Hiệp Ḥa (1847 - 1883) 
		
			
				|   | 
				Niên hiệu | 
				
				 Hiệp Hoà  | 
			 
			
				| Năm sanh, năm mất | 
				
				 1847-1883  | 
			 
			
				| Giai đoạn trị v́ | 
				
				 1883  | 
			 
			
				| Miếu hiệu | 
				
				 .  | 
			 
			
				| Tên Húy | 
				
				 Nguyễn Phúc Thăng, Nguyễn Phúc Hường Dật  | 
			 
		 
		  
		Ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tôn em của vua Tự Đức là Lạng 
		Quốc Công, tên là Hường Dật, lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Hoà. 
		Vua Hiệp Hoà thấy hai ông đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất 
		Thuyết lộng hành quá bèn t́m cách loại trừ bằng cách thay đổi chức tước 
		của hai ông cho bớt binh quyền. Hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất 
		Thuyết biết là vua không tin dùng ḿnh nên liền âm mưu lập ông Dưỡng 
		Thiện là con nuôi thứ ba của vua Tự Đức lên làm vua rồi bắt ép vua Hiệp 
		Hoà uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hoà chỉ làm vua được hơn 4 tháng. 
		Ông Trần Tiễn Thành ra tiếng phản đối nên bị hai ông Nguyễn Văn Tường 
		và Tôn Thất Thuyết ra lệnh giết luôn. 
		Trong lúc đó th́ Pháp vẫn tiếp tục chiếm các tỉnh của Việt Nam (cửa 
		Thuận An, thành Hải Dương, ...), Triều đ́nh Huế thất thế xin hoà. Hoà 
		ước Quí Mùi (1883) ra đời trong đó nước Nam chịu nước Pháp bảo hộ và 
		phải nhường một số đất cho Pháp. Triều đ́nh ta có ra lệnh ngừng đánh, 
		phải rút quân về Huế nhưng một mặt quân đội Tàu không nghe lệnh Triều 
		đ́nh Huế, một mặt c̣n nhiều người yêu nước và ỷ lại Tàu nên có nhiều 
		người không chịu rút quân mà vẩn đánh Pháp, do đó chiến tranh với Pháp 
		vẫn tiếp diển, Triều đ́nh Huế bất lực. 
		 Xem Thêm Chùa Trà Am 
		
		Ông Ích Khiêm 
		 
		(1840-1890)  
		Nguyễn Quư Đại  
		 
  
		
		
			Tiểu sử  
			 
			Ông Ích Khiêm sinh năm 1840 làng Phong Lệ, phủ 
			Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Nguồn gốc ḍng dơi họ Ong sống vùng cao 
			nguyên, đời Tự Đức (1847-1883), thi đỗ cử nhân, vua cho bỏ chữ trùng 
			một bên, thành chữ Ông, từ đó có ḍng họ Ông Ích tại Quảng Nam. Sau 
			khi thi đậu được bổ dụng làm quan chức Tiễu phủ sứ. 
			Giai thoại hồi nhỏ “ một hôm ông ra tỉnh choi, 
			giữa đường gặp các quan di làm lễ nghinh xuân: quan tổng dốc ngồi 
			vơng đ̣n cong phủ nhiễu điều, trên che bốn lọng xanh. Đi tới đâu, 
			hai bên hàng phố đều đứng chào, duy ông cứ ngồi nghiễm nhiên trong 
			quán nước, xâu hai chân vào chiếc giày rách ai bỏ đó. 
			Quan thấy vô lễ, sai lính bắt hỏi th́ ông ứng đối 
			rất hoạt bát. Quan ra một câu dối thử tài nếu đối hay tha tội vô lễ 
			: 
			
				“ Cắc cớ hay, hai cẳng xỏ một giày “ 
			 
			Ông đối lại. 
			
				“ Sung suớng mấy, một đầu che bốn lọng ! “
				 
				 
  
			 
			
			Bối cảnh Lịch sử  
			
			Lúc làm quan ở Huế, quân Pháp chiếm Kinh thành 
			Huế. Ông Ích Kiêm bị cách chức phải đi tiền quân hiệu lực. Thời gian 
			nầy nghiên cứu binh thư, áp dụng nhiều chiến luợc tâm lư đánh thắng 
			giặc nhiều trận. Đuợc nhận lại phẩm hàm cũ, thăng chức Tiễu phủ sứ 
			nên người ta thường gọi ông là : “ Ông Tiễu.“. 
			Năm Tự Đức thứ 2 ở Quảng Tây có Hồng Tú Toàn cùng 
			bọn Dương Tú Thanh ,Tiêu Triều Quí, Lư Tú Thành nổi lên xưng là Thái 
			B́nh Thiên Quốc, chiếm đất Kim Lang, và các tỉnh phía Nam sông 
			Truờng Giang.  
			Nhà Thanh đánh dẹp được (1863) bên Việt Nam Tự 
			Đức thứ 16. Lúc ấy dư đảng của Hồng Tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy sang 
			nước ta, trước xin hàng, rồi sau đem tàn quân cướp phá các tỉnh phía 
			Bắc Việt Nam.  
			Nam (1868) Ngô Côn chiếm Cao Bằng. Triều d́nh sai 
			quan tổng đốc Phạm Chi Hương viết thư sang cho nhà Thanh đem quân 
			sang tiểu trừ. Nhà Thanh sai phó tuớng Tạ Kế Qui, đem quân sang cùng 
			với Tiểu phủ Ông Ích Khiêm và đề đốc Nguyễn Viết Thành đánh phá quân 
			của Ngô Côn ở Thất Khê. Nhưng đến tháng 7 năm ấy, quân ta đánh thua 
			ở Lạng Sơn, tham tán Nguyễn Lệ, phó đề đốc Nguyễn Viết Thành tử 
			trận, thống đốc Phạm Chi Hương bị bắt. 
			Cuối năm 1870 Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh 
			thành Bắc Ninh, quân của Tiễu phủ Ông Ích Khiêm thắng trận giết đuợc 
			Ngô Côn. Nhờ cách dụng binh khéo léo. Sáng quay lưng về huớng Đông, 
			chiều quay lưng về huớng Tây. 
			Quân Tàu thuờng thức khuya hút thuốc phiện, sáng 
			thức dậy chưa tỉnh con say, mắt nhắm, mắt mở, lại bị mặt trời chiếu 
			thẳng vào mặt làm quáng mắt. Quân đội của Ông Ích Khiêm bố trí trận 
			đứng quay lưng về huớng có ánh nắng mặt trời buổi sáng. Quân Tàu 
			hướng về phía mặt trời không thấy bị Quân ta chém giết vô số Ngô Côn 
			bị giết trong trận nầy.  
			Ngô Côn bị tử trận nhưng c̣n những đồ đảng là 
			Hoàng Sùng Anh hiệu cờ vàng, Lưu Vĩnh Phúc hiệu cờ den, Bàn Văn Nhị, 
			Lương Văn Lợi hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy phá ở Tuyên Quang. Tỉnh 
			Thái Nguyên bị vây, trung quân đô thống Đoàn Thọ đưa quân lên đóng ở 
			Lạng Sơn, bọn giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm vào lấy thành 
			Đoàn Thọ bị tử trận, Vơ Trọng B́nh th́ vuợt thành chạy thoát. 
			Vua Tự Đức sai Tiễu phủ Ông Ích Khiêm đánh dẹp. 
			Quân binh có 10 đội, ông cho đóng quân xa trại giặc rồi ra lệnh : 
			mỗi đạo phải dùng 10 đồng tiền (tất cả 10 đội quân là 100 đồng tiền. 
			Hai mặt được sơn hai màu khác nhau  trắng và den) làm tiền bói theo 
			quẻ âm dương. Đêm ấy lập đàn tế, các tướng tá cao cấp đều vào thi 
			lễ. 
			- Ông đến truớc đàn khấn to cho mọi người nghe : 
			- Nếu thần linh phù hộ th́ cho 100 dồng tiền sấp 
			cả hay ngửa cả. Chứ trong 100 dồng nầy chỉ một đồng sấp hoặc ngược 
			lại một dồng ngửa, th́ ông t́m kế rút lui. 
			- Rồi ông tung 100 đồng tiền lên cao rơi xuống 
			trên mặt mân dều sấp 100%. (Truớc đó ông ngầm thay 100 đồng tiền sơn 
			hai mặt đều màu đen.) Quân sĩ vui mừng được ơn trên phù hộ đánh 
			thắng quân giặc. Ông Ích Khiêm thu tất cả các đồng tiền bỏ vào túi. 
			Ông làm lễ tạ ơn và tuyên báo : 
			- Thế nầy đủ biết ḷng trời c̣n tựa xă tắc, tướng 
			sĩ hăy ra sức một phen thế nào ta cũng thắng. Nhờ vào ḷng tin tưởng 
			quân sĩ hăng say không nao núng dù thế giặc mạnh. Đă đánh thắng và 
			dẹp được giặc. 
			Chiến trận vẽ vang Ông Ích Khiêm đuợc thăng chức 
			Tham Tri, Ông đuợc lệnh ra Bắc hợp với quân Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc để 
			mưu cầu chống Pháp, Ông gặp quân Thanh đă cho Phùng Tử Tài, Từ Duyên 
			Húc, Nhưng quân Tàu ḍi hỏi quá nhiều lương thực, áp bức dân ta tàn 
			ác, dân chúng oán than khắp nơi. Ông làm bài thơ.  
  
			
				Áo chúa cơm vua đă bấy lâu 
				Đến khi có giặc phải thuê Tàu ! 
				Từng phen vơng giá mau chân nhẩy 
				Đến buớc chông gai thấy mặt đâu 
				Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp 
				Trâu de ngày hiến đứa răng bầu 
				Ai ôi hăy chống trời Nam lại 
				Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu. 
  
			 
			Vua Tự Đức mất ngày 17.7.1883 không con, nuôi 3 
			người cháu làm con nuôi, theo di chúc lập Dục Đức (31 tuổi) con 
			trưởng lên nối ngôi. Trong lúc Vua ưng ư Dưỡng Thiện nhưng c̣n nhỏ 
			14 tuổi. Các quan trong triều đ́nh là : Trần Tiễn Thành (1813-1883), 
			Nguyễn Văn Tường(1824-1886), Tôn Thất Thuyết (1835-1913) làm phụ 
			chính. 
			Đuợc 3 ngày Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết 
			đổi tờ di chiếu, bỏ Dục Đức lập quốc công húy là Hồng Dật (37 tuổi) 
			con thứ 29 của Thiệu Trị lên ngôi hiệu là Hiệp Ḥa bị bức tử 
			30.7.1883. Triều đ́nh ngơ ngác không ai dám ư kiến. Quan ngự sử Phan 
			Đ́nh Phùng can “ Tự quân chua rơ tội ǵ mà làm sự phế lập nhu thế, 
			th́ sao phải lẽ “. 
			Phan Đ́nh Phùng bị bắt giam cách chức cho về quê. 
			Ngày 30.11.1883 Nội các Nguyễn Văn Tường lập con nuôi thứ 3 vua Tự 
			Đức là Duỡng Thiện (15 tuổi) vào 5 giờ sáng ngày 2.12.1883, lấy hiệu 
			là Kiến Phúc làm vua duợc 6 tháng bị bệnh băng hà (có tài liệu cho 
			rằng Nguyễn Văn Tường đầu độc ? ) chọn Ung lịch 12 tuổi lên ngôi 
			ngày 2.8.1884 hiệu là Hàm Nghi 
			Ḥa uớc Patenôtre (Giáp thân 1884) công nhận cuộc 
			bảo hộ của thực dân Pháp, triều đ́nh Huế chỉ giữ hư vị. Văn thần vơ 
			quan phần nhiều cầu an, không lo giúp nước.Ông Ích Khiêm không thể 
			làm ngơ trước bối cảnh xả hội. Ông tổ chức một một tiệc mời các quan 
			tham dự. Bàn trên cỗ dưới la liệt, các món đều là thịt chó. 
			- Lúc vào tiệc, nhiều người không ăn đuợc thịt 
			chó, hỏi có món nào khác không ?  
			- Bẩm, hôm nay trên dưới toàn là chó!  
			Tiệc xong, các quan gọi nước uống măi không thấy 
			người nhà đem nước. V́ ông Ích Khiêm dặn trước đừng mang nước, một 
			lúc người nhà lên ông quát tháo : 
			- Lũ chúng bay chỉ biết đứa lớn đứa nhỏ ngồi ăn 
			hại cơm trời, chẳng đứa nào biết việc nước là chi cả ! Các quan tham 
			dự biết Ông Ích Khiêm lấy người nhà chưởi các người không lo giúp 
			nuớc.  
			Ông Ích Khiêm tính t́nh khảng khái như thế, không 
			luồn cúi tưuớc bạo quyền, làm phật ư với Tôn Thất Thuyết và Nguyễn 
			Văn Tường nên bị bỏ tù cùng chung số phận nhu Phan Đ́nh Phùng. Khi ở 
			trong ngục ông viết hai câu thơ:  
  
			
				“Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết 
				“  
				“Tứ nguyệt tam vương thậm bất tường “  
				 
  
			 
			Tạm dịch : Sông Hương chia hai gịng nuớc, th́ 
			khó nói chuyện, một bên trong một bên đục. 
			Chữ cuối của mỗi câu thơ có chữ thuyết và tuờng 
			ám chỉ Tôn Thất Thuyết Và Nguyễn Van Tuờng trong 4 tháng dă thay dổi 
			3 vua (Dục Đức, Hiệp Ḥa, Kiến Phúc). Ông bị an trí ở B́nh Thuận. 
			Ông làm bài thơ :  
  
			
				Ḿnh ốc mang rêu rửa sạch ai 
				Rung cây nhát khỉ thế thường hoài 
				Mèo quào xuể vách c̣n chi sức 
				Sứa vượt qua đăng mới gọi tài 
				Nhớ kẻ dang roi dong vó ngựa 
				Đố ai lấy thúng úp ḿnh voi 
				Xưa nay ếch giếng chê trời hẹp 
				Chim xổ lồng ra, mở mắt coi !  
  
			 
			Ông Ích Thiện, Ông Ích Hoắc, Ông Tán Nh́ đều là 
			những người con yêu nước của Ông Ích Khiêm. Cháu nội của Ông sau nầy 
			Ông Ích Đường có t́nh thần yêu nước, dấu tranh trong phong trào 
			kháng thuế xin xâu. Tuổi trẽ hăng say đương đầu với bạo lực mong đem 
			lại Dân quyền và Nhân quyền phong trào bị đàn áp, ông bị kết án tử 
			h́nh. Nhắc lại để tưởng nhớ Ông Ích Đuờng một người hùng của năm 
			1908 tại Quảng Nam.  
  
			Ông Ích Khiêm mất năm 1890 thọ 50 tuổi.  Trên 
			ngôi mộ của Ông c̣n lại những bia đá lưu danh một người có công đánh 
			duổi quân giặc. Tinh thần yêu nước Ông Ích Khiêm thật cao cả một tấm 
			gương sáng măi măi với hậu thế.  
			 
			 
  
		
		
		Tài lieu tham khảo 
		
			- 
			
"Giai Thoại làng Nho" của Lăng Nhân   
			- 
			
"Việt Nam sử luợc" quyển 2 của Trần Trọng Kim
			  
			- 
			
"Quảng Nam trong lịch Sử" của Giáo sư Trần Gia 
			Phụng   
		 
		  |