủi thân bi đát”, [20] vô t́nh như
thác xoáy vào t́nh cảm của cộng đồng Việt Nam lưu vong khắp thế giới. Phản
ứng trỗi dậy ồn ào, tưởng như không đến nỗi thế, cũng chỉ v́ mạch ngầm ai
oán tha phương bị đụng chạm, v́ lời nhận xét thuần lư của một triết gia chứ
không phải một hồn thi sĩ: “Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng
cổ, qua nhạc bolero đă làm cho miền Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau
nuớc mắt. Cái quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất mới và tiếp tục
uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc”.
D. Kết luận
Dù bỏ qua yếu tố chính trị, đa số sử gia Việt – Trung cả ngàn năm qua vẫn
luôn máy móc gắn chặt từ Giao Chỉ với Quận Giao Chỉ, như một địa danh luôn
cố định tại đồng bằng sông Hồng. Họ sơ sót tính thời đại của sách Thượng Thư
và quên mất bài thơ “Nam quốc sơn hà”. Nhiều khi họ c̣n nghĩ Việt Thường
quốc thuộc vùng trung bộ Việt Nam hôm nay. Bản thân sự khập khiễng và thiếu
thống nhất trong các nghiên cứu thuần văn bản kia đă ít nhiều chỉ ra lỗ hổng
trong phương pháp tiếp cận cổ thư.
Cuộc sa lầy về phương pháp ấy chưa chấm dứt. Việc xác định Giao Chỉ là
ǵ, ở đâu dọc theo quá khứ c̣n liên quan mật thiết với cốt móng của sử học
Việt Nam hiện đại. Đó là tiền đề bất di bất dịch và phi thực tế về “tính bản
địa” của văn hóa Đại (Lạc) Việt và văn minh Việt Nam. Về lâu dài, vấn đề
Giao Chỉ vẫn c̣n là một chiếc phao cứu hộ cho tiền đề kia. Hai sai lầm cơ
bản chồng lên nhau, vô h́nh chung biến lịch sử Việt Nam thành thứ văn chương
giàu hư cấu và đầy dẫy nhu cầu nhăn tiền. Nó sẽ phá nhiều hơn xây, trên hành
tŕnh tạo dựng nền tảng nhân văn mới cho con người Việt Nam ở th́ tương lai.
Các bằng chứng văn hóa và di vật (như trống đồng, bảo vật quốc gia) dàn
trải trên địa bàn rất rộng lớn, không thể đóng khung trong những biên giới
hành chính hoặc chính trị một thời. Đấy chính là ư nghĩa của chữ Đại trong
từ Đại Việt. Càng cố chứng minh tính bản địa khu biệt của văn minh Việt Nam,
sẽ càng làm nghèo đi bản sắc Việt Nam và ở góc độ nào đó, gián tiếp “nhược
tiểu hóa” dân tộc Việt Nam.
Hợp nhất - phân ră, lên cao - xuống thấp, chói lọi - lu mờ, thành công -
thất bại, quần cư - tản mát, đến và đi… những cặp phạm trù này xoắn lấy
nhau, v́ nhiều nguyên nhân, liên tục đổi chỗ suốt quá tŕnh hướng tới tương
lai của bất cứ một nền văn minh nào trên thế giới. Văn minh Lạc Việt chẳng
thể là ngoại lệ, song sức sống không thể phủ nhận của Lạc Việt ở chỗ nó đă
không bị tuyệt diệt hoặc đồng hóa bởi Trung Hoa, một nền văn minh tầm cỡ của
nhân loại.
Đà Lạt tháng 01.2005
____________________________________________________
Thư tịch
chính
- Sử Kư Tư
Mă Thiên (http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sjml.htm)
- Hán Thư (http://www.guoxue.com/shibu/24shi/hansu/hsuml.htm)
- Hậu Hán
Thư (http://www.guoxue.com/shibu/24shi/hhansu/hhsuml.htm)
- Thượng
Thư (http://www.guoxue.com/jinbu/13jing/shangshu/ss_ML.htm)
- Nam Việt
Quốc Sử, Trương Vinh Phương, Quảng Đông Nhân dân xuất bản xă, 1995.
- Trung
Quốc Văn học sử, Dịch Quân Tả, Huỳnh Minh Đức dịch, NXB Trẻ 1992.
- Chiến
quốc sách, NXB Trẻ, 1989.
- Lịch sử
văn minh thế giới, NXB Giáo Dục, 1999.
- Nguồn gốc
Mă Lai của dân tộc Việt Nam, B́nh Nguyên Lộc, Bách Lộc xuất bản, 1971.
- Đại cương
lịch sử Việt Nam, NXB GD, 2003.
- Việt Nam
sử lược, Trần Trọng Kim.
- Khâm định
Việt sử, Quốc sử quán triều Nguyễn.
- An Nam
Chí Lược
- Văn minh
Lạc Việt, Nguyễn Duy Hinh, NXB VH-TT, 2004.
- Hán tự sử
dụng trong bài:
Nam Giao: 南 交 ; Giao Chỉ: 交 趾 - 交 阯 - 交 址 ; Cửu Chân: 九 真 ; Nhật Nam: 日 南
; Chữ Chỉ bộ túc: 趾 ; Chữ Chỉ bộ phụ: 阯 ; Chữ Chỉ bộ thổ: 址 ; Cơ Chỉ: 基 阯
= 基 址 ; Cơ Sở: 基 礎 ; Chữ Sở (tên nước): 楚 .
Chú thích
- Hệ thống
những bài viết của tôi bao gồm 5 chủ đề đă được phổ biến rộng răi trên
mạng internet và một hai tờ báo in Việt ngữ ở Mỹ, Pháp như Talawas, Chim
Việt Cành Nam, Vnn news network… 1) Bảo tàng lăng mộ Nam Việt Triệu Văn
Vương tại Quảng Châu. 2) Từ Hai Bà Trưng đến những khắc khoải lịch sử. 3)
Việt Nam thời bán sử và những thông điệp nhân văn. 4) Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam và sự sa lầy của sử học Việt – Trung hàng ngàn năm qua. 5) Lưu
vong, một nỗi niềm từ quá khứ đến tương lai.
-
http://news.nationalgeographic.com/news/2002/12/1212_021213_journeyofman.html
- Bạn đọc
thử xem xét các thành phố lớn ở Việt Nam: trên con đường nam tiến của
những con người sinh ra từ nền văn minh lúa nước, nơi đặt đô thị dần dần
chuyển vị trí từ bờ bồi (phù sa màu mỡ) sang bờ lở (thuận tiện cho thủy
vận giao thương). Hà Nội và Hải Pḥng gốc đều bên mạn nam sông Hồng và
sông Cấm. Huế trải suốt hai bờ Hương giang. Đến Đà Nẵng và Sài G̣n th́ chỉ
phát triển ở bên lở của sông Hàn và sông Sài G̣n. Văn minh đô thị Việt Nam
thành h́nh, yếu tố cần cho thương gia đă thắng yếu tố thiết yếu với nhà
nông. Hai trung tâm buôn bán cổ là Phố Hiến và Hội An tọa lạc tại bờ lở,
càng nhấn mạnh lập luận của tôi.
- Bạn đọc
có thể kiểm chứng thông tin khảo cổ Trung Quốc tôi đă đề cặp tại rất nhiều
trang web tiếng Anh. Phiên âm La Mă của các địa danh này như sau: Dadiwan,
Gansu ( Đại Địa Loan, Cam Túc); Banpo, Shaanxi (Bán Pha, Thiểm Tây),
Jiahu, Henan (Giả Hồ, Hà Nam); Taosi, Shanxi (Đào Tự, Sơn Tây). Toàn bộ
những kiến thức này rất mới, nó vừa xuất hiện trên báo chí vài năm gần đây
và chưa được hệ thống hóa đầy đủ vào bất cứ một quyển sách nào.
- Khái niệm
mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là
một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đ́nh mang họ mẹ,
chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền th́ đi xa hơn, quyền
hành gia đ́nh và xă hội nằm tất ở nữ giới, lănh tụ chắc chắn phải là nữ
giới.
- Người
Việt Nam hiện đại hay lầm lẫn ở đây, họ cho rằng Thần Nông là người Tàu,
họ đôi lúc phản đối việc xem thủy tổ Kinh Dương Vương của ḿnh là cháu
Thần Nông. Có người góp ư với tôi: nếu Thần Nông gốc Tàu th́ họ đă gọi là
Nông Thần.
- Tiên tổ
vua Sở là Mị Dục Hùng, con cháu ông ta lấy tên tiền nhân làm họ, có vẻ rất
giống một vài nhóm dân tiền Đông Nam Á như Khơ Me. Con gái Vua Hùng tục
gọi Mị Nương. Nước Sở c̣n có tên gọi khác là nước Kinh! Những cái tên
chồng chéo này chắc chắn phải có mối tương giao văn hóa nào đó.
- Nếu khảo
cổ Việt Nam t́m ra bất cứ di chỉ đồ đồng nào, niên đại trước 1700 TCN, có
liên hệ rơ ràng với các di chỉ đồ đồng đă công bố như Đồng Đậu, G̣ Mun,
Đông Sơn; giả thuyết của tôi sẽ hoàn toàn sụp đổ.
- Xiaorong
Han, Who invented the Bronze Drum? Nationalism, Politics, and a Sino -
Vietnamese Archaeological Debate of 1970s and 1980s. Asian Perspectives,
Vol.43, Spring 2004.
-
http://www.china.org.cn/e-sanxingdui/index.htm
- Sách Mạnh
Tử có nói “Vợ Hoa Chu và Kỷ Lương khóc chồng ḿnh mà biến cải được phong
tục trong nước”. Câu này vốn lấy từ chuyện nàng Mạnh Khương nước Tề khóc
tế chồng chết trận làm thành lũy sụp mấy thước. Đây cũng là thông điệp thù
oán chiến tranh, yêu chuộng ḥa b́nh của nhân dân Trung Hoa thời chiến
quốc.
- Dẫn luận
người Tráng là hậu duệ người Tây Âu Lạc xưa là của tác giả. Các thông tin
về người Tráng lấy ở
http://www.china.org.cn;
http://mcel.pacificu.edu/as/resources/ZHUANG/. Xem bản Việt ngữ “Thần
cung bảo kiếm” tại: http://vny2k.com.
- Kịch bản
này không hề vô tưởng, nó đă từng xảy ra với Mân Việt năm 135 TCN.
- Phục Hy
là một nhân vật cổ tích rất phức tạp. Các yếu tố của văn minh Thần Nông và
Hoa Hạ đan xen, chồng chéo và ḥa lẫn vào nhau tạo nên Phục Hy. Trong
khuôn khổ có hạn của bài viết cụ thể này, giải mă h́nh tượng Phục Hy sẽ
khiến mạch văn đứt găy. Xin hẹn bạn đọc cơ hội khác.
- Xin các
bậc thông Nho đọc đến đây đừng bảo tác giả nói bậy về chữ Âu. Tôi tin âm
Âu mang nghĩa Việt nhưng phải mượn chữ Hán để viết. Tôi muốn bỏ qua chữ
Hán mà giải cấu phần ngữ âm.
- Tạm dịch:
Không phải lo thân ḿnh bị tai ương. Chỉ lo nước non khuynh đảo, tiêu tán
công lao tiền nhân.
- Nguồn gốc
và quá tŕnh h́nh thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn, NXB KHXH 1979.
- Thể lục
bát biến thức, trích trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm, Trung
tâm học liệu – Bộ giáo dục 1968, trang 9.
- Trường
hợp này rất giống việc Ki Tô giáo chọn ngày Đông Chí làm Giáng Sinh. Đông
Chí vốn là một lễ nghi cổ đại rất quan trọng của tất cả các nền văn minh ở
bắc bán cầu. Người ta hay khẩn cầu mặt trời (đang nằm dưới bán cầu nam)
trở lại, đem nắng ấm cho nhân sinh và mùa màng. Theo Lễ Kư, buổi tế Nam
Giao lớn nhất của văn minh Trung Hoa phải được cử hành hằng năm vào ngày
Đông Chí. Với lịch Julian, Đông Chí là 25 tháng 12. Khi lịch Gregorio thay
thế lịch Julian thiếu chính xác, Đông Chí trở về ngày 21 tháng 12, Giáng
Sinh vẫn được giữ nguyên là 25 tháng 12 như thói quen cũ.
- Nguyễn
Hữu Liêm, Cái âm điệu tủi thân bi đát,
talawas.org, 2003.
|