“Ở với họ mà
không theo họ”
Châm ngôn và bi kịch cuộc đời Trương Vĩnh Kư
● Phan Thứ Lang
Trong cuốn “Petrus Kư, érudit cochinchinois”,
Jean Bouchot đă viết: “Ta phải xem đời của cụ Trương Vĩnh Kư là một bài học
và một gương tốt cho ta. Một bài học, v́ ta thấy người dân hoàn toàn Nam kỳ
ấy sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của Âu châu trong đủ
nghành khoa học…”
Nhận xét trên không có ǵ quá đáng, v́ sự nghiệp văn hóa của Petrus Kư
đă được xếp thứ 17 trong 18 “Thế Giới Thập Bát Văn Hào” cách đây gần 200 năm.
Thời đó, Petrus Kư không những làm vẻ vang cho dân Việt, mà cả châu Á.
TÀI KHÔNG ĐỢI TUỔI
Trương Vĩnh Kư sinh 6/12/1837 tại Cái Mơn, tỉnh Vĩnh Long nay thuộc Bến
Tre. Gia đ́nh đạo ḍng, nên khi chịu phép rửa tội được đặt tên bổn mạng là
Jean Baptiste, sau này người ta cứ gọi Petrus Kư cho gọn chứ Petrus không
phải là tên Tây bởi ông có nhập làng Tây đâu.
Thân sinh là Trương Chánh Thi làm chức Lănh binh triều Minh Mạng, thân
mẫu là Nguyễn Thị Châu. Petrus Kư sớm mồ côi cha khi ông mới 3 tuổi, lúc
thân phụ nhận đi sứ bên Cao Miên do triều đ́nh cử.
Mẹ góa con côi, lên 5 tuổi Petrus Kư được thân mẫu cho đi học chữ nho do
thầy đồ Học dạy tại Cái Mơn. Tới 9 tuổi được linh mục Tám đem về nuôi v́ vị
linh mục này nhớ ơn khi trước thời kỳ cấm đạo gắt gao, ông Thi đă che dấu.
Năm 1848, trong nước có lệnh triệt đạo khắt khe nên Petrus Kư được linh
mục Long (người Pháp) đưa sang Cao Miên để học trường Pinhalu. Năm 1851,
trường Pinhalu chọn 3 học sinh xuất sắc để cấp học bổng đi du học tại Pinang
bên Malaixia v́ ở xứ này có trường Tổng chủng viện (Séminaire général des
missions étrangères en Extrême – Orient). Trường này chuyên đào tạo các tu
sĩ cho vùng Viễn Đông.
Là chủng sinh của trường, năm 15 tuổi Petrus Kư đă tỏ ra thông minh hơn
các bạn đồng học. Chữ La tinh thông thạo, chữ Pháp, Hy Lạp, Hán, Petrus Kư
đều thông suốt.
Giai thoại kể trong thời gian theo học chữ La tinh, chưa học chữ Pháp,
một lần Petrus Kư đang thơ thẩn trong sân trường th́ vô t́nh lượm được một
tờ giấy có những chữ viết tay Petrus Kư thấy những ḍng chữ này hao hao chữ
La tinh. Chắc đây là chữ của người Âu cũng do chữ La tinh đẻ ra thôi. Petrus
Kư mày ṃ đọc và hiểu đây là lá thư gửi cho thầy giáo nên Petrus Kư đă mang
lá thư này tŕnh thầy. Ông thầy ngạc nhiên hỏi:
-Sao con dịch được chữ này?
Petrus Kư lễ phép thưa:
-Con đọc thấy chữ Pháp cũng có nhiều chữ giống chữ La tinh nên con đă mày ṃ
dịch được.
Thấy học tṛ có năng khiếu, nên thầy đă khuyên Petrus Kư trau dồi về chữ
Pháp.
Học đến năm thứ 6, và chỉ c̣n một năm nữa là tốt nghiệp đại chủng viện để
chịu chức linh mục. Nhưng giữa năm 1858, Petrus Kư phải về nước để chịu tang
mẹ vừa qua đời tại Cái Mơn.
Trong nước lúc đó việc bách hại người theo đạo Công giáo cũng đang diễn
ra gay gắt, các giáo dân và tu sĩ đều phải trốn tránh. Petrus Kư lúc ấy phân
vân không biết có nên trở lại nhà ḍng để làm giáo sĩ hay bỏ áo ḍng ra dạy
học giúp đời. Cuối cùng Petrus Kư thấy không dối ḷng được nên xin xuất ḍng
để giữ đạo và giúp đời.
Để tránh bị bắt bớ, Petrus Kư phải chạy lên Sài G̣n vào tá túc ở nhà giám
mục Lefèbre, người Pháp. Giữa lúc đó, người Pháp đang cần người dịch những
văn kiện từ Pháp ra Việt, và ngược lại nên giám mục Lefèbre đă khuyên Petrus
Kư đem khả năng sẵn có của ḿnh ra làm việc.
Các quan triều được tin Petrus Kư là một người tài giỏi, thông minh như
vậy mà ra cộng tác với Pháp, nên họ t́m cách cản ngăn, nhưng không được, họ
đâm ra nghi kỵ họ Trương. C̣n Petrus Kư th́ suy xét kỹ và nghĩ rằng: phải
làm việc để giúp đỡ đồng bào, nhất là lúc Pháp và Nam triều chưa hiểu nhau,
chưa thành thật với nhau. Và Petrus Kư đem câu châm ngôn La Tinh “Ở với họ
mà không theo họ” (Sic vos non vobis) để biện minh cho sự hợp tác của ông
với Pháp. Rồi mặc những lời thị phi, ngày 20/12/1860 ông đă nhận làm thông
ngôn cho Jauréguiberry.
Ổn định việc làm rồi, Petrus Kư lấy vợ năm 1861. Người vợ tên là Vương
Thị Thọ, do linh mục Đoan họ đạo Nhơn Giang (Chợ Quán) mối mai.
Khi Pháp thành lập trường thông ngôn đầu tiên tại Nam Kỳ ngày 8/5/1862.
Petrus Kư về dạy tại trường này.
Pháp chiếm thêm ba tỉnh miền Đông, rồi lần lượt các tỉnh miền Tây cũng
rơi vào tay quân Pháp. Ḥa ước ngày 5/6/1862 được kư kết giữa Phan Thanh
Giản và Bonard.
Petrus Kư được người Pháp giao trọng trách với tư cách thông ngôn hạng
nhất ra Huế bằng chiến thuyền Forbin dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Simon
để trao thư cho Nam triều đ̣i bồi thường bốn triệu bạc Con c̣ Mễ Tây Cơ.
Năm 1863, triều đ́nh Huế cử một phái đoàn do Phan Thanh Giản cầm đầu sang
Pháp xin chuộc lại ba tỉnh Biên Ḥa, Gia Định, Định Tường. Cụ Phan Thanh
Giản xin để Petrus Kư đi theo phái đoàn làm thông ngôn.
Chuyến đi này Petrus Kư cùng phái đoàn được yết kiến vua Napoléon Đệ tam
của Pháp. Sau đó Petrus Kư được đi thăm nhiều nơi trên đất Pháp, và được gặp
nhiều nhân vật tên tuổi thuộc nhiều lănh vực khác nhau. Ông lại c̣n được
sang thăm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ư và được yết kiến Giáo Hoàng tại La Mă.
Giáo Hoàng khuyên trau dồi tín lư, do có học vấn rộng để có thể giúp đạo,
giúp đời. Trong chuyến đi dài gần một năm này, Petrus Kư đă học được nhiều
điều hay, lạ về văn minh tiến bộ của Âu Châu mà sau này có dịp sẽ đem ra áp
dụng trong nước.
VỀ NƯỚC TRUYỀN BÁ VĂN HÓA
Về nước, Petrus Kư viết cho Gia Định báo, cơ quan thông tin và truyền bá
chữ quốc ngữ của nhà cầm quyền Pháp tại Nam Kỳ (năm 1865).
Năm 1866, Petrus Kư thay thế linh mục Croc để điều hành trường thông
ngôn. Sau đó, được thủy sư đô đốc Pháp là Ohier tín nhiệm nên kư nghị định
ngày 15/9/1869 giao cho điều hành tờ Gia Định báo mà trước đó do ông Ernest
Poteau làm quản nhiệm. Khi Petrus Kư điều hành bài vở Gia Định báo, ông nêu
ra ba mục đích:
-Truyền bá chữ quốc ngữ trong nhân dân
-Cổ động tân học trong nước
-Khuyến khích nhân dân học chữ quốc ngữ.
Từ đây tờ Gia Định báo có sự cộng tác của Tôn Thọ Tường, Thế Tải Trương
Minh Kư, Paulus Huỳnh Tịnh Của…
Năm 1868, Petrus Kư được soái phủ Nam kỳ giao phó trách nhiệm quy định
lối viết tên những thị trấn của xứ Nam kỳ, và điều ḥa cách cân, đo của ta
và Tây.
Ngày 1/1/1871, trường sư phạm được thành lập, Petrus Kư được cử làm giám
đốc.
Ngày 1/4/1871, Petrus Kư được Pháp phong hạng nhất huyện (hàm), và ngày
1/6/1872, được cử làm thư kư của Hội đồng châu thành Chợ Lớn.
Năm 1873, Petrus Kư được giao nhiệm vụ điều hành trường tham biện hậu bổ.
Ngoài ra Petrus Kư c̣n được các chức khác, như: được hưởng Khuê bài Đông
sĩ Cứu thế (1/10/1868 ), năm 1871 được cử làm hội viên của Hội Nhân văn và
Khoa học vùng Tây Nam nước Pháp, Hội Nhân chủng học, HộI Giáo dục Á châu….
Và vinh dự nhất là năm 1874, Petrus Kư được phong giáo sư ngữ ngôn Á Đông v́
Petrus Kư đă thông hiểu 27 sinh ngữ trên thế giới. Năm 1874, thế giới có
cuộc chọn bầu “Toàn Cầu Bác Học Danh Gia”, Petrus Kư đă được b́nh chọn hạng
thứ 17 trong 18 “Thế Giới Thập Bát Văn Hào”.
Cùng năm này, Petrus Kư được cử làm ủy viên hội đồng học chánh cao cấp do
Pháp giúp đại sứ Y Pha Nho ở Trung Hoa,
Năm 1876, thống đốc Nam kỳ cử Petrus Kư ra Bắc kỳ t́m hiểu t́nh h́nh miền
Bắc. Khi trở về ông có viết tập Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876). Ông kể
đầy đủ những tỉnh mà ông đă đi qua và dừng chân ghé lại xem xét và t́m hiểu
những di tích, địa lư, phong thổ, sản phẩm từng địa phương.
Năm 1877, Petrus Kư được cử làm ủy viên hội đồng cai trị Sài G̣n.
Năm 1886, Paul Bert được cử sang Đông Dương làm khâm sứ Trung kỳ và Bắc
kỳ để thí nghiệm một chính sách cai trị mới của Pháp. Vốn là bạn với Petrus
Kư từ trước, nên Paul Bert mời Petrus Kư ra Huế giúp việc. Ra Huế, Petrus Kư
được vua Đồng Khánh tin dùng và lănh chức Cơ Mật Viện tham tá, sung Hàn Lâm
viện Thị giảng học sỉ.
Trong nhiệm vụ này, Petrus Kư hết sức thận trọng và cố hết sức ḿnh để
dung ḥa giữa hai chính phủ Pháp – Nam. Ông đă bày tỏ cho hai chính phủ biết
rỏ quyền lợi lâu dài của nhau, để cùng nhau thông cảm.
Petrus Kư nhận nhiệm vụ được sáu tháng th́ Paul Bert bất ngờ tạ thế ngày
11/11/1886, nên công việc chưa đi đến đâu. Lúc này Petrus Kư lại đương dưỡng
bệnh tại Sài G̣n, nên dịp này ông xin ở lại trong Nam kỳ để tiếp tục trở lại
nghề dạy thổ ngữ Đông phương tại trường Hậu bổ và Thông ngôn (năm 1887).
Tuy là người được đi du học nhiều năm ở nước ngoài, và đi nhiều nước,
được hấp thụ văn hóa Tây phương một cách tường tận, nhưng Petrus Kư lại khác
những người đương thời cộng tác với Pháp. Lúc nào ông cũng giữ cái tên
Trương Vĩnh Kư, và mặc quốc phục khăn đóng áo dài dù đi ngọai quốc. Khi làm
báo, viết văn th́ ông dung bút hiệu là Sĩ Tải.
TÁC PHẨM CỦA HỌ TRƯƠNG
Petrus Trương Vĩnh Kư tuy là người hấp thụ Tây học, nhưng lại truyền bá
cho người Tây phương nền văn hóa Đông phương giúp cho họ hiểu biết hơn về
cái hay, cái đẹp của Đông phương trong đó có Việt Nam. V́ thế ông đă viết
bằng tiếng Pháp những vấn đề như: Ngôn Ngữ Đông phương, Giáo tŕnh văn
học An Nam, Về văn thơ An Nam: Phép đối, Phép Làm Văn, Làm thơ, Làm phú;
tới những tác phẩm như: Cổ Gia Định Phong Cảnh Vịnh, Gia Định thất thủ
vịnh. Ông lại c̣n đang soạn thảo cuốn Grand Dictionnaire
Chinois-Annamite-Francais, nhưng tiếc thay việc đang dang dở th́ ông tạ thế.
Ông cũng viết bằng tiếng Pháp những cuốn sách riêng về văn hóa phong tục
Việt Nam, như cuốn Les Convenances et Les Civilités Annamites (Phép lịch sự
An Nam), Êtude Comparée sur les Langues, les Écritures les Croyances et les
Moeurs de L’Indochine (Nghiên cứu so sánh tiếng nói, chữ viết, tín ngưỡng và
tôn giáo các dân tộc Đông Dương), Dictionnaire Biographique Annamite (Từ
điển danh nhân An Nam)…
Ông c̣n viết sách bằng chữ Hán như cuốn Tam tự kinh Quốc ngữ diễn ca
(1884), Hàn nho phong vị phú (1883)…
Chữ Quốc ngữ được ông sử dụng để viết các cuốn như Chuyện đời xưa lựa
chọn lấy những chuyện hay và có ích, in lần đầu năm 1886, sau con cháu cho
tái bản đă rút gọn tên sách c̣n là Chuyện đời xưa, năm 1924 tới nay đă được
tái bản nhiều lần.
Đặc biệt nhất là cuốn truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du đă được Petrus Kư
soạn và dịch, phiên âm với tựa đề Poeme Kim Vân Kiều.
CUỐI ĐỜI: BỆNH HOẠN, KHÁNH TẬN
Khi c̣n cộng tác với Pháp, Petrus Kư được họ kính nể v́ học thức và trí
thông minh của ông, v́ tài năng mà họ muốn lợi dụng để làm nhịp cầu giao ḥa
giữa Pháp và triều đ́nh Huế. V́ vậy khi đương tại chức, những sách lược của
ông đều được nhà cầm quyền Pháp bỏ tiền ra in để phân phối cho học sinh Pháp
lẫn Việt Nam ở Nam kỳ học tập và nghiên cứu. Nhưng từ khi ông cáo lui về ẩn
dật ở Chợ Quán th́ những sáng tác của ông không c̣n được Pháp tài trợ in ấn
và phát hành nữa. Ông phải bỏ tiền ra in lấy với mục đích duy nhất là phổ
biến văn hóa để mở mang dân trí. Những sách in ra bán ế ẩm khiến cho Petrus
Kư phải lao đao khánh tận như trong nhật kư ông đă viết:
“… Bị hai cái khánh tận, nhà in… nơi mà… mất hơn sáu ngàn đồng bạc. Phần
th́ sách vở bán không chạy, mắc nợ nhà in Rey và Curiol, phần th́ bị… phải
bảo lănh nợ cho nó hết, hơn… lại than phát đau hư khí huyết…”
Từ hoàn cảnh trên Petrus Kư bị lâm bệnh nặng, biết khó sống được nên
trước khi nhắm mắt từ giả cơi đời, ông đă gởI lại bài thơ ngắn tuyệt mệnh:
Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gởi tên: con mọt sách,
Công danh rốt cuộc: cái quan tài.
Dạo ḥn, lũ kiến mau chơn bước,
Ḅ xối, côn trùng chắt lưỡi hoài.
Cuốn sổ b́nh sanh công với tội,
T́m nơi thẩm phán để thừa khai.”
Ngày 1/9/1898, Petrus Kư tạ thế, hưởng thọ 62 tuổi. Được an táng tại Chợ
Quán nơi sinh phần của gia đ́nh họ Trương đă xây sẵn để ông an nghĩ ngàn
thu.
Trương Vĩnh Kư là một trường hợp khá tế nhị tùy theo một cách nh́n nào đó
về ông. Chính v́ vậy mà trải qua những thăng trầm của lịch sử đất nước,
người ta cũng có những cách đối xử khác nhau đối với nhà văn hóa lỗi lạc
này.
Ngày nay, nếu có dịp nào đó đi về phía Chợ Quán, ngay ngă tư đường Trần
Hưng Đạo – Trần B́nh Trọng, chúng ta sẽ nh́n thấy một cái cổng xây tam quan,
kiến trúc như cổng chùa, nhưng trên nóc cổng có cây Thánh giá, giữa cổng có
ghi hàng chữ La tinh: “MISEREMINI MEI SALTEM VOS AMICIC MEI” (Xin hảy thương
tôi, ít ra những bạn hữu của tôi). Đó là khu nhà mồ mộ phần của nhà học giả
họ Trương.
|