Ấn vàng và kiếm bạc
Nguyễn Phan Vũ
Sưu tầm tại Tây Sơn, An Khê
Tục truyền ở một làng Ba Na thượng nguồn sông Côn, từ ngàn xưa có một
thanh gươm lạ. Không biết đích xác thanh gươm có từ bao giờ, chỉ biết rằng
từ khi các già làng th́ đă thấy lưỡi gươm cắm sâu sừng sững trên một tảng
đá lớn nằm ven đường dẫn đến làng. Trải bao mưa nắng, lưỡi gươm vẫn sáng
chói, không hề hoan rỉ.
Dân làng truyền rằng, đây là thanh gươm quí trời ban cho người tài hiền
trong thiên hạ để giúp dân dựng nước. Biết bao bàn tay tráng sĩ đă ướm vào
chuôi gươm nhưng không một ai lay chuyển nổi thanh gươm. Đời này qua đời
khác, chuôi gươm càng lên nước bóng loáng, và lưỡi gươm sáng ḷa ánh mặt
trời như tỏa hào quang. Cho đến ngày kia có một người “con Kinh” ngược
ḍng sông Côn v́ hâm mộ thanh gươm t́m đến làng. Dân làng thấy người khách
lạ tướng mạo xuất chúng, thông hiểu mơi lẽ trời đất, lại ăn nói có nghĩa,
có nhân, nên đem ḷng kính phục và dẫn chỉ chỗ thanh gươm báu. Đến nơi,
trước sự khâm phục của dân làng, người khách lạ lễ tạ mọi người rồi bước
lên tảng đá ướm đặt bàn tay vạm vỡ của ḿnh vào chuôi gươm. Khi cánh tay
của người đó vung mạnh, nâng thanh gươm lên th́ ḥn đá rung chuyển và cả
thanh gươm quí hiện ra tỏa sáng ḷa trước mặt mọi người. Người tráng sĩ có
sức mạnh hơn người ấy chính là Nguyễn Huệ, vốn sinh cơ lập nghiệp ở đất
Kiên Mỹ, theo anh ngược ḍng sông Côn đi t́m người tài hiền trong thiên hạ
để mưu nghiệp lớn. Cảm phục tài năng, dân làng mời anh họ Nguyễn ở lại rồi
mở tiệc khoản đăi. Quanh làng thường xuất hiện một con gà cồ to lớn khác
thường sống trên trăm năm, nhân ngày vui, dân làng bèn săn con gà nọ làm
thịt đăi khách quí. Khi mổ gà ra, trong bụng gà có một cái ấn lớn bằng
vàng. Dân làng cho rằng đấy là điềm trời giúp Nguyễn Huệ lập nghiệp lớn,
bèn cung kính dâng lên Nguyễn Huệ. Cầm ấn và kiếm trong tay, Nguyễn Huệ
nói với dân làng rằng: “Trời đất đă có ư chọn ta trao ấn vàng và kiếm bạc,
ta sẽ quyết qui tụ giang sơn về một mối để không phụ sự chờ mng của trăm
họ và lượng cao dầy của trời đất”. Ai nấy đều tỏ ḷng quy phục, muốn được
theo anh em Tây Sơn dựng cờ nghĩa gây nghiệp lớn. Nguyễn Huệ hỏi già làng,
trong làng có bao nhiêu người? Già làng đáp: “Phía Bắc thượng có 200 người,
phía Nam thượng có 200 người, giữa làng là con sông nước chay xiết, không
ai dám qua lại viếng thăm nhau”. Nguyễn Huệ nghe vậy bèn ra sông rạch đôi
ḍng nước chay xiết. Lập tức ḍng nước rẽ hai bên, để hiện ra một lối qua
sông rộng răi. Từ đó dân làng càng mang ơn anh em nhà Tây Sơn, hết ḷng
giúp đỡ anh em Tây Sơn dương cao cờ nghĩa thống nhất sơn hà.
Chúa Xà Đàng và bầy ngựa rừng
Nguyễn Lư
(Sưu tầm tại Kiên Mỹ, Tây Sơn)
Xa xưa, dân tộc Xà Đàng lừng danh là một bộ tộc không hề khuất phục ai.
Sống riêng một cơi, tung hoành bốn phương, họ làm náo động từ rừng sâu đến
đồng nội. Người Xà Đàng chỉ tin và sợ trời.
Một buổi sáng nọ, tin anh em Tây Sơn dấy binh, chiêu dụ anh tài chống lại
triều đ́nh lan đi khắp nơi, làm xao xuyến cả buôn làng Tây Nguyên. Vị chúa
Xà Đàng gương mặt tự phụ, nói với thủ hạ rằng: “Huệ sao dám làm điều kinh
thiên động địa ? Nếu Huệ có tài như con trời, th́ hăy dụ được bầy thiên mă
của trời nuôi trên núi. Khi đó, ta sẽ đem cả làng theo hết”.
Nguyễn Huệ nghe tin ấy, mỉm cười. Mấy ngày sau ông cùng mấy chàng trai lực
lưỡng cưỡi ngựa vào rừng. Ông chọn con ngựa cái khỏe, đẹp, lông nó mướt
nhưng nhung, đuôi dài và óng ả như cánh phượng, mắt ướt long lanh, thả nó
vào rừng. Hàng ngày nó hí lên những tiếng dài khêu gợi, vọng vào rừng sâu,
như nhắn gọi. Nguyễn Huệ cắt cỏ thật non, bỏ cho nó ăn. Trong bầy ngựa
trời, có con đực chúa đàn, nghe tiếng hí, từ trong rừng sâu lần ra. Nó
thấy con ngựa cái tơ của ông Nguyễn Huệ có vẻ “dễ thương”, liền lân la đến
làm quen. Dần dần ngựa cái rủ được cả bầy cùng theo đến. Ngày nào chúng
cũng hí gọi, nô giỡn với nhau rất thân thiết. Ông Huệ ŕnh ở đằng xa, thấy
bầy ngựa rừng đă có vẻ say cô ngựa của ḿnh, ông liền ra mặt. Bầy ngựa
rừng lúc đầu hoảng sợ, muốn chạy, nhưng đă bị “nàng ngựa cái” giữ lại. Ông
Huệ ra cho cỏ, vuốt ve con ngựa của ḿnh, khiến bày ngựa rừng dạn người.
Lần sau ông ra, chúng không lạ lùng nữa. Ngày này qua ngày khác, ngựa rừng
đă quen, ông Huệ cắt nhiều cỏ non, dắt con ngựa cái về. Lũ ngựa rừng nhớ
bạn, lại đă dạn người, nên đi theo. Ông Huệ kiên nhẫn theo dơi, nắm đặc
tính từng con ngựa rừng để thuần phục chúng. Dụ được bầy ngựa rồi, ông Huệ
chưa vội báo cho dân làng biết. Lúc chúng thuần như lũ ngựa nuôi trong tàu
của ḿnh, Nguyễn Huệ mới báo tin được cho dân làng. Không ai tin-nhất là
mấy già làng. Họ vẫn nói: “Không ai khiến được ngựa trời đâu. Chỉ có trời
sai được chúng thôi!” Một số người muốn đi xem, ông Huệ bằng ḷng. Ông cho
lũ thanh niên trèo lên núi cao, rừng rậm, ngồi im trên ngọn cây, để xem
ông sai khiến ngựa trời. Đám thanh niên hồi hộp theo dơi ông Huệ gọi bầy
ngựa trời ra, sai khiến chúng thật ra ngoan. Họ phục ông Huệ là “người
trời”, đă sai khiến được ngựa trời, nên về khoe với các già làng. Già làng
vẫn chưa tin. Có người phải thề: “Mắt tao thấy, tai tao nghe, tao nói sai
trời phạt. Ông Huệ đúng là con trời xuống dạy lũ ngựa trời như lính của
ông rồi”. Nhiều già làng đi xem, thấy quả đúng như vậy. Lúc ấy họ mới phục
và tôn ông Huệ là thần, làm kiệu rước ông về, vật trâu vật heo, đón ông
Huệ “con trời”, làm lễ huyết thề, quyết đi theo Tây Sơn, theo ông “con
trời” dấy binh khởi nghĩa.
Sức khỏe và tài trí
Lê Xuân Lít
(Sưu tầm tại Tây Sơn)
Bữa ấy, binh sĩ Tây Sơn đang hành quân. Đường rừng cheo leo, một bên là
khe suối sâu, một bên là cây gai chằng chịt, chỉ có lờ mờ vết tích một con
đường nhỏ đă bị cây rừng mọc lấn. Đă thế, lại một ḥn đá rất to chắn lối.
Nghĩa quân từng người leo qua tảng đá. Hàng quân đi chậm lại.
Nguyễn Huệ đang đi ở đoạn giữa, thấy vậy liền tiến lên coi. Nh́n tảng đá
lớn, ông ngấm nghía, xem xét. Rồi ông ra hiệu mấy anh em lực lưỡng ghé vào
một bên, c̣n bên to hơn ông ghé vai vào. Huệ “hự” một tiếng, tất cả nhất
loạt cùng đẩy. Tảng đá lăn kềnh xuống ḷng khe. Ai nấy đều trầm trồ, con
người có sức khỏe phi thường ấy.
Lần khác, cũng trên đường hành quân. Có con trăn mộc to tướng nằm ngang
chắn lối. Anh em dừng lại, lùi xa. Trăn đang cuộn ḿnh, đầu dấu kín trong
bụi. Chỉ một tiếng động là trăn nhanh chóng phát hiện được mục tiêu và nó
sẽ vươn ḿnh tới trong nháy mắt. Anh em bàn cách giết trăn, nhưng không ai
biết làm cách nào giết được, v́ đầu nó dấu kín. Huệ đến, thấy rơ sự thể.
Ông liền lấy cây cung và rút mũi tên tẩm thuốc độc ra. Mọi người hồi hộp,
không hiểu Nguyễn Huệ làm cách nào để biết được đầu trăn. Phút chờ đợi im
lặng Nguyễn Huệ giương cung, đặt chân lên tảng đá. Bất th́nh ĺnh, ông đạp
mạnh tảng đá cho nó lăn xuống khe sâu, tạo nên tiếng động lớn.
Con trăn giật ḿnh, chưa biết sự thể ra sao, liền thó đầu ra khỏi bụi rậm
cất lên t́m mục tiêu. Ngay lúc ấy, nhanh như tia chớp, mũi tên tẩm thuốc
đọc từ tay Nguyễn Huệ cắm phập vào đầu trăn. Nó quằn quại dăy dụa hồi lầu
rồi lăn xuống khe sâu bên đường nhừng lối cho quân đi.
|