|



-
Cổ Pháp Cố Sự
(Bộ sách viết về cội nguồn nhà Lý)
-
- Nhà
văn Nguyễn Khôi
Nhà văn Nguyễn Khôi quê gốc làng Cổ
Pháp, sau đổi là Đình Bảng, đất phát tích Vương triều Lý; từ năm 2002 đã
dành thời gian và tâm huyết viết Bộ Sử Làng "Cổ Pháp Cố Sự" 4 tập, dày
970 trang.
Tập 1+ 2+ 3 đã xuất bản, vừa được Giải Thưởng Văn Học Nghệ Thuật Thủ Đô
2008 (cùng đợt với tập" Thơ Trần Dần"). Tập 4 đã viết xong (Chuyện làng
Đình Bảng từ 1945 đến nay) sẽ xuất bản trong dịp tới.
Newvietart xin trích đăng một số chương của Cổ Pháp Cố Sự để bạn đọc
Trong và Ngoài Nước cùng thưởng thức.
Bài 1:
Tên Làng Đình Bảng
(Cổ pháp cố hương)
Đình Bảng là một làng ven Đô, cách trung
tâm Hà Nội 15 km trên Quốc lộ 1A đi Lạng Sơn; hiện nay là phường Đình
Bảng, trung tâm của thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Diện tích tự nhiên
852ha, dân số tới 1-4-1999 là 13. 626 người với 3. 432 hộ tại quê( chưa kể
đến mấy nghìn người đi lập nghiệp nơi xa)
Thầy tôi kể rằng: "Làng ta cùng thời với làng Phù Đổng (Gióng) là xứ địa
linh nhân kiệt "tam Cổ ngũ Phù" (thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba
Cổ Pháp- Phù Lưu, Phù Đổng, Phù Chẩn, Phù Ninh, Phù Khê) - đất đế
vương". Đây là một vùng có nhiều hồ, đầm lầy, sông Tiêu Tương uốn khúc
quanh co, thế đất mang hình con nhện: có đường (dải đất cao) có dộc (dải
đất thấp) xòe ra như 9 cánh hoa sen. Đó là huyệt đất quý, phát tích đế
vương - ứng với 9 vua nhà Lý, hưng thịnh kéo dài tới 216 năm(1009-1225,
thực quyền là 214 năm ứng với 214 chữ trong Chiếu dời Đô của Đức Lý Thái
Tổ) .
Làng tạo lập trên các gò đồi, dải đất cao bên bờ sông Tiêu Tương, xung
quanh là rừng rậm um tùm cây cối. Trong rừng có nhiều cây Búng Báng (bột
trong ruột có thể làm bánh ăn được)- do đó có tên Nôm của làng là Kẻ
Báng, được áp sang tên chữ Hán là Dịch Bảng. Thời Bắc thuộc làng thuộc
bộ Vũ Ninh và có tên là Hương (Xã) Diên Uẩn (Diên là dọc theo bờ nước,
Uẩn là sâu kín, uẩn khúc) đến đời nhà Đường, vào khoảng năm Ất Sửu(785)
trưởng lão của làng là Thiền sư Định Không (họ Lý) đổi tên là Hương Cổ
Pháp.
Sự tích kể rằng vào khoảng đời Đường Trinh Nguyên
(785 - 804). Sư Định
Không dựng chùa Quỳnh Lâm ở làng mình (đến đời Tiền Lê gọi là chùa Lục
Tổ, nay là chùa Kim Đài ở xóm chùa, xã Đình Bảng). Khi mới đào đất đắp
nền, gặp một lư hương và mười cái khánh. Sư sai người đem xuống sông
Tiêu Tương ở trước cửa chùa rửa. Vô ý hay ngẫu nhiên để tuột tay: một
cái nặn mất, đến đáy sông mới dừng. Sư cho đó là điềm lạ, Sư giải thích
rằng: chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ, chữ thủy chữ khứ hợp thành
chữ pháp, thổ là bản thổ chỉ nơi ta
ở. Nhân đó Sư đổi tên làng mình là
làng Cổ Pháp.
Đổi xong tên làng Sư còn làm một bài tụng:
Đất trình pháp khí
Một món đồng ròng
Để Phật pháp được hưng long
Đặt tên là Cổ Pháp
(Điạ trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng
Trí phật pháp chi hưng long
Lập hương danh chi Cổ Pháp).
Sư lại nói :
Hiện ra pháp khí
Mười khẩu chuông đồng
Họ Lý hưng Vương
Ba phẩm thành công.
(Pháp khí xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Tính Lý hưng Vương
Tam phẩm thành công).
Sư lại nói:
Mười khẩu xuống nước đất
Cổ Pháp ấy tên làng
Gà sau tháng chuột ở
Chính lúc tam bảo hưng
(Thập khẩu thủy thổ khứ
Cổ Pháp danh hương hiệu
Kê cư thử nguyệt hậu
Chính thị hưng tam bảo.
Đây là ba bài "tụng" của Sư Định Không,
một loại sấm vĩ tiên tri (dự báo ứng với 200 năm sau với Thiền Sư Vạn
Hạnh và Thân Vệ Lý Công Uẩn): đất Cổ Pháp sẽ cho ra đời một bậc anh hùng
họ Lý làm cho Phật Pháp hưng thịnh (Quốc đạo).
Tên Đình Bảng (có nghĩa là "Làng Báng Lớn" - tiếng địa phương"Đình" là
to lớn: cái nồi đình, chuyện tày đình, làng Dương Lôi tên Nôm là "Đình
Sấm" do cây gạo ở đó bị sét đánh có tiếng sấm lớn). Tên Đình Bảng được
sử sách chép đầu tiên là vào năm 1362 đời Trần Dụ Tông. Ở Cổ Pháp xưa có
Cự Tộc Lý với nhiều thế hệ Thiền Sư nổi tiếng. Đó là những trí thức cao
cấp của thời đại. Họ tập hợp dưới ngọn cờ Phật giáo, những người dân yêu
nước chuẩn bị chắc chắn trong ý thức mọi người về một triều đại của một
quốc gia độc lập, thịnh trị, do dòng họ mình (Lý) sáng lập ra.
VỀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ - XÃ HỘI CỦA CỔ PHÁP
Làng Dịch Bảng (kẻ Báng) thời đó nằm trên ngã ba sông, là nơi giao lưu
kinh tế văn hóa thuận tiện, năm trung độ giữa Cổ Loa, Đại La và Luy
Lâu(Sở lỵ của quận Giao Chỉ) - đó là cái may ở cái "thế đất" "Đông Ngạn
Tĩnh Nhất Khu" (Sấm Vĩ) - Chữ "Tĩnh" (còn có thể đọc là "tịnh") - có
nghĩa là "lặng" là "yên ổn", ngẫm xem lại xưa nay thấy khá đúng, vì nơi
đây chưa bao giờ là thành trì, Sở lỵ, là trung tâm hành chính- chính
trị, để nhận chịu sự đánh phá, chà sát và xáo động cùng di động dân cư
như vùng Cổ Loa, Đại La. Chính nhờ đó mà không bị sự áp chế trực tiếp về
chính trị và sự đồng hóa cưỡng bức về văn hóa nặng nề như vùng Luy Lâu
thời Bắc thuộc; tuy thế nhưng Cổ Pháp lại không phải là một miền quê hẻo
lánh, đó là làng chợ(Hương thị, thị thôn) luôn là một vùng hướng ngoại
có độ mở lớn, là vùng giao lưu văn hóa- kinh tế sống động, một vùng gioa
thoa kinh tế điển hình. Các vị Thiền Sư ở đây là những người có học (đại
trí thức đương thời) họ không thuộc về giai tầng thống trị và theo đuôi
chính quyền đô hộ. Họ ở một vùng kinh tế - văn hóa đủ xa (cách ly) với
chính quyền đô hộ và đủ gần sự tiến bộ xã hội để xây dựng Lục Tổ - Cổ
Pháp thành một trung tâm, xây dựng ý thức độc lập quốc gia vào cuối thời
Bắc thuộc (Và cho cả đến gần đây, thời ky 1940 - 1945 Đình Bảng là "lũy
thép" căn cứ địa của Đảng Cộng Sản ở ngay sát nách Thủ Đô.
Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng thì trong bối cảnh xã hội nước ta thời đó
(Bắc thuộc), ông cha ta đã không khéo thực hành Chính Pháp (Phật) và
bằng Pháp (Sấm Vĩ), phong thủy tuy vẫn là "duy tâm" mê tín (ở trình độ
dân trí thời đó) nhưng lại toát lên một tinh thần yêu làng, yêu nước, đã
góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng ý thức dân chúng về một vùng
tự trị (căn cứ địa) do họ Lý dẫn đường để rồi sẽ có một quốc gia độc lập
"nhà nước có chủ quyền" Vua ta cai trị nước ta, do họ Lý làm Hoàng Đế.
Hậu duệ của Sư Định Không là Thiền Sư Vạn Hạnh cùng các vị tiền bối đã
thực sự là cha đẻ, cha nuôi, cha tinh thần của Lý Công Uẩn- chàng trai
kẻ Báng (ông họ Lý người làng Diên Uẩn) với khiếu thông minh bẩm sinh đã
được nhập thân văn hóa của một vùng địa linh nhân kiệt (đất Cổ sinh Vua,
đất Phù sinh Thánh).
Lý Thân Vệ (rồi là Lý Thuận Thiên- Lý Thái Tổ) là người con ưu tú của
trung tâm kinh tế- văn hóa Cổ Pháp thế kỷ thứ 10 và ông cùng Vương Triều
Lý làm rạng danh muôn đời cho Cổ Pháp Cố Hương thân yêu của chúng ta.
Đính Chính :
Nặn = Lặn; Gioa thoa = giao thoa; Không khéo= khôn khéo.
Bài 2: Rừng Báng
(Cổ Pháp lâm)
Già làng bảo: huyện ta xưa là huyện
Đông Ngạn (bờ phía đông sông Thiên Đức). Sông Thiên Đức tên Nôm là sông
Đuống, gọi trệch từ chữ "Luống" (tiếng Tày Thái cổ là Nậm Luông, là sông
lớn). Người vùng ta quen gọi sông Hồng là sông Cái (mẹ), sông Đuống là
sông Con. Xưa kia vùng ta là vịnh Bắc Bộ, Nhờ phù sa sông Hồng bồi đắp
mà có cả một trung châu đất mật lúa vàng nuôi sống cho dân mình phát
triển, nam tiến mở mang bờ cõi. Vùng ta xưa la vùng đầm lầy ao hồ bến
nước, rừng rậm um tùm. Ngày trước toàn bộ đất làng nhà rộng tới trên
2000 mẫu, trong đó rừng chiếm 4/5 và ngót 100 mẫu đầm hồ ao sông ngòi.
Trong rừng có nhiều cây tạp, cây Búng Báng, củ mài (Hoài Sơn rừng Báng
nổi tiếng đặc sản quý tiến Vua) cùng các thứ chim muông cầy cáo.
Đến nay nhiều địa danh ở rừng Báng còn mang dấu tích của một thời xa xưa
như: cánh đồng gà, đồng ngựa, đồng khuổi, đồng rĩa, đồng trầm, đường
Thăn sắt, bãi Sim, bãi Chanh, bãi Găng . . . ở cổng sông Ngò, trên có ghi 3
chữ "đại tự": "Nam phong huân" (gió nam tốt lành). Hai cột trụ có ghi 2
câu đối:
Hãn ngoại Tiêu Tương lai dẫn thủy
Điền tiền Cổ Pháp đắc lâm sơn
nghĩa là:
ngăn phía ngoài có sông Tiêu Tương dẫn nước
ngoành trước mặt có rừng Cổ Pháp đẹp thay.
Tiến sĩ Hoàng Văn Hòe, người làng Phù Lưu, là một tướng nhà Nguyễn kiên
quyết chống Pháp, trước khi vào Thanh Hóa tử chiến với quân địch, ông về
thăm quê, dạo chơi trong rừng Báng, đã sáng tác bài thơ"Cổ Pháp Lâm
Hành"(Đi trong rừng Cổ Pháp), xin tạm dịch:
Sớm trong rừng tiễn bước nhanh
Bụi trần rửa sạch lòng xanh trong ngần
Gió ru ran tiếng chim ngân
Chiều buông còn nắng long lanh trên cành
Tiều phu ngang dọc thông thênh
Kể chi thằng nhỏ ngang mình túi đeo
Ai hay cô tịch bám theo
Có chăng là đám mây gieo chút tình
(Lý Thanh - dịch)
Đến hồi thực dân Pháp mới sang xâm lược nước ta, thời vua Khải Định, tên
tư bản Pháp là Gôbe và Tổng đốc Bắc Ninh là Lê Hoan có âm mưu " mua"
rừng Báng để lập đồn điền, dân làng không chịu, Lê Hoan dọa :"rừng Báng
um tùm là nơi giặc Đề Thám, giặc Bãi Sậy dễ về ẩn náu, phải phá, không
kẻ nào được ngăn cản". Làng nhà bầy giờ có cụ Nguyễn Tiến Giang, làm ở
toà Sứ có hàm tước "hồng lô tự khanh" (Chánh tứ phẩm- nên gọi là cụ
Hồng) đã khôn khéo nhanh tay xin cho dân làng phá rừng Báng làm ruộng,
hạn trong 2 năm không xong thì phải để cho tên Gôbe được lập đồn điền. Cụ Hồng cùng bô lão, chức dịch của làng đã hô hào động viên bà con trong
làng bỏ hết sức ra khai phá rừng làm ruộng (đốn hết cây vào năm 1904). Ai
khai phá được bao nhiêu thì cho quyền sử dụng đất trong vòng 3 đến 5 năm
không phải nộp thuế. Nhờ đó mà 1600 mẫu rừng thành 1600 mẫu ruộng tốt. Số
ruộng này sau được chuyển thành công điền. Với lệ làng ở Đình Bảng nếu
là con trai: từ 18 tuổi trở lên thì được chia 5 sào ruộng công để canh
tác, nhà có 4 con trai thì được 2 mẫu, cấy hài thừa ăn(do vậy con trai ở
Đình Bảng có giá trị là thế) đến khi lên lão 60 tuổi thì các cụ được ưu
tiên hưởng 3 sào 5 thước ruộng thượng đẳng điền. Cứ 3 năm một lần, làng
tổ chức"bốc thăm ở ngoài Đình để cha con nhận phần ruộng công tiêu chuẩn
của người trai Đình Bảng.
Sồ 1600 mẫu ruộng công (rừng Báng cũ) đến thời cụ Tham Lai làm Tiên Chỉ
đã cho đạc điền chia mẫu kẻ ô vuông vức có đóng cọc mốc, đánh theo chữ
cái và số: trên bản đồ địa chính như thực địa là rất khoa học, dễ quản
lý theo dõi. Số ruộng tư điền của cả làng có 360 mẫu, nhiều thửa là
ruộng xâm canh do các nhà buôn giàu có người làng mua làm tư điền sang
mãi giáp lũy tre các làng Trịnh Xá, Sặt Bính, Phù Ninh, Phù Chẩn.
. .
Đình Bảng là làng nghề, làng buôn. . . ít gia đình chuyên nông tang (thu
nhập nghề nông thường chỉ chiếm 10 đến 15%) do đó ruộng của các gia đình
thường cho thiên hạ cấy rẽ (một kiểu phát canh thu tô) hoặc thuê người
làm. Ở Đình Bảng đàn ông biết cày bừa là để trông coi thợ làm thuê, ít
trực tiếp cày bừa, phụ nữ sinh con thì đem mướn nuôi:
Anh về vui với
cày bừa
Để em tay nải gió đưa phương trời.
Chạy chợ, đi buôn ít ai biết cấy hái là vậy.
Sông cũ (Tiêu Tương) rừng xưa (rừng
Báng) rày đã nên đồng. . . qua bao thời gian biến thiên của lịch sử, đến
nay cảnh quan đã thay đổi hẳn rồi. Với hồn quê bảng lảng, tác giả đi giữa
làng mà cảm tác:
Mình ra ngõ Cả hóng Tiêu Tương
Cười nói mà vương một chút buồn.
Hồn xưa, làng Cổ. . . đâu kẻ Báng?
Rừng đã về trời vọng cố hương.
Đó là dòng sông cổ tích, dòng sông
huyền thoại của :
Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu, hát thì thậm hay
Cô Mỵ Nương ở Lầu Tây
Con quan Thừa Tướng ngày ngày cấm cung
Trương Chi chở đò ngoài sông
Cất lên tiếng hát động lòng Mỵ Nương.
. .
Lầu Tây ở trên đồi Hồng Vân
(Lim). Để
tưởng nhớ mối tình "tiếng hát trái tim" này, hàng năm cứ đến ngày 13
tháng giêng trai gái trong vùng trẩy hội về đây hát giao duyên Quan họ. Với cảm hứng "ai về Kinh Bắc" - nhạc sỹ Văn Cao đã sáng tác bài "Trương
Chi" réo rắt bổng trầm bất hủ. Thông Đạt thì cất cao tiếng hát "ai có
về bên bến sông Tương, nhắn người em gái tôi thương.
. . ".
Với năm tháng thời gian cứ kéo dài
như không bao giờ hết. . . Đến nay còn xao xuyến bao lòng người con Kinh
Bắc. Làng Cổ Pháp xưa nằm ngay bên bờ sông Tiêu Tương. Vua Lý từ Thăng
Long về bằng thuyền rồng qua nẻo cửa sông Đuống(chỗ Gia Quất - Gia Lâm)
rồi vào các con ngòi nhỏ qua vùng Cói, Yên Thường tới Cổ Pháp.
. . Sông
Đuống xưa còn nhỏ cỡ con ngòi (sau này được Nguyễn Công Trứ một lần và
Nguyễn Tư Giản một lần- là Doanh Điền Sứ đã cho đào to, mở rộng như ngày
nay) theo ý một vài vị cố lão thì địa lý cổ sông Đuống là Minh Đường của
một tổ nhà Lý" bát diệp liên hoa" (tám cánh hoa sen) ở trong rừng Báng. Tương truyền xưa vua Lý Thánh Tông thường đi thuyền rồng từ quê theo
sông Tiêu Tương lên chùa trên núi Phật Tích (Tiên Du) nghỉ mát và đọc
kinh vào mùa hè. Những địa danh núi Tiêu, xã Vân Tương, những khúc sông
ở Đình Bảng, Nuốn, Phù Lưu sang tới Yên Phong, Quế Dương đổ vào sông Cầu
(Nguyệt Đức) là dấu vết của sông Tiêu Tương thơ mộng ngàn xưa. Ngày nay,
với ý định khơi lại sông Tiêu Tương từ đầm Phù Lưu qua Đền Đô (Đình
Bảng) ra tới Trịnh Xá đổ vào sông Ngũ Huyện Khê.
. . nếu thành hiện thực
là ta đã khơi dậy sự trở lại với cội nguồn: lối xưa Vua Lý đi về.
. . để
câu Quan họ xanh dòng Tiêu Tương. Từ hồi còn đi học, tôi rất thích chùm
thơ"Tiêu Tương bát cảnh" truyền đời của Tiến sỹ Nguyễn Xung Ý người làng
Kim Đôi (Quế Võ) một trong nhị thập bát tú "Hội tao đàn" của Vua Lê
Thánh Tông (1442-1497) tuy là mượn thể thơ Tàu, nhưng đó là thơ Quốc Âm,
rất Việt Nam:
. . . Pha khói chim về cây điểm phấn
Quáng dòng cá hớp nước tuôn la
Có người đợi nguyệt trèo khoang gác
Nước Thương Lang một tiếng ca
(Bóng chiều rọi thôn chài)
lại nhớ câu Kiều:
Mành Tương phân phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình
thì lại thấy: thời xưa ấy Nguyễn Du
đã bao lần lội qua sông Tiêu Tương về thăm quê mẹ ở làng Hoa Thiều (Từ
Sơn).
Với chàng Phạm Thái (thời Lê mạt) thì Tiêu Sơn cổ tự soi bóng xuống dòng
Tiêu Tương đã cho thi sỹ cất cánh hồn thơ viết những cẫu thơ tình đầu
tiên của Việt Nam:
Trăng soi vằng vặc vóc non mờ
Lan thoảng hương đưa
Cúc thoảng hương đưa
Trời in một sắc nước xanh lơ
Oanh nói u ơ
Yến nói u ơ
Cánh buồn chở nguyệt gió lay sơ
Lốm đốm sau thưa
Phấp phới sương thưa
Chinh nhân thổi địch (sáo) ơ hờ
Thiều nhạc không xa
Hoan hội không xa
. . . Thấp thoáng oanh thoi dệt liễu
Thung thăng phấn bướm dồi mai
. . . Mai ủ hình thơ
Trúc ủ hình thơ. . .
Với tôi, sông Tiêu Tương ở ngoài cổng
sông Vớt (xóm Bà La- Đình Bảng) vớt xác Trương Chi hay vớt hồn ai là cả
tuổi thơ đầy chất quê mơ mộng, diệu huyền. Đó là những chiều hè, tôi
cùng lũ bạn nhỏ chăn trâu bơi lội trên sông. Đó là những đêm Trung thu
ngồi trên thành cống cổng sông Vớt lắng nghe tiếng sáo diều vi vu lưng
trời thả hồn người tới dặm cao xanh. Đó là những đêm chống hạn, tát nước
cùng người bạn gái "múc ánh trăng vàng đổ đi.
. . "
Nơi ấy có những con cò lặn lội, những
cánh cò bồng bế nhau đi, những đàn chim ngói chở heo may về, những đám
lục bình trôi nổi với những chùm hoa tím ngát. Sông là lòng quê, tình
quê chở đầy ắp hồn làng. . . Để ai đó có xa nhau thì có lúc bất chợt nảy
trong đầu cái câu:
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Như một lời hẹn ước xa mờ. . .
Thiền Sư Vạn Hạnh là pháp danh (tên
hiệu đặt khi xuất gia , còn tên tục là Lý Khánh Vạn (người đời suy tôn
la Thánh Vạn ), em trai là Lý Khánh Van . . Sinh trưởng trongcự tộc Lý ở
kẻ Báng (Dịch Bảng) - một gia đình thuộc diện " Danh Gia Vong Tộc "
nhiều đời thờ Phật. Thuở nhỏ , Vạn Hạnh đã thể hiện là một tràng trai kẻ
báng khác thường , học hành thông minh tiến tới , gồm thông ba học
(giới- định - tuệ), nghiên cứu trăm luận , xem thường công danh
. Năm 21
tuổi xuất gia ( vào khoảng năm quý sửu- 953 đời Hán Ân đế, thời Đinh Bộ
Lĩnh mới khởi binh ở Hoa Lư , đang là triều Ngô do anh em Ngô Xương Văn
, Ngô Xương Ngập trị vì ) Vạn Hạnh cùng với Sư Đinh Hụê ( họ Khúc quê ở
Cảm Điền - Phong Châu ) thờ Thiền Ông ở chùa Lục Tổ trong làng hầu hạ
Thầy . Trong mọi lúc hầu hạ Thầy , Sư tranh thủ học tập quên cả mệt mỏi
. Sau khi Thiền Ông mất (năm 979) , Sư chuyên tập môn " tổng chì tam ma
địa " lấy đó làm việc riêng của
minh . Bấy giờ Sư nói ra lời nào tất đều
là phù sấm ( tiên tri) đối với thiên hạ . Thiền Sư Lý Khánh Văn trụ trì
chùa Cổ Pháp ( chùa Dận), còn Thiền Sư Van Hạnh ở chùa Tiêu ( con gọi là
chùa Trương Liêu , chùa Thiên Tam , Tiêu Sơn tự hay chùa Ba Sơn -trên
núi Tiêu, làng Tiêu ( này là xã Tương Giang ) , cũng là nơi Phạm Thị
(sau khi ra Lý Công Uẩn , làm Thủ Hộ ) . Sinh thời , sư Vạn Hạnh cùng
với Khuông Việt Đại Sư (Ngô Chân Lưu - 933- 1011) là những vị tăng thống
được vua Lê Đại Hành kính trọng . Nhà vua coi các vị là Quốc Sư. Năm
Thiên phúc thứ nhất (981) Hầu Nhân Bảo của nước Tống đem quân sang xâm
lược nước ta , đóng quân ở Cương Giáp (Lạng Sơn) Vua mời Sư Vạn Hạnh đến
đem chuyện thắng bại ra hỏi . Sư đáp " trong ba bảy ngày thì giặc phải
lui".
Sau quả nhiên thư thế . Vua muốn đi đánh Chiêm Thành , cùng triều thần
bàn bạc mà chưa quyết , Sư tâu Vua xin hãy cấp tốc xuất quân , không để
lỡ cơ hội . Sau đánh quả nhiên toàn thắng
.
Qua những tiên đoán , tham gia ý kiến để Nhà Vua ( Lê Hoàn ) tin tưởng
ra quyết tâm quyết chiến với quân giặc . Sư Vạn Hạnh đã chứng tỏ vai trò
Quốc Sư tài ba nỗi lạc của Triều Đinh Tiền Lê, được Vua tin cậy và kính
trọng . Về mặt chính trị xã hội , Sư Vạn Hạnh đã "cố vấn" cho Vua về
hoạt động Phật giáo (Quốc giáo) như gửi thư cho nhà nhà Tống xin " Đại
Tạng kinh " nhằm tăng cường độ giao hảo giữa hai nước, đáp ứng yêu cầu
học tập nghiên cứu của Phật tử ở nước ta lúc bấy giờ
.
Về việc xuất gia , chọn cửa thiền ở tuổi 21 Sư thuộc dòng thứ 10 của
Thiền phái Tì Ni Đa Lưu chi mà Sư Pháp Thuận (925-990) đã từng giữ một
vai trò quan trọng trong việc củng cố phát triển chính quyền cho Vua Lê
Đại Hành ; Sư Vạn Hạnh cũng đã tiếp tay cho Pháp Thuận trong việc
nay .
Đó là cái tâm cảnh hay công nghiệp của thời đại mà Vạn Hạnh đã lớn lên
. Tâm cảnh của một đất nước sôi động , bức bối vì ngoại bang đô hộ áp bức
, vì những biến tướng quá độ của một dân tộc (bị cát cứ chia rẽ) đang
chuyển mình để thống nhất , độc lập tự chủ , vì những quyêt tâm công sức
cho Đạo Pháp và thế nhân theo truyền thông tu tập của dòng Thiên Tì ni
Đa lưu chi .
Dòng Thiền này do Thiền Sư Ấn Độ Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) thành
lập.
Sư tu ở Chùa Pháp Vân (chùa Dâu ở Thụận Thành), người nước Ô trượng của
Bắc Thiên Trúc ( Ân Độ xưa ) dòng Bà nam môn . Từ nhỏ Sư đã mang chí
xuất tục đi khắp Tây Trúc cầu tâm ấn Phật
. Nhân duyên đạo chưa gặp ,
bèn cầm gậy sang đông nam . Năm Giáp Ngọ ( 574) Sư đến Trường An ( Trung
Quốc) , đúng lúc Phật Giáo ở đây bị đàn áp nặng nề (Pháp nạn 3 năm 574-
577) Sư phải lánh nạn sang đất Nghiệp để xin thọ giáo Đệ Tam Tổ Tăng Xán
. Tổ dạy " người nên qua phương nam giao hoa , không nên ở đây lâu
" . Sư từ biệt về Quảng Châu ở chùa Chế Chỉ dịch kinh Phật sau 6 năm ( Kinh
Tông Trì) đến năm 580 thì Sư sang nước ta ở chùa Pháp Vân
.
Một hôm Sư gọi đệ tử Pháp Hiền (
?-626) ở chùa Chúng Thiện ( xã Phât Tích , Tiên Du ) dạy rằng :
Tâm ấn chư Phật :
Tất không lứa dối
Tròn đông Thái Hư
Không thiếu không dư
Không đi không đến
Không được không mất
Chẳng một chẳng khác
Chẳng thường chẳng đoạn
Vốn không chỗ sinh
Cũng không chỗ diệt
Cũng chẳng lìa xa
Chẳng không lìa xa
Vì đối vọng duyên
Nên giả đặt tên
Bỉ thế chư Phật ba đời
Cũng dùng như thế mà được
Tổ Sư nhiều đời
Cũng dùng như thế mà được
Ta cũng dùng như thế mà được
Cho đến hữu tình, vô tinh
Cũng dùng như thế mà được
Vả , Tổ ta Xán Công
Khi ấn cho ta tâm đó
Bảo ta mau Nam hành giáo hóa
Không nên ở lại đây lâu (Trung Quốc)
Từng Trải nhiều nơi
Mói đến được đây (Viêt Nam)
Nay gặp được người ( Pháp Hiền)
Quả gặp Huyền Ký
Người khéo giữ gìn
Giờ đi ( Tịch ) của ta đã đến
Nói xong Sư chắp tay mà mất . Pháp Hiền làm lễ Trà Tỷ , thu Xá lợi , xây
tháp để thờ ( năm 594) sau này Vua Lý Thái Tông có làm bài kệ truy tán :
Mở lối sang nước Nam
Nghe Sư giỏi tập Thiền
Mở bày niêm tin Phật
Xa hợp môt nguồn tim
Trăng Lăng Già vằng vặc
Sen bát nhã ngát thơm
Bao giờ được gặp mặt
Cung nhau bàn đạo huyền
Và nhà Vua đã phong tặng cho Sư .
Tư tưởng của Thiền Tông có thể nói gọn là : " Phật ở trong tâm moi
người. Sùng bái giữ giới , khổ hạnh , học vấn , cầu kinh ( nếu chỉ có
vậy) thì không có nghĩa ly gì cả . Phải đạt tới GIÁC NGỘ mới là mục đích
tối thượng của Phật Tử -đạt được GIÁC NGỘ là PHẬT
. Tâm là Phật và Phật
chính là Tâm . Tâm an Tĩnh . đó là Niết bàn
. Thiền là con đường duy
nhất dẫn đến giác ngộ . Thiền không có nghĩa là suy tưởng ; Thiền là
thấu đạt chính Phật tính nơi mình ". Sư Tổ đã từng dạy : "Tự thân mê lầm
thì chúng sinh tức là Bố Tát , khi tự thân Giác Ngộ thì Bồ Tát là chúng
sinh . Mà xưa nay Sư Tổ đem Y Pháp cùng Tăng Pháp phó truyền cho đệ tử
thì Pháp là dùng Tâm truyền tâm , điều khiển tự ngộ , tự giải
. Từ xưa
chư Phật chỉ truyền bản thể , chư tông Sư mật trao bản Tâm , cho nên mới
nói ;" Cái Tâm không tín chấp vào đâu cả ".
Vạn Hạnh xuất gia đã vào tuổi trưởng
thành , quyết định chọn con đường Phật Giáo của thời đại ma dấn thân
. Có
thể nói , Vạn Hạnh là nhà trí thức tiên tiến xuất chúng của thời đại bấy
giờ . Vạn Hạnh đã " khởi " đi vào đời ( xuất thế) bằng Nho , ở lại với
đời bằng Lão và đã vươn lên tất cả bằng Phật Giáo. Ở Sư là sự kết tinh
tổng hòa nhuần nhuyễn tam giáo để hành sử , thích ứng với đời mà Sư đã
sống .
Theo truyên sử , Vạn Hạnh đến với
Phật Giáo qua ngõ tam học ( 3 học) tức lối ngõ nguyên thủy mà yếu chỉ tu
tập là Giới - định - tuệ . Lối ngõ tam học này có thể dẫn người học lạc
vào nẻo Giáo điều tiêu cực nhăm mắt buông xuôi với thế sự để ẩn nhấn đợi
chờ giác ngộ , qua trương kỳ khổ luyện
. Nhưng Sư đã không làm như vậy ,
Sư đã từ tam học để tiên thêm một bứớc nữa trên con đường tu chứng
. Bước mới đó là tam luận , là thập nhi môn , trung quán và bách luận , đó
là những con đường phá chấp toàn triệt , giải phóng toàn diện kẻ tu hành
khỏi những vứớng mắc , chấp trứớc vê tri cũng như về hành
. Đó cũng là
con đường Vạn Hạnh hội nhập với khuynh hứơng nhập thế tu chứng của dòng
Ty Ni Đa Lưu Chi .
Sử sách kể là ; Sau khi Thầy " tịch"
Vạn Hạnh còn chuyên hành một Pháp môn khác là Tổng trì tam ma địa ( Đà
Na Ni tam muội - một lối thiền định bằng cách đọc các khẩu quyết Phạn
Ngữ . Nhờ đó Vạn Hạnh đã xuất Thần thông Sấm ký để hành đạo cứu đời ,
xây dựng nên Vương nghiệp Nhà Lý dài tới 216 năm
.
Phật giáo với Vạn Hạnh đã có tác dụng
vừa như một động lực cho Sự tiến tới trên con đường hoằng hóa,lại vừa
như một chất xúc tác làm cho Sư tổng hòa với đời , với đạo , cũng như
chinh với bản thân Sư. . . . .
Ở chùa Tiêu ( Tiêu sơn tự, Trường
liêu tự,Thiên tâm tự) còn tấm bia đá cổ “Lý gia linh thạch “ có dòng
la:chữ ghi “ Thiên tâm tự chủ,tộc tăng Lý Vạn Hạnh ,Cổ Pháp nhân
dã”nghĩa Làm chủ chùa Thiên Tâm là Sư Vạn Hanh, người làng Cổ Pháp
. Đồng thời theo bia “ Lý gia linh thạch ” còn ghi “ đặc đông ngạn Hoa Lâm
nhân Phạm mẫu ”nghĩa là bà mẹ Phạm Thị ở Đông Ngạn (huỵên) , Hoa Lâm
(xã).
Về nguồn gốc quê mẹ Lý Thái Tổ , xưa
nay vẫn con đang có hai nguồn tư liệu , ý kiến tranh chấp nhau (?)
-1 là: Lý Thái Tổ lập làng Hoa Lâm
.
Năm 1010 , vua Lý Thái Tổ lên ngôi ,
lập thái miếu ở Kẻ Báng ( Dịch Bảng – Đình Bảng), lập Thái đường ( nhà
thờ mẹ)ở Cối giang. Cối giang sau này là tổng Hội phụ tức cổng Cói (cùng
thuộc huyện Đông Ngạn ,Phủ Từ Sơn , trấn Kinh Bắc với Đình Bảng , Dương
Lôi hiện nay ), khi đó là bãi đất hoang phế lên bờ phía đông sông Đuống
(sông Thiên Đức).
Vua Lý chiêu mộ viên đinh ( phu trồng hoa cung như trường hợp Làng Nuốn
(Đại đình) là 1 xóm của Dịch Bảng (Đình Bảng –Cổ Pháp)vốn người trong
làng “tuyển” ra để chuyên lo việc trồng rừng ở khu”thọ Năng Thiên Đức ”,
trấn giữ phía đầu lang phía đông Đền Đô , đến đời vua Lê- Chúa Trịnh mới
xin tách lập”xa” riêng là Đại Đình , lập chùa riêng, nhưng vẫn hay lấy
tên là chùa Cổ Pháp và đình làng Nuốn cũng chỉ thờ vọng 8 vua triều Lý).
Do trồng được hoa nhiêu như rừng nên nhà vua đặt tên là xã Hoa Lâm. Lúc
đầu có 6 thôn “Hoa lâm lục thôn “ gôm có : Thôn Thái Đường , là thôn thờ
mẹ Vua Lý . Du Lâm là nơi sau khi lễ mẹ vua xong thì về đó du ngoạn ,thư
giãn và câu cá ở đây có ao rất dài nơi Vua hay câu cá gọi là “ngự câu”vì
vậy còn gọi Du Lâm là “Cói ao dài ” ; các thôn ngoại vi là : xóm Đông ,
xóm Du ngoại ,thôn Lộc Hà, thôn Đông Trù ( bếp nấu ăn cho Vua
). Thôn
Thái Đường có nhà thờ mẹ vua (nay là thôn Thái Bình ) , ngày mùng 2
tháng 5 Nhâm Thìn(1232), Trần Thủ Độ làm bẫy sập ở Hoa Lâm , phut chốc
chon song 70 tôn thất nhà Lý, họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn , con cháu
thất tán đi muôn phương , suốt thời nhà Trần chỉ được làm thứ dân đi phu
đi lính không được đi học , không được thi cử làm quan !
Ý kiến thứ nhất này , lâu nay coi Hoa Lâm(Cói) là quê của Phạm Thị.
-2 là: “Phạm Thị” người làng Đình Sấm
(Dương Lôi ) thuộc hương Cổ Pháp …các tác giả Nguyễn Văn Chu và Tiến sỹ
giám đốc văn hóa Sở văn hóa Bắc Ninh sau này là Trần Đinh Luyện ( trên
báo Hà Bắc ra ngày 14-10-1995)”mới phát hiện” tìm ra tên của Phạm Thị là
Phạm Thị Ngà – ( còn có tên là Phạm Thị Tiên-Theo thần tích ở chùa Dâm )
có cha là Phạm Long , mẹ là Dặng Thị Quang sau khi sinh con (Lý Công
Uẩn), bà Phạm Thị mang con đến chùa Mạnh Tân , huyện Yên Phú (nay là
chùa Dâm , xã Thủy Lôi , huỵen Đông Anh ) đen năm con 9 tuổi mới bắt đắt
con về quê cũ đến chùa Cố Pháp được Sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi
.
Ở Đình Bảng ( Kẻ Báng) thì lại lưu
hành truyền thuyết . ”khi xưa Đức Bà là Phạm Thị xinh đẹp gữi việc quét
dọn ở chùa Tiêu , nơi có Sư Vạn Hạnh họ Lý tu thành chính quả trụ trì
. Một đêm gió mát trăng thanh bà mệt mỏi ngủ quên ở hiên chùa , váy sống
hớ hênh . Sư sau giờ niệm phật về phòng , vô ý bước qua nguời bà
. Thế
rồi bà có chửa . Khi sắp đén ngày mãn nguyệt khai hoa , Sư bảo bà về
chùa Cổ Pháp nơi ấy có nhà Sư Lý Khánh Văn , em ruột của Sư Vạn Hạnh trụ
trì . Một đêm xuân thang hai ngày 12 bà khăn gói sang chùa Cổ Pháp nhưng
vừa đến cổng chùa thì đau bụng trở dạ
. Bà rặn đẻ ngay dưới mái trong
cổng chùa . Nhà Sư Lý Khánh Văn nghe tiếng trẻ khóc oa oa vội chạy ra …
Từ ấy , chú bé ra đời ở cổng chùa được nuôi nấng trong chùa , mang tên
Công Uẩn ( có thể hiểu là “người đàn ông làng Diên Uẩn “ chữ’công” cũng
có ý tôn vinh mong muốn “người có sự nghiệp hiển hách “), về họ thì lấy
họ Lý của cha nuôi . Chú bé lớn lên khôn ngoan khác người thường , đến
năm bảy tuổi thì được đưa về chùa Tiêu cho Lý Khánh Vạn ( Sư Vạn Hạnh),
tiếp tục nuôi dạy ; và chùa Cổ Pháp được dân làng Diên Uẩn ( Cổ Pháp)
gọi là chùa Dận ( gọi chệch chữ “Rặn” mà ra
). Ngôi chùa chở tha nơi
phát tích của triều Lý Nước ta ”.
Nhà văn Xuân Cang nhân về thăm Đình
Bảng , đước trứơc cổng chùa Dận dã bình phẩm như sau :” chỉ sau một chữ
Rặn thôi mà hàng ngàn năm sau chung ta có thể hình dung ra những bước đi
đầu tiên của một nhân vật lịch sử vĩ đại
Cái thời phát tích vẻ vang ấy đã được mô tả rất thú vị trong quẻ Thủy
Lôi Truân của Kinh Dịch . Thủy là nước ở đây là mây
. Lôi là Sấm . Truân
là gian nan . Thời quẻ Truân là thời trời đất mới mở mang ,âm dương cuơng
nhu mới giao hòa , viẹc sinh nở còn khó khăn , có mây có sấm mà chưa có
mưa lên còn gian nan ; truân chuyên . người xưa dạy rằng thời Truân này
chính là thời nguyên sơ tốt lành tuy hiểm trở khó khăn đấy nhưng có mây
có sấm thì sẽ có mưa , chỉ cốt là là tìm được người hiền tài , giỏi việc
Kinh Luân , tổ chức sắp xếp việc nước , việc dân giỏi như dệt vải
. Kinh
là chia ra từng sợi , luân là dệt thành tấm . Người có tài Kinh luân ấy
chinh là chú bé sinh ở cổng chùa Dận ( Cổ Pháp tự).
Chuyện ở Cổ Pháp xưa đã được người bạn thơ của NK khái quát bằng mội bài
thơ Vịnh Sử như sau:
Một cái bước qua mà nên chuyện
Để người quét lá chịu hàm oan
Thân cô vượt cạn đêm chùa Dận
Lịch sử sinh thành,dưới mái hoang
(Nguyễn Đức Lưu)
Theo chính sử “ Đại Việt sử ký toàn
thư ” tập 1 trang “240” (Vua) họ Lý , tên húy là Công Uẩn , người châu
Cổ Pháp , (lộ) Băc Giang , mẹ họ Phạm , đi chơi ở chùa Tiên Sơn ( chùa
Tiêu , Trường liêu tự ) cung vơi người thần giao hợp rồi có chửa sinh
Vua ngày 12-2 năm Giáp Tuất , niên hiệu Thái Bình năm thứ 5(974) thời
Đinh . ”…. ” Vua sinh ra mới 3 tuổi , mẹ ắm đến nhà Lý Khánh Văn nhận làm
con nuôi”. Ở vùng quên Đông Ngạn – Từ Sơn đến nay còn lưu chuyền câu ca
dao :
Con ai đem bỏ chùa này
A di đà Phật con thầy thầy nuôi .
Ở đây cần lưu ý là “đi chơi chùa” chứ
không phải là “ở chùa” mà ở sứ Kinh Bắc ta xưa nay việc đi trảy hội , lễ
chùa của trai gái là rất tự do khoáng dật (mông 8 tháng 4 không đi hội
Gióng cũng hư mất đời – ca dao), có lẽ vào thời điểm lễ “Bụt đẻ “ này “
Phạm thi” đi chơi chùa Tiêu đã “Vướng duyên” với Sư (Vạn Hạnh) nên có
chửa đẻ ra Đức Vua sau này . Đã là Sư , đạo cao ,đức trọng được Vua Lê
Đại Hành trọng dụng , niêm vinh dự cho cực tộc Lý ở Cổ Pháp – do đó
“không thẻ có con’ được !
Dù có thật thì vẫn phải bưng bít , gán cho là con thân nhân (ở đây không
phải là “ướm dấu chân” hay là một cái “bước qua” mà sử sách ghi là “giao
hợp” hẳn hoi…. . án tại hồ sơ . thật không cãi vào đâu được ! con
thây(chùa) lại giả cho thầy (chùa) ở đây là Sư em (Sư đệ) nuôi con Sư
anh ( Sư huynh).
Lý giải này là hợp lẽ với truyền thuyết đân gian và bia “Lý gia linh
thạch’’ . (hòn đá thiêng ghi dòng họ Lý) Di tích chùa Tiêu hiện nay chủ
yếu tôn vinh Vạn Hạnh Thiền Sư , trong chùa co tượng Thiền Sư Vạn Hạnh
bằng đồng được thờ trong nhà tổ có bài vị ghi rõ “Lý chiều nhập nội, tể
tướng Lý Vạn Hạnh thiền sư thần vị”.
Theo “thiên nam ngữ lục” sách còn lưu giữ ở chùa Tiêu , cho ta thấy :
“Bà Phạm Thị vốn là một thanh nữ có nhan sắc , đực độ , nhưng do xa cơ
lỡ vận phẩi đi làm thuê làm mướn , ăn mày ăn xin ở chùa Ứng Đại(?).
Nói về việc “thụ thai sinh quý nhân”
sách viết:
Tháng giêng năm Giáp Tuất này
Giữa ngày mùng 9 là ngày Bụt sinh
……………….
Âm dương thăng giáng một hồi
Thủy liêm mở động ngọc lơi dề dề …
Sau khi bà Phạm Thị mang thai , nhà
Sư ấy không giám nhận vì sợ mang tiếng đến thanh giới tu hành nên đẫ
đuổi bà đi . Bà bụng mang dạ chửa đã phải đi hành khất , tuy có nhiều
người hỏi , lấy lam lẽ nhưng bà khônng chiu , không muốn :
Chỉ e phàm khí lộn thai
Lỗi đạo cùng trời , mất đạo cùng con
Bà cố đi tới chùa Dâm (Mạnh Tân tự)
một ngôi chùa hẻo lánh cách chùa Dận (Cổ Pháp Tự) khoảng 10 cây số. Dân
làng ở đây con giử được cuốn thần tích do Quan Hàn Lâm Viện , Đông các
đại học sỹ Nguyên Bính soạn năm 1574 ; 9 năm sau , Phạm Thị đem con về
chùa Cổ Pháp gặp Lý Khánh Văn – Sư hỏi hết sự tình , tinh tuối đưa trẻ ,
nhận làm con nuôi đăt tên là Công Uẩn ( Uẩn có ý nghĩa là tiềm ẩn sức
mạnh , được mang theo họ Lý , là họ của cha nuôi mà cũng đích thực là
của cha đẻ )- vì có những lơi dặn dò của Phạm Thị ủy thác cho Sư Lý
Khánh Văn vơi ước vọng của bà mẹ đứt ruột đẻ ra , chịu đựng biết bao
miệng thế gian ẩn náu nuôi con …. Lời dặn dò của tử mẩu đó quả là thiêng
liêng , gửi gắm vì sự nghiệp tương lai của con mình cho Sư Lý Khánh Văn
do đó dân làng Cổ Pháp gọi nôm là chùa Dặn (ý là dặn dò) dần dần đọc là
“chùa Dận” ( hiểu thao ý rặn đẻ)còn có tên là Ứng tâm tự ;trong chùa có
nhà mẫu thờ riêng “ Lý triều quốc mẫu”, ban thờ Sư Lý Khánh Văn …cùng
hai pho tượng cổ tạc bà Phạm Thị và Sư Khánh Văn
. . Ở chùa Dận ( Cổ Pháp
tự) còn giữ nguyên quả chuông đúc năm minh mệnh 20 ( Kỷ Hợi) , đề là (Cổ
Pháp tự trung”, trên quả chuông co khắc 1 bài “minh”:
Phú chung cổ thi:
Lam danh Cổ Pháp
Thắng chiêm Nam thiên
Bồ chung sơ tạo
Phạm các thi trung
Khung kinh Phật thất.
Kỷ tam thập niên
Ái thử nhân lý
Pháp thử thiện duyên
Dục hoàng qủa phúc
Bất tận kim tiền
Quân dạng công tạo
Vượng mệnh hậu vinh
Hỏa lư luân chú
Kim chất hoàn toàn
Huyền chi lần các
Khoa động thiên lân
Từ phong viễn tưởng
Vụ nguyệt thưởng tên
Nhĩ văn tâm ngộ
Tự viễn thiện thiên
Với thiện tối lạc
Thụ phúc vô biên
Phúc do tâm tạo
Chung dĩ minh truyền
Minh mệnh nhị thập liên
Tuế thứ kỷ hợi
Dịch:
Thơ phú chuông cổ.
Danh lam cổ pháp
Trời nam nhất miền
Chuông thiên đúc trước
Thơ trong gác thiền
Đọc hết kinh phật
Trải ba mươi năm
Yên long nhân ái
Việc thiện lên duyên
Muốn được quả phúc
Chớ có ăn tiền
Người góp công tạo
Bản mệnh hiển vinh
Lò lửa hun đúc
Đồng đốt đòng ròn
Treo chuông lên gác
Vang động trời bên
Gió xa cũng hưởng
Xem trăng khuyết tròn
Tai nghe , tâm ngộ
Điều thiện tự thiên (trời)
Làm thiện được lạc (an lạc)
Được phúc vô biên
Phúc do tâm tạo
Chuông vọng vang rền.
Minh mạng năm thứ 20
Kỷ hợi
Tương truyền : sau khi gửi con ( Lý
Công Uẩn) cho Sư Lý Khánh Văn , bà Phạm Thị rời chùa Dặn đi về phía Tây
Nam rừng Báng , đến gò “Mả Báng” ( nay ở gần thôn Long Vỹ, gần làng Nành
, nơi có huyệt phát đế vương theo sự dò tìm của Cao Biền trước đó ) thì
bà bị bạo bệnh . Thổ địa liền cho mối đùn thành mộ ) nay là “Lăng phát
tích” diện tích 240m, cao hơn mặt ruộng 1m) . Ngày giỗ ngày mùng 7 tháng
giêng hàng năm.
Ở Dương Lôi ( đình Sấm ) thì lại
tương truyền là : Xưa có bà Phạm Thị Ngà làm thủ hộ chùa Gia Châu ( còn
gọi là chùa Minh Châu hay “Châu minh Tự”(?) thường lên núi Tiêu hái củi,
nơi Sư Vạn Hạnh trụ trì . ”vì cảm động” mà bà có thai ( sau sinh Vua Lý,
bà liền bị dân làng duổi ra bìa làng ( sự tích na ná như chuyên Man
Nương , chuyện Thánh Gióng ) và chùa được gọi là “cha Lư” có nghĩa là
chùa La ( kêu la) gọi cha. Chư La được viết theo hán tự đọc thành chữ Lư
, với ý nghĩa là nơi sinh Vua Lý cất tiếng khóc chào đời , rồi tập nói
kêu nên goi cha mà không co cha .
Vì những lý do tế nhi (bi ẩn) kể trên
mặc dù triều lý dài tới 216 năm , có 9 đời vua , thừa quyền lực điêu tra
để biết chua vua Lý Công Uẩn là ai? Mà theo chinh sử thì sau khi nên
ngôi , vua Lý Thuận Thiên , đã phong cha (truy phong) là Hiển Khánh
Vương ,Mẹ là Minh Đức Thái Hậu, chú làm Vũ đạo vương , anh Vũ uy vương
,chú làm VŨ Đạo Vương ,con Vũ Uy Vương là Trung Hiển làm Thái úy. Đến
mùa xuân thang 2 ( năm 1018) truy phong “Bà nội” làm Hậu(hoàng thái hậu)
và dặt tên thụy(để thờ cúng). Như vạy là về gia tộc của Lý Công Uẩn ở kẻ
Báng là một cự tộc , có ông bà chú bác anh em họ nội khá đông đúc ,
nhưng vì là “con thầy (chùa)” nên không tiện công bố “ cha thực của nhà
vua là ai ?”! Trong chuyện về Thiền Sư Vạn Hạnh ở sách Thiền uyển tập
anh có chép : “ ban đêm Sư Vạn Hạnh ngồi nhập định nghe xung quanh nơi
mộ Hiển Khánh Vương ( chồng bà Phạm Thị - cha của Lý Công Uẩn ) 4 phía
đều có tiếng ngâm thơ , bèn cho chép lại”… Nói thế tức là Lý Công Uẩn có
“mộ Cha” khi Vạn Hạnh còn sống … Nhưng thực thì ở Thọ Lăng Thiên Đức
trong rừng Báng , nay là cánh đồng Đình Bảng có tất cả 11 Lăng mộ trong
đó có đủ 9 vị vua nhà Lý, cùng Lăng Lý thánh mẫu (Lăng phát tích ) và
lăng Ỷ Lan Nguyên Phi ( Lăng lương dâu) không hề có lăng mộ Hiển Khánh
Vương ? Trong khi đó trên núi Tiêu Sơn phía trước chùa có bãi đất gọi là
“mả vua”phải chăng đây là mộ cha vua ( Lý Công Uẩn), chính là mộ của
Thiền Sư Lý Vạn Hạnh trụ trì ở đây ?
Thôi , lịch sử có những điều kỳ bí ,
mới là thú vị chỉ có trời mới biết được ! Ở ta những nhân vật thánh thần
, vua chúa ,danh nhân thiêu gì Người “không có Bố” như Thánh Gióng, Đinh
Tiên Hoàng , Mạc Đĩnh Chi , Chu Văn An …
Trước Lý Công Uẩn , trong thần thuyết
về sự thác sinh của Phạm Bạch Hổ : mẹ ông vào miếu nấp mưa , giao phối
với thần miếu trong cơn mưa , có mang đẻ ra ông Sứ quân nhập cuộc vào
loạn 12 Sứ quân thời giữa thế kỷ thứ
X. Vậy có thơ rằng :
CON GÁI PHỦ TỪ
Giỏi thay con gái Phủ Từ
Từ xưa đã dám yêu Sư Chùa Viềng
Động Ngàn đất Phật linh thiêng.
Đẻ ra Vua chúa rồng tiên nhà mình
Không đi tu cũng đã xinh
Đi làm Thủ Hộ hết mình …. đẹp sao
Đất thì thấp , trời thì cao
Con trời , con Phật gửi vào nhà ta
Con trời chẳng biết mặt cha
Lớn lên trung dũng tài ba lạ thường
Ai về bên bến sông Tương
Chớ gần cô Tiểu mà vương phải bùa .
Đến thị xã Từ Sơn( phủ Từ) sau khi đi
thăm chùa Dận (nơi sinh Thái tổ Lý Công Uẩn), đền Đô (thờ 8 vua nhà Lý)
mà chưa lên thăm Tiêu Sơn Tự (chùa Tiêu) thì coi như chưa đến huyện Đông
Ngàn, châu Cổ Pháp xưa. Đó là"chùa Thiên Tâm" nơi Vạn Hạnh thiền sư trụ
trì, người được tương truyền là cha đẻ, có công nuôi dạy và tạo dựng Lý
Công Uẩn. Chùa được xây dựng phía Tây bên trên sườn núi Tiêu,xã Tương
Giang nhìn xuống dòng Tiêu Tương uốn lượn gắn với câu chuyện tình Trương
Chi - Mị Nương đã đi vào huyền thoại. Chùa chỉ có một cổng ở chân núi
phía tây, trên cổng có ba chữ đại tự " bất nhị môn" (không 2 cửa) để
người đời ngẫm nghĩ: đi theo đạo Phật chỉ có một đường hoặc suy diễn là
con người ta ăn ở không nên hai lòng. . . Sử cũ ghi: Tiêu Sơn Cổ Tự được
coi như một Thiền Viện lớn đời Đinh- tiền Lê- Lý, là nơi đào tạo các vị
cao tăng và cung cấp kinh sách cho nhiều chùa trong nước. Dấu tích xưa
còn lưu giữ tại nơi đây như: tượng Lý Vạn Hạnh bằng đồng được thờ trong
nhà Tổ, có bài vị ghi rõ: "Lý triều nhập nội, Tể tướng Lý Vạn Hạnh thiền
sư thần vị". Trong nhà bia của chùa có tấm bia đá mặt trước có khắc bốn
chữ Hán "Lý gia linh thạch", mặt sau còn khắc nhiều chữ nhỏ; đây là hòn
đá thiêng ghi về dòng họ Lý,ngoài ra trong chùa còn nhiều hoành phi, câu
đối, chuông đồng từ xưa còn lại. Các công trình được xây dựng từ trước
thời nhà Lý. Các đời sau trùng tu tôn tạo thành một quần thể khá đẹp đẽ
hữu tình. Tượng Vạn Hạnh thiền sư to lớn ngồi thiền định trên đỉnh núi
Tiêu Sơn trông về hướng Tây phương cực lạc.
. . Người đi trên đường quốc lộ
1A cách vài cây số đã trông thấy tượng Thiền sư trắng toát trên đỉnh núi
Tiêu. Trên đường từ chùa ở lưng núi lên chỗ tượng Thiền sư có tấm bia
khắc bài thơ nổi tiếng"Thị đệ tử" của Vạn Hạnh:
Thị đệ tử
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
Xin tạm dịch:
Bảo(dặn) học trò
Thân như ánh chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi, thu héo cong
Hiểu vận thịnh suy không sợ hãi
Như trên đầu cỏ hạt sương trong
Bài thơ thị tịch này, Thiền sư làm ở
tuổi 95, lúc sắp "tịch". Đây là bài thơ nổi tiếng nhất của thơ thiền Đại
Việt, chỉ với 28 chữ đúc trong 4 câu hàm Xúc mà chứa đủ cả triết cả thơ
nắm hết được sự huyền diệu của tạo hóa, hiểu được lẽ đời- nói theo hôm
nay là nó có tư tưởng khai sáng, chỉ đạo mở ra một thời đại mới của dân
tộc (nước Đại Việt ta). Chùa Tiêu xưa nay được coi là danh lam cổ tự,
điều đặc biệt nữa là: vào đầu năm Giáp thân (2004) chùa Tiêu đã phát
hiện được"nhục thân bồ tát Như Trí" với tư thế ngồi thiền đã đạt "tượng
táng" (Trung Quốc gọi là"Giáp trữ tất") tới nay đã gần 300 năm(vào thời
vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái khoảng năm 1723 ?). Qua nghiên cứu
của các nhà khoa học thì thiền sư Như Trí cao khoảng 1,65m, ngài tịch ở
độ tuổi 45-50, pho tượng gốc nặng 34kg chiều cao ngồi 78,5 cm được đặt
trong nhà thờ Tổ trong một khám sơn son thiếp vàng,nay để trong hộp kính
kín dày 10mm chứa đầy khí nitơ để bào quản lâu dài. Nhục thân Thiền sư
Như Trí là pho tượng thứ tư ở nước ta theo kiểu tượng táng (trước đó là
tượng táng các Thiền sư Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu(Hà Tây
cũ), tượng Thiền sư Chuyết Chuyết ở chùa Phật Tích (Tiên Du, Bắc Ninh),
chùa Tiêu cách trung tâm thị xã Từ Sơn hơn 2 cây số, từ Hà Nội về 20km ở
phía bên trái quốc lộ 1A đi Lạng Sơn. Hàng năm cứ đến ngày 5-5 Âm lịch là
bà con các làng quanh vùng quê hương nhà Lý như Đình Bảng, Dương Lôi,
Tam Tảo cùng dân xã Tương Giang quần tụ về Tiêu Sơn Tự làm lễ dâng hương
tưởng niệm Quốc sư Lý Vạn Hạnh (Phạm Thị Thánh Mẫu mẹ Đức Lý Thái Tổ thờ
ở chùa Dận"Cổ Pháp Tự"). Đất nước Đại Việt ta đã nghìn năm theo cánh
rồng bay lên, đến Tiêu Sơn Tự, thi nhân nào mà chả "tức sự":
Vãng cảnh chùa
Sắc không nào bước vướng chân
Bồ đề xòa bóng hồng trần nước mây
Thiền sư đã tịch nơi đây
Còn vang câu kệ, sân rày cành mai. . .
NK
Đến Tiêu Sơn Tự, ai đó đã từng mê
tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn chắc còn nhớ"Tiêu Sơn tráng sĩ" của Khái
Hưng? chính là đây: Nơi chàng Phạm Thái yêu Trương Quỳnh Như (thời Lê
mạt) thất tình bạc mệnh đã về "tu", múa gươm tráng sĩ cất tiếng bi ai:
"Ha ha! Chí lớn trong thiên hạ không
đựng đầy một hồ rượu;
Ha ha! Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy hai con mắt mỹ nhân"
Tiêu Sơn Tự quả là một danh thắng đầy
sự tích cổ kim của xứ Kinh Bắc nghìn năm văn hiến.
Bài 7: CHÙA CỔ PHÁP
Tên thường gọi là Chùa Dận, nơi sinh Lý
Công Uẩn (còn có tên là chùa Ứng Thiên Tâm- Chùa Ứng Tâm).
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:
"trước ở Viện Cảm Tuyền, chùa Ứng Thiên Tâm (Cổ Pháp) có con chó con mới
sinh, sắc trắng, lông có đốm đen, kết thành hai chữ Thiên Tử. Kẻ thức
giả nói đó là điềm năm Tuất (năm con chó), đất ấy sẽ sinh ra Thiên Tử
(Vua).
Đến nay, Vua (Lý Công Uẩn) sinh năm Giáp
Tuất ( ngày 12 tháng 2 tức mùng 8 tháng 3 năm 974), sau lên làm Thiên
Tử, quả là ứng nghiệm.
Chùa Cổ Pháp khi khởi dựng trên gò đất
giữa đồng quê. Hiện nay vị trí ở giữa Phố Chùa Dận, bên đường QL1A
(quãng cây số 15) và đường xe lửa Hà Nội-Lạng Sơn chạy qua đất làng Đình
Bảng. Đây là nơi trụ trì của sư Lý Khánh Văn. Trong chùa xưa có Viện Cảm
Tuyền là trung tâm Phật Giáo nổi tiếng. Tại đây Lý Công Uẩn được sư Lý
Khánh Văn nuôi dưỡng từ khi còn thơ ấu. Tam quan chùa là nơi sinh Lý Công
Uẩn; và cũng vì vậy mà Chùa Dận là nơi thờ Lý Thánh Mẫu và Lý Khánh Văn.
Theo truyền thuyết, Lý Công Uẩn lúc còn là chú tiểu rất hay nghịch.
. . một hôm bị Thầy phạt vì tội ăn trộm phần oản cùng chuối lễ Phật và Đức
Thánh Quan cai quản chùa. Lý Công Uẩn bị Thầy trói bắt nằm dưới đất. Đêm
khuya muỗi đốt không ngủ được, Lý đã tức cảnh ngâm bài thơ (Có khẩu khí
đế vương):
Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiên
Nhật Nguyệt đồng song đối ngã miên
Dạ thâm bất cảm trường thân túc
Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên. (Tức sự)
bài dịch 1:
Trời làm chăn gối, đất đệm lưng
Nhật Nguyệt cùng ta ngủ trước song
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ sợ lăn kềnh cả núi sông.
bài dịch 2 :
Trời làm chăn gối, đất đệm lưng
Nhật Nguyệt cùng ta ngủ trước song
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ ngại non sông xã tắc rung.
Với những chuyện chú tiểu Lý Công Uẩn ăn
oản trước Phật, bị phạt rồi Ngài tức mình đã đuổi không cho Phật ở Chùa
(thích chữ vào vai tượng Phật "đồ tam thiên lý"- đày ba nghìn dặm và mỗi
dấu chân của Ngài đều in hình chữ Vương(Vua). Đến thăm Chùa Dận hôm nay
ngoài việc tham quan cổng Chùa (Tam Quan) nơi bà Phạm Thị sinh ra Đức
Ngài còn được xem quả chuông đúc năm Minh Mệnh 20(Kỷ hợi 1839), đề là
"Cổ Pháp tự chung" có khắc thơ cổ đúc chuông:
Lam danh Cổ Pháp
Thắng chiêm Nam thiên
Bồ chung sơ tạo
Phạm các thị chung. . .
Lễ hội Chùa Cổ Pháp hàng năm tổ chức vào
ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch kỷ niệm ngày hóa của Lý Thánh Mẫu Minh
Đức Hoàng thái hậu Phạm Thị.
Khi Lý Công Uẩn lớn lên thì Thiền Sư
Vạn Hạnh và Đại Sư Khuông Việt đều đã cao tuổi , do đó Vạn Hạnh đã gửi
học trò của mình cho Thiền Sư Đa Bảo kèm cặp thêm
. Theo sách Thiền uyển
tập anh thì sư Đa Bảo tu ở chùa Kiến Sơ , làng Gióng ( Phù Đổng , Huyện
Tiên Du )- không biết là người ở đâu ,và cũng không biết họ là gì
. Khi
Đại Sư Khuông Việt dạy tại chùa Khai Quốc (Đại La) , Sư Đa Bảo đến tham
học , được Đại Sư khen là ngừơi gặp việc thì chóng hiểu , xử sự cẩn thận
, nên riêng cho nhập thất . Sau khi đắc Pháp , Sư chỉ một mình một bát ,
tiêu dạo ngoài vật . Sau được chùa Kiến Sơ , bèn đến ở đó
. Lý Công Uẩn
lúc mới gặp còn là chú tiểu , Sư thấy tướng mạo anh tuấn khác thường ,
bèn bảo : “ Trẻ này cốt tướng phi phàm , một ngáy kia sẽ làm Vua , ắt là
người này đây”. Lý Công Uẩn cả kinh , thưa : “ hiện nay Thánh thượng anh
minh (Lê Đại Hành ) còn đó ,trong nước đang yên vui , Thầy sao lại nói
lời phản nghịch, nếu nhà Vua nghe được thì sẽ bị tội tru di?”
Sư bảo ; “ Mệnh trời vốn tiền định ,
dù người muốn trốn cũng chẳng được nào
. Giả như lời ta mà đúng thì mong
(nhà ngươi với ta) chớ bỏ nhau”.
Khi Lý Công Uẩn lên ngôi Vua , đã
nhiều lần mời sư Đa Bảo vào cung , hỏi bàn yếu chỉ củaThiền và ơn lễ Sư
rất hậu . Đến cả việc chính trị của triều đình,sư Đa Bảo đều tham dự
phần quyết định . Vua ( Lý Thái Tổ) xuống chiếu trùng tu chùa Kiến Sơ. Sau không rõ Sư tịch ở đâu ?
Qua truyện trên ta biết : Sau Vạn
Hạnh thì sư Đa Bảo là thầy dạy dỗ rèn cặp Lý Công Uẩn thuở còn hàn vi ,
rồi đến khi Lý Công Uẩn làm Vua thì lại tham gia quyết đoán việc triều
chính .
Theo nhà Sử học Lê Mạnh Thát thì
trước khi sư Đa Bảo về trụ trì ở chùa Kiến Sơ ( vào khoảng năm 990, Sư
đã gần 40 tuổi ) ở đây có đền Phù Đổng lúc đó mới chỉ là thờ một vị thổ
thần của hương Phù Đổng . ( Đến các sách Việt Điện U Linh và Lĩnh Nam
chích quái thế kỷ XV coi Phù Đổng như một vị tướng dẹp giặc Ân thời Hùng
Vương ) – và sau này vua Lý Thái Tổ , vốn học thầy Đa Bảo ở đây, đã tôn
vinh thần Phù đổng là Xung Thiên Đại Vương, đền thờ thổ thần Phù Đổng ở
chùa Kiến Sơ , trước đó do sư Cảm Thành - vào khoảng năm 820 , có một
nhà giàu trong làng , họ Nguyễn , đã hiến cả dinh cơ của nhà mình để Sư
lập lên chùa Kiến Sơ ( Thờ Phật) đồng thời lập nhà thờ thổ thần mé bên
phải nhà chùa . ( chưa tôn thành Thánh Gióng . Phù Đổng Thiên Vương như
sau này ). Ngày tháng xói mòn, dân trong làng biến khu chùa đền đó thành
nơi cầu đảo thờ quỉ ma , gọi bậy là “dâm từ”
. Đến khi sư Đa Bảo đến trụ
trì , để dẹp đi … Sư đã sang tác “ sấm thi”
. . một hôm , tại cây cổ thụ
trước đền thờ thổ thần hiện 1 bài thơ “Kệ” rằng :
Phật pháp ai hay hộ
Giữ Đức ở vườn kỳ
Nếu không ta giống cây
Sớm đã xứ khác đi
Chẳng chở kim cương bộ
Na La Diên dấu kỳ
Đầy trời nhiều bụi tạp
Chùa Phật chứa yêu ma
Một ngày khác , Người ta nghe thấy
trên không trung có tiếng đáp :
Phật pháp từ bi lớn
Ánh thiêng phủ cả trời
Nguyện thường theo thọ giới
Vườn kỳ mãi giúp thôi
Có sách viết là: bài “Kệ” trên hiện
ra cây cổ thụ trước dền Phù đổng. Sư nói là:thấy làm lạ bèn lại thiết đàn
trì giới cho thần. ( có trì giới là để trừ tà ác , để thanh tịnh , dễ bề
tụ định và phát tuệ , để chúng sinh có Phật tính … tu mới đắc đạo
). Đức
Vua Lý Thái Tổ lúc còn tiềm long ( rồng chưa xuất hiện) biết sư Đa Bảo
đức hạnh cao thượng , ở cương vị học trò đã cùng làm đàn việt ( vị thí
chủ) cho thầy . Khi đã lên ngôi vua , tự thân về thăm chùa Kiến Sơ với
Thầy ở đó . Thiền sư nghênh giá đi qúa bên chùa
. Sư cất tiếng hỏi ; “
Phật tử , người sao không nhanh nhẹn đến chúc mừng Đức tân thiên tử ?”
Thần (Phù Đổng) ứng thanh, hiện ra nơi da cây ( vỏ cây cổ thụ)4 câu thơ
:
Đức Đế càn khôn lớn
Oai thanh yên tám miền
Cõi âm nhớ ân huệ
Nhuần thấm phong xung thiên .
Thái Tổ trông thấy , đọc rất biết ý
(đề xuất) của thần , liền ban hiệu ( cho Thần Phù Đổng) là Xung Thiên
Đại Vương . Bài thơ (ở da cây) tự dưng biến Mất
. Vua lấy làm lạ , sai
thợ tạc tượng thờ thần Xung Thiên Đại Vương (Thánh Gióng)dung nghi hùng
vĩ và tướng hầu 8 pho . Sơn thếp xong rồi ,lại thấy hiện ở cây đại thụ 4
câu thơ :
Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn chiếu đuốc
Bóng mất trời lên non.
Sư đem bài “Kệ” trên trình vua
. Thái
Tổ không hiểu rõ câu sấm đó nói gì? Câu sấm này tiên tri ứng với nhà Lý
tồn tại 8 đời Vua thì truyền ngôi cho nhà Trần
. Chữ “ Bát” là y bát (
chiếc bát khất thực) và chữ Bát là số 8 đồng âm (1 lối chơi chữ ) 1 bát
tức như 8 , vua Lý Huệ Tông tên Sảm , đấy gọi là “trời lên non” Sấm thi
(thơ Sấm) nó thần diệu như vậy đó
. Cũng có ý kiến cho là bài sấm thi
trên do Sư Vạn Hạnh sáng tác . Như vậy sự tích Thánh Gióng (Xung Thiên
Đại Vương ) có từ thời sư Đa Bảo và Vua Lý Thái Tổ , đến đời Trần được
tôn vinh thành một vị thiên tướng thời Hùng Vương , đại biểu cho tinh
thần chống ngoại xâm (ở thời sư Đa Bảo trở thành một Phật tử , rồi được
vua Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Đại Vương)
. Sách Việt Sử Diễn Âm
sau này cũng đưa sự kiện này trong mô tả lịch sử như sau :
Thái Tổ lại nhớ đến thầy
Ở chùa Phù Đổng ngày rày viếng chơi
Thiên tăng thấy vua đến chơi
Đến Thần Vương miếu có lời rằng bây
Có tân Thiên Tử đến đây
Thần Vương xá lại , đường này mừng Vua
Thần liền hiện đến bốn câu
Dòng dòng vào quạt nên thơ bảo Thầy
Thi văn:
Nhất bát công đức thủy
Tùy duyên hóa thế gian
Quang minh trùng chiếu diệu
Miệt ảnh nhật đăng sơn
Thiền tăng lại bảo rằng bay
Ấy lời phản phúc xa thay khôn lường
Thần Vương lại bảo tỏ đường
Thơ khác lại chép vào tường cho hay
Thi văn ;
Đế đức càn khôn lại
Uy quang chiếu bát điên
Đình âm mong huệ hải
Phú ốc bái Xung Thiên
Qua chuyện trên , đời nay ta thấy :
Thần Phù Đổng từ một vị thần làng (muốn) trở thành thần quốc gia( của cả
một nước tôn thờ, 1 trong tứ bất tử) dã xuất phát từ nhà vua (chính
quyền) phong tước (Xung Thiên Đại Vương) , có như vậy mới linh ứng
(thiêng) và mới được toàn dân tôn thờ . Dân gian có câu ; hòn đất nặn
nên Bụt , khúc gỗ tạc lên (tượng) thánh thần
…. qủa là chí lý !
Công lao của sư Đa Bảo với Đức vua Lý
Thái Tổ là đã dẹp đền thờ thần Phù Đổng ở dạng dâm thần mà Sư Cảm Thành
đã dựng lên (tạo ra) ở chùa Kiến Sơ …từ do tạo ra một vị thần mới (Thánh
Gióng- Xung Thiên Đại Vưong) đáp ứng được nhu cầu tâm linh ( lễ bái ,
cầu nguyện) của nhân dân , đồng thời đề cao dược tinh thần yêu nước
chống ngoại xâm của dân tộc mình . Như vậy là các vị trí thức (Quốc Sư
), Vua chúa đã sáng tạo ra Thần Thánh để phục vụ đắc lực cho công cuộc
Quốc thái dân an – đó là một kỳ diệu ở trên thế gian này- nước Đại Việt
ta.
Bài 9:
VẠN HẠNH & LÝ CÔNG
UẨN
Với Lý Công Uẩn (sau này là Vua Thuận
Thiên , Thái Tổ nhà Lý) thì Thiền Sư Vạn Hạnh đích thực là thầy học ( có
thể là cha dẻ) ngừoi đã dạy dỗ, dìu dắt , tiến cử vào làm Quan với Vua
Lê Đại Hành , làm tới Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ (như chức bộ
trưởng Quốc phòng- tổng tư lệnh quân đội)để rồi đến lúc “ tật Lê chìm bể
Bắc , hạt Lý mọc trời Nam” lên ngôi Hoàng Đế
.
Ngay từ buổi đầu , ở Viện Cảm tuyền ( ở Chùa Lục Tổ ) nơi Thiền Sư Lý
Khánh Văn đang nuôi và dạy Lý Công Uẩn ( lúc còn trẻ thơ ) , Sư Vạn Hạnh
thấy khen rằng : “ Đây là người phi thường sau khi lớn lên tất có thể
giải quyết rối rắm (cho đời) mà làm Minh Chúa của Thiên hạ”.
Sư Vạn Hạnh quả là một vị Quốc Sư có con mắt tinh đời (con mắt của nhà
tướng số), tiên tri “trông mặt mà bắt hình dong” kỳ tài là vậy
Sau này nhà thơ Huy Cận , sau 985 năm đã có bài thơ “mắt Lý Công Uẩn”
như một sự tiếp nối của hai thầy trò (cha con) nhà Lý
.
Mắt chứa không gian – chứa thời gian
Nhìn trước nghìn năm – mắt địa bàn
Vạn dặm phù sa bồi lịch sử
Dời Đô , dất nước đã sang trang.
Vĩ nhân , Thánh nhân hơn người đời bình thường là có con mắt nhìn thấu
tương lai là vậy . ( Đời bây giờ có Chủ Tịch Hồ Chí Minh cũng có nhiều
dự báo như thế) .
Sư Vạn Hạnh và Sư Lý Khánh Văn là hai anh em ruột lên sự giao lưu đi lại
giữa hai chùa Lục Tổ , chùa Tiêu ở cùng trong 1 vùng cách nhau độ hơn 3
cây số (trong Hương , rồi là châu Cổ Pháp , ;là thường xuyên
. ở chùa Lục
tổ có viện Cảm Tuyền 1 loại trường học thời bấy giờ để dạy con em trong
vùng (có Lý Công Uẩn) học ở đấy .
Vào thời điểm trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi một loạt các “điềm” xấu tốt
đã xuất hiện . Sử sách đã chép ; “ bấy giờ Ngoạ Triều bạo ngược , Trời
và người đều chán . Lý Công Uẩn lúc ấy làm Thân Vệ chưa nhận truyền ngôi
. Trong khoảng thời gian này , những điềm đan xem như chó trắng ở Viện
Cảm Tuyền , chùa Ứng Thiên Tâm ( 1 tên khác của chùa Dận ) lông trên
lưng chó hiện thành chữ Thiên Tử (vua) . Sét đánh vào cây Gạo (ở thôn
Đình Sấm , hương Cổ Pháp ) để lại bài văn (Thụ căn diểu diểu …). Ở xung
quanh mộ Hiển Khánh Vương (cha Lý Công Uẩn ) đêm có nghe tiếng đọc tụng
( sấm thi) . Cây đa ở chùa Song Lâm ( làng Nành). có sâu ăn vào vỏ cây
hằn lên thành chữ Quốc . Ấy , đại khái , những việc này (điềm báo ) tùy
theo nơi tai nghe mắt thấy . Sư dã xét bàn , mỗi điều đều hợp với điềm
Lệ diệt Lý hưng”
Cái điềm sinh chó trắng có chữ Thiên Tử trên lưng ứng với Lý Công Uẩn
sinh năm Giáp Tuất (cầm tinh con chó) Đại Việt Sử ký toàn thư cũng chép
“…kẻ thức giả nói : bởi đó là cái điềm của người sinh năm Tuất sẽ làm
Thiên Tử”. đến lúc ấy , Vua sinh năm Giáp Tuất mà làm Thiên Tử , quả
đúng’’.
Ở Trung Quốc và Việt Nam ta (cũng như nhiều nước trên thế giới ) cái
chuyện sấm vĩ kiểu này xưa nay vẫn được lan truyền khá thú vị “sấm”
nhiều khi là do người đời sau đặt ra như là “để hợp pháp hóa” khẳng định
một sự kiện có thật đã được tiền định (trời làm ra thế) để củng cố một
niềm tin đích thực . Các bài sấm thi mà người ta nghĩ là do Sư Vạn Hạnh
sang tác nhằm tạo dư luận , phò Lý Công Uẩn xây dựng sự nghiệp Đế Vương
đã bắt nguồn từ Sư Định Không và Sư La Quí (đất Cổ Pháp sẽ sinh ra một
vị Đế Vương đủ sức làm chủ đất nước không còn bị ngoại bang đô hộ và làm
cho Phật giáo(Quốc giáo) hưng thịnh.
Quan điểm chính trị của Sư Vạn Hạnh ( Thầy của Lý Công Uẩn ) là rất rõ
ràng. Đó là phảiđấu tranh giành được Tổ quốc độc lập , quan điểm chi
phối đã gần 300 năm phất triển của lịch sử tư tưởng văn hóa Việt Nam cho
đến hôm nay có lẽ vẫn là còn nguyên giá trị
.
Sử sách còn chép lại : Ngày Lý Thái Tổ lên ngôi , Sư Vạn Hạnh đang ở
chùa Đà (chùa Lục Tổ) linh tính đã biết trước , gọi 2 Vương chú Bác của
Lý Công Uẩn tới nói : Thiên tử (Ngoạ Triều) đã băng , Lý Thân Vệ đang ở
nhà ( Hoa Lư) . Tay chân họ Lý túc trực trong thành (Hoa Lư) lên tới số
nghìn.
Nội trong ngày Thân Vệ ắt sẽ được thiên hạ Bèn yết bảng ở đường cái nói
rằng .
Cây Lê chìm bể Bắc
Chồi Lý mọc trời Nam
Bốn phương gươm giáo lặng
Tám cõi được bình
an.
(Tật lê trầm bắc thủy
Lý tử thọ Nam thiên
Tứ phương qua can tỉnh
Bát biểu hạ bình yên).
Hai vương nghe Sư nói , rất sợ , sai người đi hỏi , quả đúng như Sư đã
nói .
Qua đó cho thấy việc Lý Công Uẩn lên ngôi Vua là sự sắp dặt công phu của
thầy (cha đẻ) mình và đấy là niềm hạnh phúc nhất của Sư Vạn Hạnh , nó
đặt hy vọng của không biết bao nhiêu vị Thiền Sư , tiền bối (đất nước
độc lập , Phật pháp hưng thịnh).
Sử sách thời Tiền Lê còn ghi : Sau khi Đại Hành hoàng Đế băng , Trung
Tông ( Long Việt) vâng lên chiếu lên nối ngôi , Long Đĩnh làm loạn ,
Trung Tông vì tình anh em cùng mẹ không nỡ giết , tha cho
. Sau Long
Đĩnh sai bọn trộm cướp ban đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông ( vừa
lên ngôi được 3 ngày ). Bầy tôi đều chạy trốn , duy có Điện tiền Quân là
Lý Công Uẩn ôm xác (Vua Trung Tông) mà khóc , Vua (Ngoạ Triều) , khen
(Công Uẩn) là người,trung nghĩa, trọng dụng
. Chính vì thế có lần ăn quả
Khế thấy hột mận (chữ Lý có nghĩa là cây mận) tuy đã từng được nghe lời
sấm vĩ ( cây Lê chìm bể Bắc , chồi Lý mọc trời Nam…” Vua (Ngoạ Triều) đã
ngầm tìm người họ Lý giết đi , thế mà Công Uẩn ở ngay bên cạnh , rốt
cuộc cũng không ngờ . Đến khi Ngoạ Triều băng (do ốm liệt gường, chết
tại Điện ngủ) , Vua nối ngôi còn bé , Công Uẩn (tả điện tiền chỉ huy sứ
) cùng với Nguyến Đê – Hữu điện tiền chỉ huy sứ , mỗi người được đem 500
quân Tùy Long vào làm túc vệ ( bảo vệ ấu chúa) khi ấy Lý Công Uẩn 36
tuổi ; trong cung lúc ấy có Chi Hầu Đào Cam Mộc do biết Lý Công Uẩn muốn
lên ngôi , bèn bóng gió nói khích rằng : mới rồi chúa thượng u tối bạo
ngược , phần nhiều làm việc bất nghĩa , Trời chán ghét cái Đức ấy , nên
không cho sống lâu , con nối thơ ấu chưa cáng đáng nổi những khó khăn ;
cơ sự rắc rối , Trăm quan không ưa , dân đen ngao ngán , đi tìm chân
chúa . Thân Vệ sao không nhân lúc này , vận dụng mưu cao , ra quyết định
sáng suốt , xa thì theo dấu chân Vua Thang Vua Vũ , gần thì noi việc
Dương (thị) – Lê(Hoàn) , trên thuận lòng trời dưới theo ý dân ? Sao mà
còn khư khư ôm lấy cái điển tiết chăng ?
Lý Công Uẩn tuy trong bụng hài lòng về lời nói đó , nhưng còn ngờ có mưu
gian . , mới vờ mắng Cam Mộc răng : “ Sao ông dám nói những lời như vậy ?
ta phải bắt nộp cho triều đình”Cam Mộc chậm rãi đáp : tôi thấy thiên
thời và nhân sự như vậy nên mới dám trình ra , nay muốn bắt nộp triều
đinh, thực không sợ chết !” Công Uẩn nói : “ta sao lỡ tố cáo ông , nhưng
sợ lời kia để lộ ra thì 2 ta cùng bị giết”. Cam Mộc lại bảo Lý Công Uẩn
: “Người trong nước đều nói họ Lý đáng thay họ Lê , lời sấm đã thành sự
thật , không thể giấu được , chuyển họa thành phúc là lúc này đây ; Thân
Vệ còn ngờ chăng ?” Công Uẩn nói ! Ta xem chí công ông không khác ý Vạn
Hạnh, quả như lời nói ấy , có kế sách gì không ? Cam Mộc rằng : “nay
đang lúc trăm họ mệt mỏi , dân không chịu noi lệnh trên , Thân Vệ nếu
lấy ân đức mà vỗ về , họ sẽ vui vẻ đi theo như nước dồn về chỗ trũng ,
ai có thể chặn được”. Cam Mộc biết có sự gấp gáp , để chậm e sinh biến ,
bất lợi , ông nói với khanh sĩ trong Triều , ngày hôm đó cũng họp ở
triều đường , bàn rằng : nay muôn triều người có lòng khác , dưới trên
bỏ Đức , người ta oán tiên Vương hà khắc bạo
. ngược , không muốn theo tự
quân (Vua còn bé nối dõi ) mà chỉ muốn suy tôn Thân Vệ , bọn ta không
nhân lúc này lập Thân Vệ làm Thiên Tử , nếu bất chợt có biến , thì có
giữ được đầu cổ của mình không ?Do thế , họ cùng nhau dìu Công Uẩn lên
làm chính Điện , lập làm Thiên tử . Khi lên ngôi trăm quan ở dưới sân
rồng đều sụp lạy , trong ngoài đều hô “vạn tuế” tiếng vang khắp cả triều
đình .
Như vậy là ( ta thấy) việc lên ngôi của Lý Công Uẩn : 3 nhân vật có vai
trò quyết định là Thiền Sư Van Hạnh , Chi Hậu Đào Cam Mộc và Hữu điện
tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đê . (1)
Với Vạn Hạnh , có lẽ : ngày lên ngôi của Lý Công Uẩn là ngày hạnh phúc
nhất của cuộc đời Sư sau bao nhiêu năm đấu tranh, nó thỏa mãn được
nguyện vọng của Sư , cũng như của biết bao nhiêu vị Thiền sư tiền bối (
đât nước được đôc lập , Vua ta làm chủ nước ta , Phật giáo cũng được
phát triển và hưng thịnh cùng đất nước ) – Phật giáo không thể phát
triển bên ngoài dân tộc và càng không thể hưng thịnh khi dân tộc mất chủ
quyền . Nói như nhà Sử học Tiến sỹ Lê Mạnh Phát ; “ việc Vạn Hạnh phấn
đấu đẻ yểm trợ và tạo điều kiện cho Lý Công Uẩn làm chủ đất nước thể
hiện quan điểm chính trị (nêu ở trên) là rất tiến bộ
. Quan điểm chính
trị này có thể nói đã chi phối 300 năm phát triển lịch sử tư tưởng và
văn học việt nam…
(1). Nguyễn Đê là con trai của Định Quốc
Công Nguyễn Bậc . Khi Nguyễn Bậc bị Lê Hoàn giết còn đang du học ở Bác
Giang , Ông là bạn thân của Lý Công Uẩn , sau được Vua Lê phong tước
ngang với Lý Công Uẩn ( hữu Thân Vệ) . Con cháu sau này truyền đến Hoài
đạo hiếu Vũ Vương Nguyễn Nộn , tổ tiên của dòng họ Nguyễn Trãi , Nguyễn
Gia Miêu (các Chúa Nguyễn và Vua Gia Long) . Truyền thuyết ở Hoa Lư thì
: Lý Công Uẩn là con rể của Dương Thái Hậu ( Vân Nga)_ Hoàng Hậu của 2
Vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành . 29 năm sau khi Lê Hoàn lên ngôi
Hoàng Đế thì lịch sử Đại Việt ta đã diễn lại một cách tương tự : Lý Công
Uẩn cũng như Lê Hoàn là những Ông « Vua bầu » ( do Triều Đình suy tôn
).
Bài 10:
CHIẾU DỜI ĐÔ (1010)
và
BÀI NGỰ CHẾ BI KÝ (1018) của LÝ THÁI TỔ
Sử sách đã chép: cuối năm 1009,Triều
Tiền Lê suy yếu, được các triều thần , quân đội và giới phật giáo ủng hộ
đã suy tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra vương
triều Lý (1009 – 1225). Đó là ngày Quý Sửu mồng 2 tháng 11 năm Kỷ Dậu
(21/11/1009).
Rằm tháng 3 năm canh tuất (1010) tại
kinh đô Hoa Lư, triều đình Đại Cồ Việt chính thức làm lễ đăng quang. Bầy
tôi dâng tôn hiệu là “Phụng thiên chi lý ứng vận tự tại thánh minh Long
hiện duệ văn anh vũ sùng nhân quảng hiếu thiên hạ thái bình khâm minh
quang trạch chương minh vạn bang hiển ứng phù cảm uy chấn phiên man duệ
mưu thần trợ thánh trị tác thiên đạo chính hoàng đế”(50 chữ). Đặt niên
hiệu là Thuận Thiên (thuận theo ý trời) – Nhà vua ở tuổi
35.
Sau khi lên ngôi, năm 1010 vua Lý Thái
Tổ đưa ra một quyết đinh vô cùng quan trọng là dời đô từ Hoa Lư về thành
Đại La (Hà Nội) và đổi tên là thành Thăng
Long.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cho biết: Canh
Tuất, Thuận Thiên năm thứ nhất (1010),mùa xuân, tháng hai… Vua thấy
thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp,không đủ chỗ ở của Đế Vương,muốn dời đi
nơi khác, tự tay viết chiếu dời đô (thiên đô chiếu).
Bầy tôi bèn nói:”Bệ hạ vì thiên hạ lập
kế lâu dài,trên cho nghiệp Đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân
chúng được đông đúc giàu có, điều lợi thế ai dám không theo” Vua cả
mừng.
Mùa thu,tháng 7,Vua và quần thần từ
thhành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ ở Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành,có
rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành
Thăng Long.
Thiên đô chiếu (chiếu dời đô) là một bài
văn gồm 214 chữ Hán (linh ứng với 214 năm cầm quyền của “Lý bát đế”. Xin
chép bản dịch nghĩa:
Chiếu Dời Đô
Lý Thái Tổ
“Ngày xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh
năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua
dời Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy đâu. Làm như thế cốt để
mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên
kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên
vận nước lâu dài, phong tục giầu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo
ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ
chịu yên đóng đô nơi đây; đến nỗi thế đại không dài,vận số ngăn ngủi. muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành
Đại La, đô cũ của Cao Vương,ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn
hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng
này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa; dân cư không
khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh, xem khắp
nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn
phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa
lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
".
Đây là một bản hùng văn, mở đầu cho thể
văn chính luận của nước Đại Việt ta, với ý nghĩa và tác dụng đặc biệt
của nó. Tuy là Hoàng đế , nhưng những viẹc đại sự đã không "độc tài"
dùng ý chí (theo ý riêng mình). Việc dời đô xưa nay không phải là vệc
tuỳ tiện, nó phải đặt lợi ích quốc gia- dân tộc lên trên hết, hợp với "ý
dân" và cả "mệnh trời". - Kinh đô Hoa Lư trước sau không đáp ứng đượ yêu
cầu cơ bản này. Tiếp đó, Đức Lý Thái Tổ chỉ rõ vị trí ưu việt của kinh
đô mới, với những ưu thế thiên thời, địa lợi, nhân hoà là "thắng địa"
muôn đời cho con cháu, là "nơi hội tụ của 4 phương đất nước" nơi "tượng
trưng của muôn đời đế vương".
Qua "Thiên đô chiếu" chứng tỏ Đức Lý
Thái Tổ là nhà lãnh đạo quốc gia có tầm nhìn xa trông rộng về vận mệnh
triều đại do mình khởi đầu, biết đón trước xu thế phát triển của đất
nước và lịch sử (không để lỡ bước, mất thời cơ như một số triều đại sau
này, làm cho đất nứoc tụt hậu, chìm đắm trong các cuộc đánh nhau, nghèo
nàn lạc hậu).
Lịch sử Việt Nam ta, có lẽ sau "Chiếu
dời đô" là "Bình Ngô Đại Cáo" của Nguyễn Trãi và "Tuyên Ngôn Độc Lập"
của Hồ Chí Minh…được coi như những lời truyền ngôn linh diệu, báo hiệu
thời kỳ đất nước lắm anh hùng.
Về văn nghiệp của Đức Lý Thái Tổ Lý Công
Uẩn, xưa nay tưởng chỉ có"Thiên đô chiếu" (1010). Gần đây những năm cuối
thế kỷ XX, nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn (sinh năm 1932) ở Thái Bình đã
phát hiện trong gia phả họ Bùi ở Vũ Tiên (TP Thái Bình) một bài văn bia
của Lý Thái Tổ viết về danh tướng Bùi Quang Dũng, một tướng tài của Đinh
Tiên Hoàng, đã có công lớn trong việc dẹp yên 12 sứ quân và giữ yên vùng
bờ biển Sơn Nam hạ; sau khi về dưỡng lão ở quê một thời gian thì ông qua
đời - đố là năm Thuận Thiên thứ 9 (1018) ngày 15 tháng 6, thọ 97 tuổi.
Được tin ông mất, Đức Lý Thái Tổ vô cùng
thương xót, cho quan Bộ Lễ về làng thăng tước cho Thượng Tướng Bùi Quang
Dũng là "Trinh Quốc Công" và tổ chức lễ an táng ông ở bản ấp Hàm Châu.
Tháng 8 năm ấy (1018) vua Lý tự tay ngự
đề văn bia sử trang "Ngự chế bi ký về thái tổ họ Bùi" sai khắc nên đá
phiến cho đem về từ đường Bùi tộc để thờ.
Tháng 8 năm 1994 tạp chí Hán Nôm của
Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) đã đăng toàn bộ bài viết Nôm 148 câu
của bài văn bia trên.
Quý I - 2009, Nhà thơ Gia Dũng biên soạn
cuốn "Văn chương Thái Bình mười thế kỷ" đã tuyển cho in toàn văn (phần
chữ Hán, phiên âm và bản dịch của Tiến sĩ Mai Hồng) trong tuyển tập.
Nghìn năm bia đá không còn. Đây chỉ là
một văn bản chữ Hán chép tay truyền lại trong gia phả Bùi tộc…độ tin cậy
tới đâu còn chờ sự xem xét của các nhà khảo cứu, nay NK xin chép lại
phần phiên âm và dịch nghĩa để bạn đọc cùng tham khảo và suy ngẫm :
Phiên Âm
Bài Ngự chế Bia Ký về Thái Tổ Họ Bùi Của Vua Thái Tổ Triều Lý
Trẫm duy! Khai cơ kiến quốc chủ trương, tuy tại hồ nhân quân,
nhi bạt loạn bình nhung nỗ lực đa tư ư lương tướng. Tự cổ giai nhiên; lý
dã; diệc thế dã.
Tuy nhiên xử phong thái hy minh chi thời nhi vi lương thần giả
dị; đương truân bĩ điên đảo chi nhật nhi vi trung thần giả nan. Huống xử
nan nhi đắc kỳ trung giả hựu vưu nan. Đắc kỳ trung nhi năng bảo kỳ toàn
giả, hựu vưu nan trung chi tối nan dã.
Như tiền Đinh triều: Đặc tiến khai quốc Thiên Sách Thượng tướng
Minh Triết Phu tử, Trinh Quốc công Bùi Quang Dũng giả. Mỗ dĩ Việt địa
long lưu; Nam Thiên hổ tướng, đắc Càn Khôn chí chính khí; bẩm sơn nhạc
chi tinh anh. Văn vũ siêu quần, phong nghi xuất chúng. Thiếu thời dĩ
khiêm cung hiếu đễ danh văn. Tông tộc dĩ tri kỳ tất phi thường nhân dã. Cập trưởng hiên ngang khảng khái, háo độc kỳ thư; lân lý dĩ tri kỳ tố
hữu đại chí dã. Sơ Ngô Kiều nhị Sứ quân, mỗi mỗi triệu chi, nhi mỗ từ dĩ
nông gia tử, duy hiểu điền sự, bất hiểu am thế sự, kiên bất khẳng hành. Chân quận dĩ phục kỳ tiết tháo dã. Hậu tòng Đinh Tiên Hoàng bình thập
nhị sứ quân, tắc long vân tế ngộ, ngô phượng phùng thì, thừa phong phá
lãng; ưng dương nhi hải ngạc trầm lân. Tây thảo đông chinh, hổ biến nhi
sơn hồ bình tích. Thiên hạ giai xưng kỳ vi anh hùng hào kiệt hỹ. Thời
Đinh Hoàng hỗn nhất thống lý cửu trùng, mỗ dĩ Anh dực Tướng quân sung
Điện tiền Đô chỉ huy sứ kiêm Thiêm sự, tắc Long Chương chước thái, nhi
công nghiệp hiển hỹ. Dĩ nhi Kỳ Bố hải tặc phục khởi, Mỗ hựu sung vi Trấn
Đông Tiết độ sứ. Mỗ nhất lai nhi hải tặc tất bình. Nãi thăng Đặc tiến
Khai quốc Thiên Sách Thượng tướng, tiến tước Tĩnh An hầu. Kế hữu chế
sách tặng kỳ tiên phụ vi Khải Tá hầu, tiên mẫu vi Khải Tá hầu Phu nhân. Phượng chiếu tăng quang, nhi quốc sủng cực hỹ. Khởi phi tử dĩ huân liệt
vinh nhi phụ mẫu dĩ tử quý gia? Hựu dĩ Mỗ hữu đại huân lao? Đặc tứ chi
Hàm Châu thái ấp dĩ cư. Quy trù hiệp cát nhi thiên mệnh vĩnh hỹ. Khởi
phi nhân dĩ địa nhi điện ấp; địa dĩ nhân nhi đắc danh gia? Mỗ chi công
liệt huân danh hách hách như tư, dương hồ tại nhân nhĩ mục dã. Cập Đại
Hành thoán vị, Đinh Điền Nguyễn Bặc mật thư lai báo, Mỗ văn biến, tức đề
binh lai nhi nhị nhân dĩ tử tiết. Mỗ liệu kỳ độc lực tự bất năng
chi. Nãi nhập vu Trinh Thạch động, tự thủ cô trung, tương vi hậu đồ. Kỳ trung
dũng trinh liệt,thành vi thế gian sở khoáng kiến dã. Hạnh nhi trẫm thừa
thiên quyến, đại ngược dĩ khoan, mặc tuần chí công, phủ lâm triệu thứ,
chiếu thư tam đáo, nhi Mỗ vị khẳng lai triều. Trẫm tối ái kỳ kiên trung,
nhi gia kỳ cao tiết dã. Thời nhân Bố Hải nghịch tặc phục khởi, ích tứ
xương cuồng. Trẫm dĩ tam phiên mệnh tướng, nhi vị năng để bình. Cập mệnh
Nguyễn Uy lai thảo, nhi Dũng chí tự nhiên kinh chi ngữ; trì kiến ư tặc
nhân khẩu vẫn chi trung (thời Nguyễn Uy dẫn binh lai thảo, hải tặc phất
cố, chỉ ván viết: "Chiến tướng vi thùy?
". Uy ứng viết: "Khâm sai chinh
đông Đại tướng Nguyễn Uy". Tặc đáp viết:
"Uy lai bất túc úy
Dũng chí tự nhiên kinh"
Hựu lộ gian mục đồng dao vân:
"Uy mặc Uy, chẳng sợ chi
Có ông Dũng đến vậy thì mới kinh"
Trẫm hựu tri Mỗ chi uy đức, tố phu ư hải quốc dã. Trẫm nãi khiển
Nguyễn Uy tê trẫm thủ thư nhập động dĩ sự thực cáo, thả ty từ dụ chi,
nhi Mỗ thủy ứng thư để khuyết. Trẫm tức dĩ Tân Sư chi lễ, đãi
chi. Bái
hiệu viết: "Minh Triết phu tử". Mỗ nhân tiến kỳ tử Bùi Quang Anh. Trẫm
toại dĩ Mỗ nguyên chức (Anh Dực tướng quân, trấn Đông Tiết độ) Tứ
chi. Mệnh xuất trấn Kỳ Bố địa phương (trấn thủ Tổng Thống Tam đạo), tịnh mệnh
đình thần tống Mỗ phục hồi Hàm Châu ấp. Ư thị Mỗ dữ Mỗ tử đồng hành, để
xứ nhi hải tặc tức tự lai hàng. Mỗ chi uy đức như tư, trẫm hựu ích gia
hâm mộ hỹ.
Chí kim liên Mỗ thọ cửu thập thất tuế, ư nguyệt tiền bệnh đốc. Trẫm mệnh đình thần tê dược liệu tịnh thư đặc lai úy vấn, thả phỏng dĩ
hậu sự nhi Mỗ hữu vân: "Thập bát tử" phù sấm ngữ:”Xã tắc truyền gia, tối
ái bát tự”. Hựu vân: "Tha nhật hữu sự vu trung triều, Mỗ tôn khả sử". Mỗ
chi ngôn dương dật vu trẫm nhĩ, đinh ninh vu trẫm tâm, thả vi trẫm thần
tử hậu lai giả nhất giám. Chí lục nguyệt thập nhị nhật dạ, đình thần
thượng tấu: " Vọng kiến đông nam tinh trụy". Việt thập ngũ nhật hốt kiến
điệp chí cáo ai vân: "Tiền Đinh triều khai quốc Thiên Sách Thượng tướng,
Tĩnh An hầu Minh Triết phu tử, Bùi tướng công tốt". Trẫm nãi vũ nhiên
thán viết: Thiên phương quyến ngã Lý thị, hồ cự đoạt thử triết nhân?
Nhân vi chi giảm thiện tịch lạc. Nãi mệnh đình thần tê tụ long đồng quan
ngọc quách, cẩm tú các tam sất, hoàng kim ngũ thập lượng, bạch ngân ngũ
bách lượng, tịnh điếu ngữ, để trợ tang nghi, tinh gia chế sách tặng Mỗ
vi Trinh Quốc công, hựu dĩ Mỗ sinh tiền: Cương nghị bất khuất; chính
trực bất a. Nãi gia thụy viết: Cương Chính Tướng công, tịnh truy phong
Mỗ tiên khảo vi Khải Tá công, tiên mẫu vi Khải Tá công Phu nhân, dĩ biểu
Mỗ trung thành chi tâm, nhi phó trẫm hiếu hiền chi niệm.
Ô hô! Mỗ chi hiếu trung lưỡng đắc.
Tiết nghĩa kiêm toàn.
Thành vi quán cổ hy văn; khoáng thế hãn kiến dã. Trẫm dục bất hủ
kỳ danh; nhi thả vi thiên hạ hậu thế nhân thần giả giám. Cố liệt kỳ sự
trạng dĩ vi chi ký. Duy nguyện thiên địa giám Mỗ chi trung liệt. Hựu thử
Bùi gia thế thế tử tôn anh tài kế xuất, trợ ngã Nam quân,bảo ngã Nam
Quốc, tế ngã Nam dân, chính thị quả nhân chi thâm vọng dã.
Thuận Thiên cửu niên bát nguyệt thập nhị nhật Ngự chế
Khuông Việt thái sư (thần) LÝ PHÁP CHÂN phụng tả
Thạch công PHẠM CÔNG THẮNG phụng thuyên
Dịch nghĩa
Bài Ngự Chế Bia Ký Về Công Tích Vị Thái Tổ Họ Bùi Của Hoàng Đế Thái Tổ
Triều Lý
Trẫm cho rằng công cuộc mở nền dựng nước dù chỉ là chủ trương
của bậc nhân quân, song việc dẹp loạn bình nhung phần lớn trông cậy vào
sự nỗ lực của các tướng soái tài ba. Từ xưa đến nay đều như thế.
Đó là lý và cũng là thế vậy.
Tuy nhiên ở vào thời thái bình thịnh trị, bổn phận làm người bề
tôi tốt thì dễ. . Nhưng nếu ở vào cái thế cục bế tắc điên dảo, mà làm kẻ
trung thần mới khó. Huống chi ở vào tình thế khó khăn mà tìm được trung
thần lại càng khó. Tìm được bậc trung thần mà người đó
lại biết bảo toàn sinh mệnh mình lại càng khó hơn nhiều.
Tỷ như chuyện vị quan: Đặc tiến Khai quốc Thiên sách Thượng
tướng, Minh Triết phu tử, Trinh Quốc công Bùi Quang Dũng triều Đinh thuở
trước.
Mỗ(*) vốn thuộc dòng giống Tiên Rồng đất Việt, là nòi hổ tướng trời Nam,
là khí thiêng của đất trời hun đúc, bẩm thụ tính tinh anh của núi sông.
Văn tài võ lược siêu quần, uy nghi xuất chúng. Thuở nhỏ nổi danh bởi đức
tính khiêm cung hiếu đễ, tông tộc ai cũng cho rằng Mỗ ắt sẽ là người phi
phàm. Đến tuổi trưởng thành, hiên ngang khảng khái ham đọc sách lạ (kỳ
thư), làng xóm biết ngay Mỗ là người có chí lớn. Ban đầu hai sứ quân Ngô
Kiều(**) từng triệu mấy lần Mỗ đều lấy cớ là con nhà nông, chỉ biết việc
đồng áng mà không tường thế sự, kiên quyết không theo.
Khắp châu quận ai cũng nể phục tiết tháo ấy.
Sau về với Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp mười hai sứ quân.
Đó là duyên kỳ ngộ phượng đậu cành ngô, rồng mây tế ngộ, cưỡi gió rẽ
sóng khúc nào chim ưng dương cánh mà kình ngạc mất tăm.
Oai hổ đánh đông dẹp bắc; mà cáo cầy tan tác dấu chân. Thiên hạ
đều ngợi ca là bậc anh hùng hào kiệt. Khi Đinh Tiên Hoàng thống nhất
giang sơn một mối, bước lên chín bậc cửu trùng lấy Mỗ từ chức Anh Dực
tướng quân sung vào Điện tiền Chỉ huy sứ, kiêm Thiên sự; triều nghi rực
rỡ, công huân lẫy lừng. Thế rồi bọn giặc bể ở Kỳ Bố lại khởi loạn, Mỗ
lại được sung chức Trấn đông Tiết Độ sứ. Mỗi khi Mỗ tới thì giặc biển
liền ta. Trẫm lại cho thăng lên Đặc tiến Khai Quốc Thiên Sách Thượng
tướng, tiến tước Tĩnh An hầu.
Kế đó ban sách tặng phong cho tiên phụ của Mỗ là Khải Tá hầu, tiên mẫu
là Khải Tá hầu Phu nhân.
(*) Tức chỉ Bùi Quang Dũng mà tác giả bài ký xưng hô.
(**) Hai sứ quân Ngô Kiều: Ngô Xương Xí và Kiều Công Hãn.
Chiếu vua ban tăng thêm vẻ sáng phương nêu rõ sự sủng ái của
quốc gia là rất mực vậy. Đây chẳng phải bởi con có huân công oanh liệt
mà cha mẹ được vẻ vang? Lại bởi vì Mỗ có công lao lớn, nên trẫm ban thái
ấp lưu làm nơi ở thuộc đất Hàm Châu. Đó là cái điềm hợp cát của người
hiền ở vào đất tốt, thì mệnh trời sẽ được bền lâu mãi mãi. Há chẳng phải
người lấy đất để bền chắc móng nền mà chính là đất lấy người để đất nổi
danh? Chiến công lẫm liệt, huân danh lẫy lừng của Mỗ như vậy đã hiển
hiện ra trước tai mắt mọi người ai ai cũng thấy. Kịp khi Lê Đại Hành
cướp ngôi, Đinh Điền Nguyễn Bặc mật đưa thư tới báo, Mỗ biến sắc tức tốc
đề binh lên đường, tới nơi thì hai người đều đã tử tiết. Mỗ liệu sức
mình đơn độc khó bề chống chọi, bèn lui vào động Trinh Thạch tử thủ, ôm
nỗi niềm cô trung, đợi thời mưu sự về sau. Tinh thần trung dũng quả cảm
ấy của Mỗ thực đã biểu lộ cái tầm nhìn xa rộng của Mỗ về thế gian này.
May thay trẫm được trời rủ lòng thương mến, lấy khoan dung để thay bạo
ngược, lặng lẽ thuận tình, hành sự chí công, vỗ về trăm họ. Chiếu thư
mời gọi ba lần mà Mỗ vẫn chưa chịu về triều, trẫm rất lấy làm ái mộ đức
tính kiên trung ấy lại càng đáng khen cho khí tiết thanh cao của con
người ấy. Bấy giờ có giặc lại nổi loạn ở của biển Kỳ Bố rất ngông cuồng
tàn bạo, trẫm đã ba phen khiển tướng chinh phạt mà chưa dẹp yên được.
Đến khi sai Nguyễn Uy đem quân đi đánh thì vẫn còn nghe câu nói từ miệng
giặc : 'Hễ ông Dũng đến là tự nhiên kinh". Lúc Nguyễn Uy đến, giặc chẳng
màng để tâm, chỉ có điều chúng cần biết viên tướng đem quân tới là ai
thôi. Tướng Uy lên tiếng: Khâm sai Chinh Đông Đại tướng Nguyễn Uy. Giặc
liền hát câu vè:
"Uy đến chẳng đáng sợ
Dũng đến tự nhiên kinh"
Trên đường lại nghe trẻ chăn trâu hát câu đồng dao:
"Uy mặc Uy chẳng sợ chi
Có ông Dũng đến vậy thì mới kinh"
Trẫm lại biết thêm về uy đức của Mỗ vốn nổi danh ở miền duyên
hải (hải quốc) vậy. Trẫm bèn sai Nguyễn Uy thảo thư đưa vào động nói rõ
sự thực còn dặn thêm Uy: Hãy tìm lời dụ Mỗ. Mãi tới lúc ấy Mỗ mới chịu
nghe lời trẫm về triều. Trẫm vội lấy lễ khách bậc thầy để tiếp đãi với
bái hiệu là Minh Triết phu tử. Nhân đó Mỗ liền tiến cử người con trai
của mình là Bùi Quang Anh cho Trẫm. Trẫm lấy nguyên chức như ngày trước
mà phong tặng: Anh Dực Tướng Quân trấn đông Tiết độ sứ,phái đi trấn thủ
miền đất Kỳ Bố (với nhiệm vụ Tổng Thống trấn thủ ba đạo) lại sai đình
thần tiễn Mỗ trở lại đất Hàm Châu. Đường về Hàm Châu ngày ấy Mỗ cùng
người con trai của mình là Bùi Quang Anh đồng hành. Vừa về đến nơi thì
giặc đã tự tới đầu hàng. Thấy rõ
uy đức của Mỗ đến như thế, trẫm càng tăng lòng hâm mộ.
Tới nay Mỗ ở tuổi thọ 97 bị đốc bệnh từ tháng trước, trẫm lệnh
đình thần chăm lo thuốc thang trị liệu, viết thư ân cần thăm hỏi, lại
cũng không quên hỏi han về việc hậu sự. Mỗ có lời đáp rằng; "Trong câu
sấm Thập Bát Tử (tức là chữ Lý) xã tắc truyền gia thì thần thích nhất
chữ "bát", lại dặn thêm: "Ngày sau nếu triều đình hữu sự thì trẫm có thể
sai khiến sử dụng đứa cháu của Mỗ". Lời nói ấy cứ âm vang mãi bên tai
trẫm; đinh ninh mãi trong tim trẫm! Trẫm nghĩ cử chỉ ấy của Mỗ chính là
một tấm gương để cho các tôi thần của trẫm sau này soi chung vậy. Tới
ngày 12 tháng 6 đình thần dâng tấu rằng; "Họ trông thấy phương đông nam
có ngôi sao rơi, lặn tất". Qua ngày rằm bỗng có tờ điệp cáo phó tới:
"Khai Quốc Thiên Sách Thượng tướng Tĩnh An hầu Minh Triết phu tử Bùi
Tướng công triều Đinh ngày trước tạ thế!". Trẫm bùi ngùi than thở; Trời
vừa mới thương họ Lý ta mà sao vội cướp đi một triết nhân như vậy. Nhân
đó trong triều giảm bớt một bữa ăn, bớt vui chơi.
Trẫm lệnh cho đình thần thay trẫm lo việc tang lễ, sắm cỗ quan đồng
quách ngọc; ban gấm vóc mỗi loại ba súc, vàng 50 lượng, bạc 500 lượng,
cùng với điếu văn để trợ giúp lễ nghi tang tế.
Trẫm ban thêm chế sách tặng Mỗ là Trinh Quốc công; lại gia phong
mỹ tự dựa trên đức độ bình sinh của Mỗ: "Cương nghị, bất khuất, chính
trực không a tòng". Và ban tên thụy: Cương Chính tướng công. Lại truy
phong cho tiên khảo (cha) của Mỗ là Khải Tá công, tiên mẫu (mẹ) là Khải
Tá công Phu nhân. Để biểu dương tấm lòng của Mỗ và cũng là để bộc
bạch tấm lòng chuộng hiền của trẫm vậy.
Ô hô! Mỗ hiếu trung vẹn cả hai đường.
Tiết nghĩa song toàn hai chữ.
Đó quả là điều hiếm thấy, hiếm nghe bậc nhất từ cổ chí kim ở thế
gian này. Trẫm mong cho tính danh của Mỗ sẽ bất tử; hơn nữa nó là tấm
gương cho các thế hệ bề tôi của trẫm mãi về sau soi vào.
Cầu mong trời đất hãy chứng giám cho đức tính trung liệt của Mỗ, giúp
cho con cháu nhà họ Bùi này đời đời luôn có anh tài xuất hiện, để giúp
đỡ vua nước Nam ta, bảo vệ giữ gìn nước Nam ta, cứu giúp dân chúng nước
Nam ta.
Đó chính là điều trông đợi sâu xa nhất của quả nhân vậy.
Ngày 12 tháng 8 nhuận năm Thuận Thiên thứ 9 (1018) Ngự chế
Thái sư Khuông Việt (thần) LÝ PHÁP CHÂN vâng mệnh chép
Thợ khắc đá PHẠM CÔNG THẮNG vâng mệnh khắc bia
Hà Nội ngày 17 tháng 7 năm 2008
Tiến sĩ MAI HỒNG
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng và Phả học Việt Nam Phiên âm,
dịch chú
Lời bàn của Nguyễn Khôi:
Điều đáng lưu ý là đoạn giữa bài văn
bia, vua Lý có nhắc lại lời đáp của Thượng Tướng Bùi Quang Dũng; "Trong
câu Sấm thập bát tử (tức là chữ Lý) xã tắc truyền gia thì thần thích
nhất là chữ "Bát"…
Lối viết (thưa) này rất ăn nhập với các
câu Sấm ký tương truyền là của Vạn Hạnh Thiền Sư vào thời điểm Lý Công
Uẩn sắp được truyền ngôi. Từ đây (căn cứ vào chỗ này) cho ta hai lý
giải: một là, đây đích thực là bài văn của Lý Thái Tổ, được Thái Sư
Khuông Việt (Lý Pháp Chân) phụng tả (vâng mệnh chép lại - Hai là, nếu là
người đời sau thác lời Lý Thái Tổ viết văn bia tuyên dương công trạng
Danh tướng Bùi Quang Dũng thì cũng là người có học vấn thâm hậu rất am
hiểu Sử liệu và văn phong của Lý Thái Tổ cùng các vị Quốc sư Vạn Hạnh và
Khuông Việt thời nhà Lý mới lập nghiệp.
Ngôn ngữ và giọng điệu bài "Ngự chế bi ký" có thể xếp tiếp theo bản hùng
văn "Thiên Đô Chiếu" xứng ngang tầm thời đại "Rồng bay lên" rất chi là
tương đắc, tuyệt tác.
Góc Thành Nam Hà Nội, Ngày 19 tháng 8
năm 2009
Bài 11: VẠN HẠNH
và
BÀI KỆ "THỊ ĐỆ TỬ"
Tả Thân Vệ điện tiền chỉ huy sứ Lý Công
Uẩn, được quần thần triều đình Nhà Tiền - Lê tôn vinh lên ngôi Hoàng đế
(ngày qúy sửu, tháng mười năm kỷ dậu - 1009). Mùa thu, tháng 7 năm Thuận
Thiên thứ nhất (1010) từ thành Hoa Lư dời Đô ra kinh phủ ở thành Đại La,
tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên (có thể là những dải mây
vàng như hiện nay thường xuất hiện vào những ngày mùa thu ở Hà Nội),
nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long (rồng bay lên). Đổi châu
Cổ Pháp gọi là phủ Thiên Đức, thành Hoa Lư gọi là phủ Trường Yên, sông
Bắc Giang (Đuống) gọi là sông Thiên Đức (cùng với sông Cầu gọi là Nguyệt
Đức, sông Thương gọi là Nhật Đức). Những năm tháng sau đó là những năm
tháng xây dựng đất nước Đại Việt với hùng khí Thăng Long mở đầu thời kỳ
nghìn năm văn hiến ngày một hưng thịnh.
. . Nhưng Thiền Sư Vạn Hạnh tuổi
tác ngày một cao đến ngày rằm, tháng năm, năm Thuận Thiên thứ mười sáu
(1025), Sư không bệnh , gọi học trò lại thuyết kệ:
Thị Đệ Tử
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
Nghĩa là:
Bảo (dặn) học trò
Thân như chớp lóe có rồi không
Cây cối xuân tươi, tiết thu lại héo
Đã tu đến trình độ Nhậm vận thì không còn sợ hãi trước sự thịnh suy dời
đổi
Thịnh suy như giọt sương đọng trên ngọn cỏ
Tạm dịch:
Bảo học trò
Thân như ánh chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi, thu héo cong
Hiểu vận thịnh suy không sợ hãi
Như trên đầu cỏ hạt sương trong
Thuyết kệ xong , Sư còn tâm sự với các đệ
tử" các con muốn đi đâu, về đâu?, thầy không lấy chỗ trụ để trụ , không
nương vào chỗ không để trụ " - Sư nói xong giây lát thì tịch, thọ gần 95
tuổi (ta).
Bài thơ thị tịch này là một trong những bài
thơ thiền nổi tiếng nhất của thơ ca Việt Nam, nó đúc kết cả một triết lý
hành động mà suốt đời Vạn Hạnh theo đuổi.
"Kệ" là loại thơ của Phật, là một thể văn ở
trong kinh Phật(người ta thường nói kinh kệ là thế) đó là lời tán tụng,
răn bảo, dặn dò, khuyên nhủ - diễn dịch ý từ trong kinh ra "vận" với ý
tưởng của người nói (viết ) là một bài văn (thơ) do Sư viên tịch để lại.
Bài kệ "Thị đệ tử" của Vạn Hạnh, kẻ đi
qua cầu lịch sử quan 5 triều đại khác nhau từ Dương , Ngô, Đinh, Lê cho
đến Lý. Cuộc đời của Thiền Sư đã kinh qua những cảm nhận của một nhà hiền
triết, trí thức hàng đầu của thời đại. Sư vào đời bằng Nho , ở lại với
đời bằng Lão và đã vươn lên tất cả bằng Phật Giáo.
Ở Sư đó là sự tích hợp được tinh hoa của Nho-Phật-Lão giúp Thiền Sư hóa
hợp được Tu và Hành gói trong một bản thể yêu mình là yêu người , tự
giác là giác tha là thế.
Bài kệ tuy chỉ có bốn câu tứ tuyệt (ở
thời điểm thế kỷ thứ X) ấy ở xứ ta chưa có mấy ai đạt như vậy. Bài thơ
với 28 chữ, bốn câu hàm xúc vậy thôi mà chứa đủ cả triết cả thơ nắm hết
được bí quyết của tạo hóa, hiểu được lẽ đời. Nói theo cách bây giờ là Nó
có tư tưởng khai sáng, chỉ đạo mở ra một thời đại mới cho dân tộc. Câu
đầu là một cái nhìn về chính bản thân con người xuất hiện trên mặt đất
này đúng như một ánh chớp so với thời gian của vũ trụ thì chỉ là một cái
lóe lên rồi tan biến(từ cát bụi trở về với cát bụi, từ hiện hữu lại tan
biến vào cõi hư không) hình tượng thơ "tia chớp" vừa diễn tả tính tạm bợ
(sống gửi ) ngắn ngủi của kiếp nhân sinh, đồng thời nó cũng biểu thị một
nét cao sang có tính thần thánh của tia chớp vừa bừng bừng lóe sáng cả
góc trời (mà sau này thi sỹ Xuân Diệu đã ao ước"thà một phút huy hoàng
rồi chợt tối") thật là tâm đắc.
Con người là vậy, nó vừa "bi" vừa "hùng" ở trên thế gian này.
Câu thứ 2 là một sự khái quát hóa về thế
giới vạn vật của "đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà" nói theo cách nói của thi
sỹ Nguyễn Xuân Sanh , đây là cái nhìn(đã hiểu được) quy luật phát triển
của thế giới tự nhiên tồn tại xung quanh ta (tươi - héo, sinh - tử là
một tất yếu của sự sống). Cách nay 1000 năm mà hiểu được như vậy là rất
duy vật, rất biện chứng không phải là dễ!
Câu 3, câu 4 là cái nhìn về quy luật
phát triển của xã hội. Xã hội nào, triều đại nào (gia tộc nào) có thịnh
rồi cũng có suy (một lẽ biến đổi của âm dương).
. . câu 3 là câu "chuyển"
theo luật của Đường thi là câu quan trọng, chuyển là chuyển sang tứ mới,
là câu đột biến. . . ở đây là "Nhậm vận thịnh suy" xưa nay các bản dịch
thường bỏ qua hai chữ "Nhậm vân" là do không hiểu hoặc không dịch nổi
câu này?
Nói theo Thiền Sư Thích Mãn Giác thì:
Bài kệ "Thị Đệ Tử" với 2 chữ đã gói ghém cái bí quyết liễu ngộ, thành
đạt Bồ Đề , ấy là cái bí quyết " Nhậm vận" của Sư. Theo Phật giáo thì
thành quả hành Thiền đã được trình bày bóng bảy qua mười giai đoạn trong
bức tranh chăn trâu (mục ngưu đồ) gồm mười cấp hành thiền là : Tầm ngưu,
kiến tích , kiến ngưu, đắc ngưu, mục ngưu, kỵ ngưu, vọng ngưu tồn nhân
(cấp 7 : Nhậm vận ) nhân ngưu cộng vong, độc chiếu (trở lại cội
nguồn), song dẫn (xuôi tay nhập trần).
Ở Vạn Hạnh, hình như Sư đã tự đánh giá
mình tu mới đạt tới cấp 7 của Thiền, còn 3 cấp nữa, Vạn Hạnh chưa đạt
tới 3 cấp cuối cùng của Thiền là: tương vong, độc chiếu, và chân như.
Phải chăng Sư chỉ muốn dừng lại cấp 7 của Thiền để Đạo và Đời hòa hợp,
để có điều kiện cùng Triều Đình (phò Vua) và đồng bào (giúp đỡ chúng
sinh) để cùng lo cái lo của thiên hạ, đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên Đại
Việt độc lập - Thăng Long cất cánh rồng bay mở ra nghìn năm văn hiến.
Nhà Văn Nguyễn Khôi
Sinh 1938,quê Phường Đình Bảng,thị xã
Từ Sơn,tỉnh Bắc Ninh. .
- NR: 259/39 phố Vọng-Hà Nội.
-Hội Viên Hội Nhà Văn Hà nội
-UV BCH Hội Văn nghệ Dân Gian Hà Nội
-UV BCH Hội VHNT các Dân tộc Thiểu Số VN (Khóa 2)
Chuyên Viên Cao Cấp,nguyên Phó Vụ Trưởng Văn Phòng Quốc Hội Việt Nam
Tác phẩm đã xất bản
:
-Trai Đình Bảng (thơ) nxb Văn học 1995,vhtt2000
-Gửi Mường Bản xa xăm(thơ)nxb vhdt1998-Giải thưởng Hội VHTH các DTTS VN
1998.
-Trưa rừng ấy (thơ tứ tuyệt 100 bài)nxb vhdt 2005
-Bắc Ninh thi thoại(biên khảo)đã tái bản lần thứ
3.
-Các dân tộc ở Việt Nam-cách dùng họ và đặt tên (biên khảo)nxb vhdt
2006.
-Cổ Pháp cố sự-4 tập,920 trang nxb vhdt ,viết về cội nguồn Nhà Lý.
- Có thơ in ở: tuyển tập thơ Việt Nam 1945-2000(nxb lao động);tuyển tập
thơ Việt Nam 1975-2000,nxb Hội Nhà Văn;tuyển tập Văn học Miền Núi-nxb
Giáo dục1998;tuyển tập thơ Việt Nam thế kỷ 20(nxb giáo dục-2005)
. . .
Dịch thuật
:
- Sống chụ son sao (tiễn dặn người yêu)-truyện thơ dân tộc Thái
-tiếng hát làm dâu(dân ca Hmômg) . . .
Giải thưởng
:
-Giải thưởng viết về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội,bài thơ " Về Hà Nội".
-Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Thủ Đô 2008 cho Bộ Sử Làng Cổ Pháp Cố
Sự.
Nguồn :
http://vi. wikipedia. org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Kh%C3%B4i

|