Những bài
cùng tác giả
Đâu là sự thật về tông tích của Lý Công
Uẩn?
Sự kiện Lý Công Uẩn không
có cha cụ thể, mà con của thần nhân, cùng với những câu
thơ sấm kí ở làng Cổ Pháp, rồi những điềm báo có thiên
tử ra đời …là biểu hiện của một cuộc vận động chính trị
có tổ chức của giới trí thức tam giáo, đứng đầu là nhà sư
đầy tài năng Vạn Hạnh, hoàn thành tâm nguyện trăm năm
của quần chúng mà đại diện ban đầu là thiền sư Định
Không của hương Diên Uẩn. Cuộc hôn phối có ý đồ, với đạo
diễn kiêm chủ hôn Vạn Hạnh tại chùa Thiên Tâm, núi Tiêu
Sơn, giữa bà Phạm thị Ngà với “vị thần nhân dựa cột chùa”,
một người họ Lý đang ẩn tích, đã được tiến hành. Thiền
sư Vạn Hạnh tạo điều kiện cho bà họ Phạm vào rừng gặp “
thần nhân”, một cuộc hôn nhân bí mật, trong đó cha của
Lý Công Uẩn có thể là một người đầy uy vọng của họ Lý
vùng Cổ Pháp-Siêu Loại, tức Diên Uẩn-Thổ Lỗi, đang
trong thời kì phải mai danh ẩn tích. Sự kiện bà mẹ Lý
Công Uẩn phải vào rừng sinh sống, rồi khi đứa bé lên 3,
bà phải gửi bé cho nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dạy và cuối
cùng giao cho sư Vạn Hạnh đào tạo chú bé Lý Công Uẩn
thành hoàng đế, có thể là cơ sở của giả thuyết vừa nêu.
Còn giả thuyết Lý Công Uẩn là con ruột của sư Vạn Hạnh
thì quá ư táo bạo và bị các nhà sử học bác bỏ. Một vùng
đất có nhiều phật tử như Cổ Pháp-Siêu Loại, không thể mù
quáng đảnh lễ một vị quốc sư, đứng vào hàng tam bảo, lại
làm việc phạm giới luật. Cuộc “cách mạng lam”, chuyển
giao quyền lực từ họ Lê, đã mất lòng dân, sang họ Lý,
phản ánh một xu thế mới là thay chế độ quân trị sang
nhân trị. Thực ra, việc Lý Vạn Hạnh lãnh đạo lớp trí
thức tam giáo, nòng cốt là trí thức Phật giáo, cùng nhau
giáo dưỡng và làm cuộc vận động để đưa Lý Công Uẩn lên
ngôi vua, là kế thừa « tâm nguyện » trăm năm kể từ thời
thuộc Đường, thế kỷ IX, ấy là « củng cố và phát triển
miền Cổ Pháp, đưa những người con cháu của vọng tộc Lý
lên ngôi vua, vừa tạo độc lập dân tộc Việt mà cũng chấn
hưng đạo pháp » của thiền sư Định Không (730-808).
1/Lý Công Uẩn, người thỏa niềm
khát vọng của dân tộc Việt vào cuối thế kỷ X :
Nhà nước Văn Lang sụp đổ,
dân tộc Việt phải chịu ách đô hộ của phong kiến phương
bắc. Dẫu vài lần dân tộc Việt quật khởi, tưởng chừng nối
được quốc thống, nhưng thời gian độc lập quá ngắn, phải
lo chống giữ, không đủ vật lực tài lực để vun bồi văn
hoá giáo dục, nên dân tộc Việt rất chậm phát triển vào
thời Bắc thuộc. Vì lẽ đó mà triều Ngô, chưa có sự nghiệp
đáng kể thì đất nước vấp phải loạn thập nhị sứ quân.
Triều Đinh cũng chưa tạo được một cộng đồng thuần hậu
thì gặp nạn tôi giết vua; để lại di chứng ấy cho Tiền
Lê, với Lê Long Đỉnh, giết anh giành ngôi, làm việc lỗi
đạo… Các triều vua Đinh Lê, bó hẹp trong vùng núi Ninh
Bình, rất lợi thế về quân sự, có quân công trong lịch
sử, nhưng không đủ sức tạo nên một kinh đô Hoa Lư phát
triển toàn diện ; thậm chí để lại những việc làm quá ư
vô đạo! Thời bấy giờ đã có một Phong Khê với bề dày văn
hoá Văn Lang, một trung tâm Phật Giáo Luy Lâu-Thuận
Thành, phía đông sông Hồng, nam sông Đuống, đã phát
triển bền vững…Đại bộ phận nhân dân có nhu cầu bức
thiết về văn hoá, có khát vọng về một minh quân, biết
đáp ứng lòng dân…Và Lý Công Uẩn đã xuất hiện kịp thời để
đáp ứng nhu cầu bức thiết ấy. Lý Công Uẩn không phải là
con thần cháu thánh của truyền thuyết, chẳng phải là
thiên tử của vị ngọc hoàng mơ hồ nào đó của cổ tích …mà
ngài là một vì vua đươc nhân dân “hoài thai” suốt một
thời đau đáu cho tiền đồ dân tộc; được sự giáo dưỡng đầy
tâm huyết của lớp trí thức tam giáo tiến bộ của thế kỷ
X.
Chùa
Cổ Pháp, còn gọi là chùa Dặn, nơi nhà sư Lý Khánh Văn
nuôi dưỡng Lý Công Uẩn từ tuổi lên 3
Giới trí thức tiến bộ lúc bấy
giờ, đứng đầu là thiền sư Vạn Hạnh, phải chọn lựa một
con đường cho dân tộc. Trong tam giáo thì phải thừa nhận
Phật giáo là mạnh nhất về cả tinh thần lẫn vật chất. Nho
giáo chưa có lực lượng quần chúng rộng lớn như Phật
giáo; hơn nữa việc học theo Khổng Mạnh lúc bấy giờ chưa
thịnh hành lắm, ít nhiều “đồng loã” với “Tống nho”, đạo
của những kẻ xâm lược, bao giờ cũng chủ trương đưa An
Nam vào quỹ đạo bình nam của Thiên triều phương bắc. Đại
bộ phận dân chúng làm sao quên được cái ách đô hộ
nghiệt ngã ấy và làm sao quên được đại quân Tống do Hầu
Nhân Bảo chỉ huy, từng giày xéo nước Việt. Những làng
xã thuộc lưu vực sông Hồng, đến thế kỉ X đã có rất
nhiều chùa lớn, đã đào tạo nhiều thiền sư giỏi giáo lý
nhà Phật mà cũng uyên thâm tứ thư ngũ kinh.Vậy đường
hướng giáo dục lúc bấy giờ là chọn Phật giáo làm quốc
giáo nhưng lồng ghép Nho Lão kiểu tam giáo đồng nguyên
vậy. Lý Thái Tổ cùng vị cố vấn tuyệt vời Vạn Hạnh, đã có
những quyết sách đúng đắn, biết dụng thời, tuỳ thế đưa
đất nước Đại Việt phát triển bền vững, tạo dựng nền
móng cho một thời LÝ -TRẦN độc lập tự chủ, được ngẫng
cao đầu đối với lân bang, kéo dài khoảng 400 năm.

Tượng Thiền sư Vạn Hạnh ở núi Tiêu
sơn.
Khi lên ngôi, Lý Thái Tổ
cho dựng rất nhiều chùa và độ diệp cho hàng vạn vị sư.
Thực ra lúc bấy giờ, chùa là trường học, các sư là thầy
giáo của một đường hướng giáo dục lúc ấy. Các phật tử
đến chùa trước lễ Phật, sau nghe sư thuyết pháp để trí
tuệ được mở mang mà lòng thiện cũng được xiển dương. Chủ
trương đúng đắn ấy tạo cho dân tộc Việt một sự nhất
thống, trên dưới một lòng; đủ sức chống trả sức mạnh
Tống nho.
Xây dựng mới là việc cần
làm, đào tạo người mới cho công cuộc cải cách mới là
khát khao của giới trí thức lãnh đạo lúc bấy giờ. Vùng
Ninh Bình, cái nôi của kinh đô Hoa Lư, chỉ thích hợp
cho việc thủ hiểm về mặt quân sự, nhưng nó không thể là
đầu mối giao thông, không thể là nơi đắc dụng của thương
nghiệp, không là nơi tụ hội những trí thức giỏi, nghĩa
là không đủ tiền đề cho sự mở mang đất nước . Vì thế cho
nên, giới lãnh đạo họ Lý phải dời đô ra thành Đại La mà
thôi.Thành Đại La đâu chỉ là cát địa theo thuyết phong
thuỷ, mà thành Đại La còn là trung tâm của một vùng văn
hoá có bề dày. Dẫu thành Đại La một thời là An nam đô hộ
phủ của những quan thứ sử nhưng nó còn là nơi hội tụ
anh tài hoạt động trên mọi lĩnh vực, luôn âm thầm gìn
giữ bản sắc dân tộc, lấy triết lý Phật giáo làm kim chỉ
nam, lấy chùa chiền làm nơi tu học của mọi giới và tạo
những ổ đề kháng chống lại những gì thuộc về ngoại lai,
có nguy cơ làm tan rã cộng đồng dân tộc Việt.Vì vậy
khi Lý Thái Tổ quyết định rời bỏ Hoa Lư, để ra Đại La
thành là một sự bùng vỡ ý thức “cách mạng”, đã nung nấu
từ lâu. Kinh đô Thăng Long của Đại Việt tự chủ đã ra
đời, hợp lòng người (ý trời), hợp địa lợi ( vật lực tài
lực sung mãn của châu thổ sông Hồng ) và đạt lẽ nhân hoà
( cư dân vùng nông nghiệp sông Hồng đã có trình độ văn
hoá cao, khá thuần hậu với các minh triết Việt).
Lý Công Uẩn đã xuất hiện
đầy huyền thoại nhưng cũng vì những huyền thoại ấy mà sự
thực về gốc gác của ngài cả ngàn năm sau vẫn là một dấu
hỏi nhức nhối !
2/ Một số vấn đề chưa giải
quyết dứt điểm trong việc tìm kiếm tông tích của Lý Công
Uẩn :
Khi tìm tông tích của Lý Công Uẩn,
giới nghiên cứu quan tâm các địa danh Đình Bảng, Dương
Lôi, Hoa Lâm. Có thời các nhà nghiên cứu cho rằng Đình
Bảng là quê nội và Dương Lôi là quê ngoại của Lý Công
Uẩn, hai làng nội ngoại cách nhau bởi rừng Báng, có mộ
thiên táng của bà Phạm Thị Ngà (thân mẫu của Lý Công
Uẩn) và về sau trở thành vùng đất « Sơn lăng cấm
địa »với lăng mộ của các vua triều Lý. Có nhà nghiên cứu
cho rằng ở Đình Bảng có Đền Đô thờ 8 vua Lý và như thế
cha ruột của Lý Công Uẩn là quốc sư Lý Vạn Hạnh. Tất
nhiên giới nghiên cứu đã bác bỏ hướng nghiên cứu này từ
vài năm nay. Gần đây lại phát hiện ở đình Dương Lôi thờ
8 vua Lý làm thành hoàng, có đền thờ Lý Thánh mẫu (thờ
Minh Đức Thái Hậu Phạm Thị Ngà), Chùa Cha Lư (tức chùa
Minh Châu) thờ Phật và thờ bà Phạm Thị Ngà nữa. Lý Công
Uẩn chào đời trong một túp lều ở phía sau chùa Cha Lư
(chùa Minh Châu). Một số nhà sử học lại tạm thời kết
luận Dương Lôi là quê nội của Lý Công Uẩn, còn Hoa Lâm(
Đông Anh) là quê ngoại.Tuy nhiên làng Dương Lôi hiện còn
nhiều người họ Phạm, có mối quan hệ huyết thống với bà
Phạm Thị Ngà, trong khi đó ở Hoa Lâm có nhiều người họ
Nguyễn (gốc Lý), khiến nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn băn
khoăn về nguyên quán Hoa Lâm của bà Phạm Thị Ngà. Nhà
nghiên cứu Chu Minh Khôi viết : « Khi chúng tôi đề cập
về Hoa Lâm, ông Nguyễn Văn Quyết, trưởng thôn Dương Lôi
ở Bắc Ninh lại đưa ra quan điểm rất khác với những người
ở Hoa Lâm. Theo ông Quyết, ở Dương Lôi vẫn còn dòng họ
Phạm nhận là dòng họ của bà Phạm Thị Ngà. Trong khi, ở
Hoa Lâm lại có dòng họ Nguyễn nhận là hậu duệ của tôn
thất nhà Lý, như vậy chưa đủ khẳng định Hoa Lâm là quê
hương bà Phạm Thị Ngà. Bởi Hoa Lâm nằm kề kinh đô Thăng
Long, lại ở ngay ngã 3 hợp lưu của sông Hồng và sông
Đuống, nên được các vương tôn nhà Lý chọn làm nơi xây
cung thất nghỉ ngơi, giải trí, săn bắn. Hoa Lâm chỉ hình
thành sau khi nhà Lý đã lên ngôi, như vậy việc tại Hoa
Lâm có dòng hậu duệ của các vương tôn nhà Lý còn truyền
đến ngày nay là hoàn toàn có thể lý giải được. ».(Giác
Ngộ online). Một số nhà sử học dựa vào hai chứng tích để
minh chứng rằng Hoa Lâm là quê mẹ của Lý Thái Tổ : Đoạn
văn khắc chữ Hán trên bia Lý gia linh thạch (khắc vào
năm 1793) "…Đông Ngạn, Hoa Lâm nhân Phạm mẫu, tiêu dao
kỳ tự, thường kiến nhất thần hầu… » ở chùa Tiêu và đôi
câu đối cổ: "Mạch tụ quân vương truyền thắng địa/Tích
lưu Lý mẫu quán danh phương" bảo lưu ở đình thôn Thái
Đường ở xã Mai Lâm. Tuy nhiên văn khắc này là do người
đời sau khắc vào năm 1793 nên độ tin chưa cao. Cách đây
vài năm, ở Hà Nội có tổ chức một hội thảo ngày
27/12/2008 nhằm trao đổi vấn đề tông tích của Lý Công
Uẩn, nhưng cuộc hội thảo vẫn chưa khẳng định được gốc
gác của Lý Công Uẩn. Điều nổi cộm là các thành viên hội
thảo thấy rằng các học giả, nhà nghiên cứu, nhà văn đặt
vấn đề Lý Công Uẩn là con ruột của Lý Vạn Hạnh là không
thuyết phục. Tuy nhiên công bằng mà nói, cũng qua sự tìm
tòi tông tích của Lý Công Uẩn ở Cổ Pháp, Bắc Ninh của
các nhà nghiên cứu và đã công bố tại hội thảo, càng ngày
càng có thêm dữ kiện giúp các nhà nghiên cứu có hy vọng
tìm được dòng dõi của Lý Công Uẩn.
G.S Hoàng Xuân Chinh - Chủ tịch Hội
Khảo cổ học Việt Nam nêu ý kiến :“Chưa thể khẳng định
chắc chắn rằng, hai làng Dương Lôi và Hoa Lâm là quê
hương nhà Lý bởi chứng cứ đưa ra chưa thật đầy đủ, và
không phải ngẫu nhiên, Đền Đô lại được xây dựng trên đất
Đình Bảng. Tuy nhiên, ý kiến đưa ra tại cuộc tọa đàm này
sẽ góp phần gợi mở cho những hướng nghiên cứu tiếp theo”.
PGS.TS Tống Trung Tín - Viện trưởng
Viện Khảo cổ học Việt Nam gợi ý: “Việc phát hiện lan
can sấu đá là minh chứng cho việc tồn tại của công trình
kiến trúc cung đình tại Hoa Lâm. Những di vật tìm thấy
ở nơi đây cũng cho thấy, đây là nơi cư dân sinh sống
liên tục từ thời Hán cho đến Tùy Đường kéo dài tới thời
Lê. Riêng về vấn đề gốc tích quê hương nhà Lý cần phải
đi sâu và nghiên cứu thêm nữa. Những hiện vật đang ẩn
dưới lòng đất sẽ là nguồn tư liệu phong phú và thuyết
phục cho những nhận định mới của sử học”.
Xét về tình riêng thì vua Lý
Thái Tổ cũng có nỗi niềm là con không có cha ruột một
cách chính danh, nhưng xét về nghĩa chung của cộng đồng
dân tộc Việt thì ngài là đứa con tuyệt vời của quảng đại
quần chúng. Ngài được quần chúng có văn hoá thai nghén,
đựơc tấm lòng nhất thống của nhân dân nuôi dưỡng và được
lớp trí thức tam giáo tôn vinh. Chính Lý Công Uẩn đã ý
thức đầy đủ điều ấy, và đã không phụ lòng quần
chúng, không phụ lòng lớp trí thức mong mỏi nơi ngài.
Khi mới lên ngôi, Lý Công Uẩn chưa vội truy phong cho
ông bà nội. Việc này bị sử thần phê phán nhà vua làm
không đúng điển lễ . Thực ra, vị cố vấn thông thái Vạn
Hạnh thừa biết điều ấy, nhưng chưa truy phong ông bà
nội của ngài là vì trước đó đã tạo huyền thoại Lý Công
Uẩn là con thần. Đây là một trong những nguyên nhân
khiến giới nghiên cứu khó trả lời câu hỏi cha ông của
Lý Công Uẩn là ai. Nhưng rồi Lý Công Uẩn cũng phải truy
phong cha là Hiển Khánh Vương mà không là Hiển Khánh Đế
(?). Dữ kiện này phản ánh một điều sâu kín của Lý
triều : Lý Thái Tổ truy phong ngầm cho ông nội của
ngài đến bậc đế chăng ?
3/ Phải chăng Lý Công Uẩn là cháu nội của
sứ quân Lý Lãng Công của vùng Siêu Loại ?
Nghiên cứu thời loạn thập nhị sứ quân,
chúng tôi để ý một vị sứ quân chiếm cứ vùng Siêu Loại ,
có trung tâm Phật giáo Thuận Thành- Luy Lâu; đó là sứ
quân Lý Lãng Công, tức là Lý Khuê, một vị hùng trưởng
của miền đất nằm hai bờ sông Đuống. Lý Khuê hay Lý
Lãng Công là sứ quân chiếm cứ miền đất Thổ Lỗi, sau gọi
là Siêu Loại. Năm 967 ông bị tướng Lưu
Cơcủa Đinh
Bộ Lĩnh ở Hoa
Lư đánh
bại.Theo thần tích ở xã Bình Sơn (Thuận Thành, Bắc
Ninh) thì Lý Khuê đánh
nhau với quânĐinh
Bộ Lĩnh bị
thua và tử trận ở làng Dương Xá.Theo thần tích đền thờ Lưu
Cơ, còn ở làng Đại Từ,
xã Đại Đồng, tỉnh Hưng
Yên (đất
Siêu Loại cũ) thì Đại Từ là nơi tướng Lưu
Cơ của Đinh
Bộ Lĩnh
đóng quân và đánh dẹp sứ quân Lý Khuê. Thôn Dương Đanh
của làng Dương Xá thờ Lý Lãng Công là thành hoàng của
làng. Mộ của vị sứ quân này ở đâu ? Con cháu của Lý Khuê
còn không ? Sứ quân Lý Khuê không có mối quan hệ với
Phật tử nói chung và Lục Tổ Thiền Ông và thiền sư Vạn
Hạnh nói riêng của chùa Lục Tổ hay sao ?
Ảnh chụp vệ tinh làng Dương Xá (có
thôn Dương Đanh), nơi Lý Lãng Công đánh nhau với tướng
Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh và tử trận.
Cơ sở của giả thuyết công
tác:
Miền Siêu Loại, Cổ Pháp xưa là các
hương Thổ Lỗi, Diên Uẩn ở hai bờ sông Đuống, có trung
tâm Phật Giáo Luy Lâu, trung tâm đào tạo tăng tài Tiêu
Sơn, đã phát triển hằng trăm năm với nhiều ngôi chùa
cổ, với các vị sư tầm cỡ như Định Không, Thông Thiện,
Đinh La Quí An, Thiền Ông, Vạn Hạnh… Sứ quân Lý Khuê đặt
bản doanh ở Siêu Loại, đủ biết vị sứ quân này được lực
lượng tín đồ tam giáo, đứng đầu là Phật giáo ủng
hộ...Chúng ta có thể đoán định sứ quân này dựa vào lực
lượng tam giáo, nòng cốt là trí thức và tín đồ Phật
giáo lúc bấy giờ vậy.
Gần đây trong bài « Đạo Phật và nền văn hóa Việt Nam »,
đăng ở ấn phẩm mùa Hạ của « Văn hóa Phật Giáo Việt
Nam », hòa thượng Thích Minh Châu nhận định : ««Chư
tăng là người hiểu biết trong xóm làng, làm cố vấn cho
nông thôn trong nhiều công việc và được nông dân kính
trọng. Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh giải phóng đất
nước, Phật giáo đã đứng về phía những người yêu nước.
Nhiều Tăng sĩ trong hoạt động tôn giáo của mình, đã
nhen nhóm một tinh thần tự chủ. Và có những tín đồ Phật
giáo đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cuộc
chiến tranh giải phóng » (tr. 8).
Sứ quân Lý Khuê lãnh đạo dân chúng miền Siêu Loại,
cái nôi của Phật giáo, đòi tự chủ thì ông phải là một
Phật tử có uy vọng, và tất nhiên không thể không có liên
hệ với chùa Tiêu. Qua Thiền uyển tập anh ngữ lục, được
biết Thiền sư ĐỊNH KHÔNG (730-808) thời thuộc Đường,
người họ Nguyễn (thực ra là họ Lý), thuộc hương Diên
Uẩn, giỏi thuật số, có khát vọng về hương Diên Uẩn của
ngài được củng cố và phát triển, họ Lý của ngài sẽ làm
vua, nước Việt độc lập và Phật pháp được chấn hưng. Khi
sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở quê nhà khoảng (785-805), đào
được pháp khí cổ, sư giải đoán họ Lý về sau có người làm
vua, có ý đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp.
Tâm nguyện của thiền sư được ký gửi qua bài kệ:
Pháp lại xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Lý thị hưng vương
Tam phẩm thành công.
Dịch:
Pháp khí hiện ra
Khánh đồng mười tấm
Họ Lý làm vua
Công đầu Tam phẩm
Trong bài kệ dự đoán, câu cuối “Tam
phẩm thành công” được dịch “ Công đầu tam phẩm”phải
chăng chưa ổn ? Họ Lý hưng thịnh, quan đến tam phẩm mới
lập công thì có gì đáng kể mà phải viết thành kệ rồi “
truyền thừa” cả trăm năm! Ở đây có thể hiểu “Tam phẩm”
là “ba đời họ Lý uy vọng” mời thành công nghiệp đế
vương. Sư Định Không đã dặn dò đệ tử là thiền sư Thông
Thiện: “Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp
nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta.
Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để
sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện
của ta được toại thành.”. Quả “dị nhân đến phá hoại mạch
đất” là Cao Biền. Đệ tử Thông Thiện đã truyền “pháp ý”
của sư Định Không cho đệ tử của mình là Trưởng lão Đinh
La Quí An (852-936). Thiền sư họ Đinh này đã phá thuật
yểm đất của Cao Biền ở hương Diên Uẩn (Cổ Pháp), căn dặn
đệ tử là thiền sư Thiền Ông (902-979) (họ Lữ, người
hương Cổ Pháp) về những pháp thuật “tài bồi thiên đức”
cho vọng tộc Lý của hương Cổ Pháp... Và tất nhiên Thiền
Ông đã truyền “tâm nguyện” của các tổ Định Không, Thông
Thiện, Đinh La Quí An cho thiền sư Vạn Hạnh(939(?)-1025)
và Vạn Hạnh đã hoàn thành rất xuất sắc “sứ mạng” mà các
tổ giao phó. Đưa người họ Lý lên làm vua là “ chiến lược
trăm năm” được vạch từ thời thiền sư Định Không. Sứ
quân Lý Khuê chiếm cứ vùng Siêu Loại, sát hương Cổ
Pháp, để trở thành sứ quân Lý Lãng công(966-967) là một
mắt xích trong “chiến lược trăm năm”, được thầy trò
Thiền Ông- Vạn Hạnh đang ở chùa Tiêu Sơn điều hợp…Chùa
Thiên Tâm trên núi Tiêu Sơn, vào đầu thế kỷ X, theo
Thiền uyển tập anh, là nơi tập trung các vị sư, có khát
vọng về một vị minh quân ra đời, nhằm chấn hưng xã hội
nói riêng và Phật Giáo nói chung và tất nhiên có niềm
khát vọng độc lập cho nước Việt. Trưởng lão Đinh La Quí
An của chùa Thiên Tâm, biết phong thủy, giỏi Thái ất đã
vận động những người hằng tâm hằng sản, lấp sông, hồ
nhằm triệt phá những huyệt yểm của Cao Biền, bổ cứu long
mạch đế vương của hương Cổ Pháp (Diên Uẩn), thậm chí đã
dự đoán họ Lý hương Cổ Pháp sẽ làm vua. Thật vậy nhà
nghiên cứu Nguyễn Minh Khôi từng trích Thiền uyển tập
anh: "… Trước khi viên tịch, Trưởng lão Đinh La Quý An
gọi đệ tử là Thiền Ông đến dặn rằng, trước đây Cao Biền
đắp thành Đại La ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có
khí tượng vương giả bèn đào sông Điền Giang, đầm Phù
Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả 19 nơi. Nay ta đã
khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo
ở cách chùa Minh Châu hơn 1 dặm, đúng chỗ bị cắt long
mạch, đời sau nơi này ắt có bậc đế vương xuất hiện để
vun trồng Chánh pháp…
Năm Bính Thân, niên hiệu Thanh Thái
thứ 3 thời thuộc Đường (936), khi trồng cây gạo ở chùa
Minh Châu, Trưởng lão Đinh La Quý An có đọc bài kệ:
Đại Sơn long đầu khởi
Cù Vĩ ẩn Minh Châu
Thập bát tử định thành
Miên thụ hiện long hình
Thỏ kê thử nguyệt nội
Định kiến nhật xuất thanh"
( Nguyễn Minh Khôi, Đi tìm gốc tích vua Lý
Thái Tổ, Giác Ngộ)
Nguyễn Minh Khôi viết :
« Tương truyền, cố GS sử học Trần Quốc Vượng sinh thời
từng dịch bài kệ như sau: "Đầu rồng hiện ở núi lớn/đuôi
rồng giấu sự thịnh vượng/Họ Lý nhất định thành/khi cây
gạo hiện hình rồng/chỉ trong mấy tháng thỏ, gà,
chuột/chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh". Ông
Nguyễn Đình Phúc, Bí thư Đảng ủy xã Tân Hồng kể: Năm
1992, GS Trần Quốc Vượng điền dã về khảo sát những di
tích ở làng Dương Lôi. Khi tận mắt chứng kiến nền chùa
Minh Châu và tìm hiểu địa danh trong vùng, biết có ngọn
núi Đại Sơn ở cách chùa Minh Châu 1km, GS đã thốt lên:
"Tôi đã nhầm khi dịch bài kệ của Trưởng lão họ Đinh!".
Sau đó, GS đã chỉnh lại bản dịch 2 câu đầu là: "Đầu rồng
hiện ở Đại Sơn/đuôi rồng giấu ở chùa Minh Châu" » .

Ảnh chụp vệ tinh núi Đại Sơn, ở bờ bắc sông Đuống, gần
làng Dương Lôi, nơi khởi phát (long đầu khởi) của sứ
quân Lý Lãng Công.
Chúng tôi tiếp cận bài kệ của
Truởng lão họ Đinh, hoàn toàn nhất trí với cách diễn
giải của cố giáo sư Trần Quốc Vượng với hai câu đầu của
bài kệ. Trên bình diện phong thủy, long mạch ở Cổ Pháp
với đầu rồng là Đại Sơn, và đuôi rồng (rồng non, tức
cù) ở chùa Minh Châu (Dương Lôi). Và đuôi rồng đã ứng
phát cho Lý Công Uẩn, tức họ Lý đã trở thành đế vương
với Lý Thái Tổ. Thế thì đầu rồng « Đại Sơn » ứng phát
vị họ Lý nào ở hương Diên Uẩn? Phải chăng tác giả Thiền
Uyển Tập Anh Ngữ Lục, bắt đầu được biên tập vào khoảng
trước năm 1134 cho đến đầu thế kỷ thứ mười ba, dựa vào
thư tịch ở chùa Thiên Tâm, hoặc truyền ngôn ở vùng Tiêu
Sơn, muốn gửi gắm cho hậu thế một chìa khóa để giải mã
bí ẩn tông tích của Lý Công Uẩn ? Rõ ràng con cù (rồng
non), đang ẩn ở sau chùa Minh Châu (chùa Cha Lư) là ứng
phát cho Lý Công Uẩn, còn thân rồng đang thời « tiềm
long » ở Đình Bảng-Dương Lôi ứng phát cho Hiển Khánh
Vương, Vũ Đạo Vương, Lý Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân…. Còn đầu
rồng phải ứng phát một người họ Lý hương Cổ Pháp, đã
khởi nghiệp ở Đại Sơn, thuộc Dương Lôi mà thôi. Ngọn núi
Đại Sơn này có sông Đuống vờn mặt trước, nhìn về Dương
Xá, Đại Từ…của vùng Thuận Thành-Luy Lâu, nơi hoạt động
của sứ quân Lý Khuê, tức Lý Lãng Công vào những năm Bính
Dần (966), Đinh Mão (967). Hiện nay tại thôn Dương Đanh,
xã Dương Xá còn thờ Lý Lãng Công. Trong khoảng từ 936
đến 974 không có vị nào thuộc họ Lý của hương Diên Uẩn,
ngoài Lý Khuê, đã khởi nghĩa !Vậy Lý Lãng Công là ứng
với đầu rồng đã khởi, nhưng thất bại, và các con cháu
của ngài phải ẩn tu hoặc mai danh ẩn tích, đổi họ Lý
thành họ Nguyễn vào thời Đinh (968-991), thời Tiền Lê
(991-1009).

Chùa Cha Lư ( Minh Châu), nơi thờ Phật và
bà Phạm Thị Ngà. Sau chùa là nơi chào đời của Lý Công
Uẩn. Có khả năng trước đó chùa Cha Lư là nơi thờ những
vị quan họ Lư của triều Đường, thường dâng sớ can ngăn
vua Đường phát binh dẹp những cuộc nổi dậy của dân Giao
Châu.
Thế thì Lý Khuê phải là người con kiệt
hiệt của dòng họ Lý của hương Cổ Pháp vậy. Cuộc nổi dậy
của sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại, bờ nam sông Đuống không
thể không có sự ủng hộ công khai hoặc bí mật của Lục Tổ
Thiền Ông, thiền sư Vạn Hạnh cùng Phật tử của chùa Tiêu.
Lý Khuê nổi dậy ứng với câu kệ « Đại Sơn long đầu khởi »
của thiền sư Định Không. Và Lý Khuê khởi nghĩa được hai
năm thì bị diệt, con cái phải đi trốn, mai danh ẩn tích,
thậm chí phải sống trong rừng, trong hang đá, điều kiện
sinh sống thiếu thốn. Hai câu cuối bài kệ của thiền sư
Định Không, có màu dịch lý, trong đó chữ « nguyệt »
tượng « âm », chữ « nhật » tượng « dương », âm là tối,
chưa tốt, ẩn tàng ; còn dương là sáng, tốt đẹp, rực
sáng. Lúc « nguyệt nội » thì hai sao xấu (kê, thử) và
khi một sao tốt (thỏ) chiếu rọi, chuyển âm sang dương,
tức « nhật xuất » thì thành công rực rỡ. Trong nhị thập
bát tú thì sao MÃO NHỰT KÊ (GÀ) chỉ tốt cho nông nghiệp,
còn giá thú, an táng, dựng nhà đều xấu. Nếu dựng nghiệp
thì tai họa ập tới ngay những năm đầu tiên. Sao HƯ NHẤT
THỬ (CHUỘT) cũng là một sao xấu, nếu tạo tác thì gặp tai
ương, gia đình ly tán, cháu con trôi dạt tha phương. Hai
sao trên thuộc loại HUNG TINH, còn một trong những CÁT
TINH là sao PHÒNG NHỰT THỔ (THỎ). Sao này rất tốt cho
tạo tác, giá thú, an táng, còn dựng nghiệp thì mọi sự
đều tốt.

Ảnh chụp vệ tinh vùng núi Tiêu Sơn,
có chùa Ứng Thiên Tâm, nơi truyền thừa tâm nguyện của
thiền sư Định Không, và nơi thiền sư Vạn Hạnh hoàn thành
tâm nguyện ấy.
Và
khi Lý Khuê bị thất bại, nhóm Thiền Ông-Vạn Hạnh phải
“cưu mang” đám con cháu của Lý Khuê, tạo điều kiện cho
cha, bác, chú của Lý Công Uẩn mai danh ẩn tích (tiềm
long) để tránh sự bố ráp gắt gao của triều Đinh và Tiền
Lê. Vì tin vào câu “Cù vĩ ẩn Minh Châu” nên Vạn Hạnh đã
tiến hành việc cưới bà Phạm Thị Ngà cho một người con
trai của Lý Lãng công (tức Hiển Khánh vương). Vì tạo cho
Lý Công Uẩn là con thần cháu thánh, tránh sự truy bắt
của triều Đinh, Tiền Lê nên Thiền Ông ẩn tích, Vạn Hạnh
đã giấu tông tích của Lý Khuê và mối quan hệ cháu ông
giữa Lý Công Uẩn với sứ quân họ Lý vậy. Sau khi sứ quân
Lý Khuê bị Đinh Bộ Lĩnh đánh bại, dòng họ Lý của sứ quân
Lý Khuê một số bị giết, nhưng số còn lại phải đi ẩn, ví
dụ vào rừng sinh sống, vào tu ở các chùa trong núi
sâu nhằm mai danh ẩn tích. Lý Vạn Hạnh mặc dầu họ Lý
nhưng cũng có thời kỳ phải mang họ Nguyễn.
Đại Nam nhất thống chí từng chép: “Đời
Lý :Nguyễn Vạn Hạnh : người huyện Đông Ngàn , lúc bé
thông minh khác thường , rộng thông ba học phái; xuất
gia thâm thuý về thiền học, nói ra phần nhiều là lời
sấm. Lê Đại Hành thường triệu đến hỏi công việc. Lý Thái
Tổ phong làm quốc sư.”(tập4, tr146).
Ngay vua Lê Đại Hành cũng rất gờm con cháu họ Lý, có khi
suýt bắt được Lý Công Uẩn để trừ hậu hoạ. Hơn ai hết,
Lê Đại Hành thừa biết họ Lý đang được lòng dân , đa
phần là phật tử.
ĐNNTC chép : “Đền thần phụ quốc: ở xã Tam Tảo huyện
Yên Phong . Xưa Lê Đại Hành đắp thành Hoa Lư, Lý Công
Uẩn làm phu đắp, đến đêm Lê Đại Hành mộng thấy thần cho
biết là có bậc quý nhân đương làm việc đắp thành ở đây.
Thức dậy sai người đi tìm, thì Công Uẩn đã đi rồi. Khi
Công Uẩn đi đến xã Tam Tảo, thấy hai vợ chồng già đang
cày ruộng, bèn đem duyên do chuyện mình nói cho biết .
Ông già liền bảo Công Uẩn lấy bùn trát khắp mình và cùng
cày ruộng; sau đó ông già mang Công Uẩn về nhà, đào đất
làm hầm cho ở và chứa nước ở trên hầm. Lê Đại Hành xem
bói, thấy quẻ bói nói : “nước ở trên người”. Vì thế, Lê
Đại Hành tưởng là Công Uẩn đã chết ở sông rồi. Đến khi
Lý Công Uẩn được nhà Lê truyền ngôi, bèn phong ông già
làm Phụ quốc đại vương và phong vợ ông làm vương phi,
làm nhà cho ở phường Phượng Vũ. Sau khi ông già chết,
người địa phương lập đền thờ ngay ở chỗ ông già ở”(tr108).
Sự kiện này phản ánh một thực tại; rằng các vua Đinh, Lê
vẫn gờm họ Lý vùng Cổ Pháp-Siêu Loại và bản thân Lý Công
Uẩn cũng biết vai trò, vị thế của mình trong xu thế
mới. Sử liệu này cho thấy sự đùm bọc của nhân dân đối
với Lý Công Uẩn, người đại diện cho niềm khát vọng của
họ. Đinh Tiên Hoàng tiếp tục cử tướng Lưu Cơ giữ thành
Đại La, sau khi dẹp loạn thập nhị sứ quân, là để khống
chế các tộc họ có uy vọng ở miền Kinh Bắc, trong đó có
họ Lý của Lý Khuê. Sự kiện “sét đánh cây gạo” không là
biến cố ngẫu nhiên. Từ năm 936 cây gạo đã được Trưởng
lão Đinh La Quí An trồng ở làng Dương Lôi. Nếu sét đánh
cây gạo khoảng năm 1009 hay 1010 trước khi Lý Công Uẩn
lên ngôi khoảng trên dưới một năm thì không hợp lý. Thật
vậy, cuộc vận động để đưa dòng dõi họ Lý lên ngôi phải
được tiến hành cả trăm năm, nhưng từ năm 936 cây gạo
được trồng, cho đến năm 1009 mới có vụ cây gạo ở Dương
Lôi bị sét đánh và xuất hiện bài sấm ký thì thì không có
chuyện Lý Công Uẩn bị Lê Đại Hành cho người tìm Lý Công
Uẩn nói riêng và họ Lý nói chung để trừ hại. Có khả năng
dư luận về bài sấm ký có thể xuất hiện sớm hơn nhiều so
với năm Lý Công Uẩn lên ngôi. Sau khi bị tử trận ở Dương
Xá (tức ở làng Thổ Lỗi), thân nhân đã bí mật đưa hài cốt
Lý Khuê về táng ở Mai Lâm, Đông Ngàn. Hiện nay ở Hoa Lâm
(Mai Lâm, Đông Anh, Hà Nội) có mộ Hùng Công trong khu
vực “Lý gia lăng”.
Trong bài “Hoa lâm viên và những dấu ấn triều Lý” (web
chudu 24) có đoạn: “Gia phả và nhà thờ họ Nguyễn gốc
Lý tại thôn Du Nội còn ghi rõ. Mai Lâm ngày nay còn ghi
nhận những địa danh như: đồng Bẫy Sập, mộ Hùng Công,
miếu Âm Hồn, bãi Tổng Binh, ao Sau Dinh, cầu Giá Ngự…
gắn với những sự kiện vui, buồn của thời Lý. Một ngàn
năm qua đi mà những địa danh này vẫn còn đó, ghi lại dấu
tích xa xưa ở một vùng quê.”
Những địa danh lịch sử ở Hoa Lâm như mộ Hùng Công, miếu
Âm Hồn, bãi Tổng Binh, ao Sau Dinh…không gợi mở về những
ngày Lý Công Uẩn lên ngôi êm thắm mà như nhắc nhở về
một vị hùng trưởng họ Lý khởi nghĩa và bị thất bại ! Mộ
Hùng Công phải chăng là ngôi mộ bí mật của Lý Khuê ? Như
thế thì mộ bà Lý triều quốc mẫu ở Hoa Lâm là mộ phu nhân
của Lý Lãng Công ?

Ảnh chụp vệ
tinh khu vực có đền Lý Bát Đế (Đền Đô) và vùng « Sơn
lăng cấm địa » ở Đình Bảng, Bắc Ninh.
4/ Hoa Lâm là một trong những vùng tụ cư
của họ Lý bản địa vào thời Vãn Đường ?
Từ trước đến nay, khi nghiên cứu về tông tích cha mẹ của
Lý Công Uẩn, các nhà sử học, các nhà nghiên cứu thường
ít quan tâm nhân vật lịch sử của vùng Cổ Pháp-Siêu Loại,
quần tụ hai bờ sông Thiên Đức hay sông Đuống, đó là bà
nội của Lý Công Uẩn.

Đền thờ Lý triều quốc mẫu
Phạm Thị Tiên ở Hoa Lâm
Bà nội của Lý Công Uẩn
cũng là một nhân vật lịch sử bí ẩn, bà chỉ xuất hiện
trong Đại Việt sử ký toàn thư chỉ một lần, với dòng ghi
chép ngắn ngủi : “Mậu Ngọ (Thuận Thiên) năm thứ 9
(1018), …. Mùa xuân, tháng 2, truy phong bà nội làm hậu
và đặt tên thụy”(s đ d.tr.245).
Tại sao triều đình Lý Thái Tổ, có cố vấn
Vạn Hạnh uyên thông tam giáo, để chậm trễ việc truy
phong bà nội của Lý Công Uẩn ? Tại sao truy phong bà nội
là hậu, có thụy hiệu mà không truy phong ông nội của Lý
Công Uẩn? Việc truy phong bà nội nhưng gác lại ông nội
chứng tỏ có điều uẩn khúc trong tôn tộc nhà Lý. Phải
chăng, trong thời kỳ vận động để đưa Lý Công Uẩn lên
ngôi, họ Lý vùng Cổ Pháp -Siêu Loại đã tạo những huyền
thoại về một Lý Công Uẩn là con thần, nên triều đình nhà
Lý, có quốc sư Vạn Hạnh, đã giấu tông tích thân phụ Hiển
Khánh vương, giấu tông tích cha của Hiển Khánh Vương tức
ông nội của Lý Công Uẩn ?.
Phải chăng bà vợ của Lý
Lãng Công chính là phu nhân Phạm Thị Tiên, từng trú ẩn
ở Hoa Lâm. Bà Phạm Thị Tiên, sau khi chồng bị bại, đã
mai danh ẩn tích ở Hoa Lâm. Làng Dương Lôi có vọng tộc
là Phạm tộc, còn hoa Lâm có vọng tộc là Lý tộc. Những
ngày mai danh ẩn tích ở Hoa Lâm, bà Phạm Thị Tiên thường
vãn cảnh chùa Tiêu Sơn để liên lạc với con cháu đang
trốn ở vùng Dương Lôi-Đình Bảng, rừng Báng, Tiêu Sơn. Bà
đã bàn với hai người cháu tâm phúc, thiền sư Khánh Vạn(
tức sư Vạn Hạnh) và Khánh Văn để lo cưới vợ cho một
trong các con trai của bà. Vị này có thể ẩn cư ở chùa
Tiêu Sơn hoặc rừng Báng Dương Lôi. Chính hai vị thiền sư
Khánh Vạn và Khánh Văn nhân một chuyến về thuyết pháp ở
Minh Châu, tìm được cô gái nghèo họ Phạm, tức Phạm Thị
Ngà và thiền sư Vạn Hạnh đã tạo điều kiện cho cô Phạm
Thị Ngà kết hôn với con trai của hai vợ chồng Lý Khuê ,
Phạm Thị Tiên trong bí mật. Bà Phạm Thị Ngà cũng có với
cha của Lý Công Uẩn hai trai…Vì phải sống trong rừng,
điều kiện quá khó khăn, bà Ngà phải nhờ sư Lý Khánh Văn
nuôi Lý Công Uẩn khi ngài lên ba tuổi… Nghiên cứu bài
viết của Nguyễn Minh Khôi trên báo Giác Ngộ thì thấy
rằng hai làng Dương Lôi và Hoa Lâm đều có đền thờ Phạm
mẫu, nhưng tên gọi hai công trình kiến trúc khác nhau. Ở
Dương Lôi goị là “đền thờ Lý Thánh Mẫu”, ở Hoa Lâm gọi
là “đền thờ Lý triều quốc mẫu”. Tại đền thờ Lý triều
quốc mẫu, tên húy của Phạm mẫu là Phạm Thị Tiên, còn tại
đền thờ Lý triều thánh mẫu, tên húy của Phạm mẫu là Phạm
Thị Ngà. Bà Phạm Thị Ngà rõ ràng theo truyền thuyết của
làng Dương Lôi là mẹ đẻ của Lý Công Uẩn, nhận công việc
thủ hộ ở chùa Thiên Tâm, thọ thai với “thần nhân dựa cột
chùa” ( Hiển Khánh Vương), còn bà Lý triều quốc mẫu ỏ
Hoa Lâm là tín nữ đến vãn cảnh chùa Thiên Tâm và cảm
“thần hầu” trong hang đá, sinh ra vua Lý, chính là Hiển
Khánh Vương (thân phụ của Lý Công Uẩn).
PGS Trịnh Bỉnh Dy cho rằng chùa Tiêu vẫn
còn tấm bia Lý gia linh thạch khắc vào năm 1793, có đoạn
“Đông Ngạn, Hoa Lâm nhân Phạm mẫu, tiêu dao kỳ tự,
thường kiến nhất thần hầu, bất giác hữu thần”. Như thế
những tác giả của văn khăc trên bia “ Lý Gia linh thạch
bi” ở chùa Thiên Tâm vào thời Tây Sơn, đã tưởng nhầm
Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên, mẹ của Hiển Khánh
Vương, có mộ ở Hoa Lâm với Lý Thánh mẫu Phạm Thị Ngà ở
Dương Lôi. Bà nội Phạm Thị Tiên, phu nhân của Lý Lãng
Công, ẩn cư ở Hoa Lâm, có nhiều người gốc họ Lý, còn bà
Phạm Thị Ngà ẩn cư ở rừng Báng của làng Dương Lôi,
nguyên quán của mình. Nếu cả Dương Lôi và Hoa Lâm đều có
mộ Phạm Thị , đều là mộ của bà Phạm Thị Ngà thì mộ của
bà nội của Lý Công Uẩn ở đâu? Dẫu sao năm 1018, Lý Thái
Tổ có truy phong bà nội làm hậu và dâng tên thụy; chỉ
giấu hành tung của Lý Lãng Công. Và cũng tạo ra huyền
thoại Lý quốc mẫu cũng gặp thần hầu và sinh ra Hiển
Khánh Vương, như thế Lý Thái Tổ vẫn là con thần cháu
thánh vậy. Với kiến giải này, hiểu được vì sao họ Lý lại
tế lễ tiền nhân ở Thái Đường, Hoa Lâm, nơi có Lý gia
lăng. Vậy lăng mộ của Lý thánh mẫu Phạm Thị Ngà ở rừng
Báng, còn lăng của Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên ở Hoa
Lâm, cùng với mộ chồng là mộ Hùng Công, thuộc Lý gia
lăng. Ở Dương Lôi có Thái miếu, còn ở Hoa lâm có Thái
đường. Nếu thế thì Hoa Lâm có mộ ông bà nội của Lý Thái
Tổ, cho nên ở Hoa Lâm được họ Lý quần tụ, thường xuyên
tế lễ ở nhà Thái Đường, nên mới xảy ra vụ án Trần Thủ Độ
diệt các tôn thất nhà Lý đang cúng tế ở Lý gia lăng, để
lại địa danh đồng Bẫy Sập. Lăng mộ Lý Thái Tổ chắc chắn
ở Sơn lăng cấm địa, cùng với lăng mộ các vua Lý khác.
Nhưng tại sao dân Hoa Lâm vẫn còn ký ức về mộ vua Lý
Thái Tổ trong khu Lý gia lăng? Thực ra khi vua Lý Thái
Tổ truy phong bà nội Phạm Thị Tiên là hậu thì ngầm truy
phong ồng nội Lý Khuê là đế, và mộ của Hùng Công trở
thành “mộ vua Lý”. Do không biết “mộ vua Lý” là mộ vua
Lý nào, dân sở tại cứ tưởng là mộ vua Lý Thái Tổ!
Con cháu họ Lý đang hành lễ ở Bãi Sập thuộc khu vực Lý
Gia Lăng ở Hoa Lâm, Đông Anh, Hà Nội.
Tại di tích Hoa Lâm Viên ở xã
Mai Lâm, huyện Đông Anh, các nhà khoa học của đoàn khảo
sát của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và
Viện Khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích và hiện vật
thời Lý-Trần, đặc biệt là những hiện vật gốm tráng men
cao cấp có niên đại thế kỷ VII-X và gạch "Giang Tây
Quân" - loại gạch đã tìm thấy ở 2 kinh đô Hoa Lư và
Thăng Long. Phát hiện này phần nào hé mở những thông tin
về các công trình kiến trúc thời Lý-Trần tại Hoa Lâm
Viên, một di chỉ nằm trong vùng văn hóa Kinh Bắc xưa. Về
những phát hiện này, chúng tôi quan tâm lan can sấu đá.
Mô típ “rồng-sấu” này như là một gạch nối giữa motip
rồng thời Ngô, Đinh với môtíp rồng thời Lý. Thật vậy
rồng ở lan can này chưa hoàn chỉnh như con rồng thời Lý,
nó còn mang dáng vẻ sấu ( hay cù) trên chuông đồng phát
hiện ở thế kỷ IX, X của giới khảo cổ học. Chưa chắc cặp
“rồng-sấu” phát hiện được là của một hành cung của vua
Lý Thái Tổ cho xây dựng ở Hoa Lâm.

(Nguồn: HNM )
Những di vật gốm tráng men
cao cấp thuộc thế kỷ VII-X phát hiện ở Hoa Lâm, Đông Anh
cùng với thư tịch cổ cho phép chúng tôi đặt giả thuyết
vùng Hoa Lâm Đông Anh từng là nơi cư trú của dòng tộc họ
Lý bản địa, có uy vọng, từng có mưu đồ cát cứ thời Vãn
Đường, kéo dài trong các thế kỷ VII,VIII, IX, X. Thật
vậy, Đại Việt Sử Ký Toàn thư chép: “ Đinh Hợi, (687),
(Đường Trung Tông Triết, Tự Thánh năm thứ 4 ).Mùa thu,
tháng 7, các hộ người Lý ở Lĩnh Nam theo như lệ cũ nộp
nửa thuế, Đô hộ Lưu Diên Hựu bắt phải nộp cả. Các hộ
người Lý mới oán giận, mưu làm loạn. Lý Tự Tiên làm chủ
mưu, Diên Hựu giết đi. Dư đảng là bọn Đinh Kiến họp quân
vây phủ thành. Trong thành binh ít không chống nổi, đóng
cửa thành cố giữ để đợi quân cứu viện. Đại tộc ở Quảng
Châu là Phùng Tử Do muốn lập công, đóng quân không đến
cứu,Kiến giết Diên Hựu. Sau Tư Mã Quế Châu là Tào Trực
Tĩnh đánh giết được Kiến.”(sđ d, tr.189).Giao Châu loạn,
Mai Thúc Loan khởi nghĩa năm 722. Giặc Côn Lôn-Chà Bà
chiếm phủ Trấn Nam đô hộ ở La thành, kinh lược sứ Trương
Bá Nghi cầu cứu Đô úy châu Vũ Định là Cao Chính Bình,
quân cứu viện đánh tan quân giặc. Bá Nghi đắp lại La
Thành năm 767. Rồi năm 791, Phùng Hưng vốn nhà hào phú,
sức có thể vật hổ đánh trâu, dấy binh đánh Cao Chính
Bình, chiếm phủ trị, tiếc thay sớm qua đời, con là Phùng
An lên thay, tôn xưng cha là Bố Cái Đại Vương. Khoảng
tháng 5, năm 791 nhà Đường đặt quân Nhu viễn ở phủ trị,
cử Triệu Xương làm đô hộ, phủ dụ Phùng An, An đem quân
hàng…Năm 819, Dương Thanh là một tù trưởng bản địa, từng
được nhà Đường cử làm thứ sử Hoan Châu, khởi nghĩa nhân
quan đô hộ Lý Tượng Cổ hà khắc, đánh phá phủ thành, giết
Tượng Cổ. Nhà Đường sai Quế Trọng làm An Nam đô hộ, đánh
Dương Thanh không được. Lý Nguyên Gia được cử làm đô
hộ, đánh nhau với Dương Thanh cũng như dụ hàng cũng
không xong. Lý Nguyên Gia tin phong thủy nên dời phủ
thành. ĐVSKTT chép: “Giáp Thìn(824),(Đường Mục Tông
Hằng, Trường Khánh năm thứ 4).Mùa đông, tháng 11, Lý
Nguyên Gia thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược,
sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời
đến đóng ở thành hiện nay.(Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ
trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi,có người
thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn,
sau 50 năm nữa ắt có người họ cao đến đây đóng đô dựng
phủ…”(sdd tr.193)…Hậu bán thế kỷ IX, Giao Châu lại loạn
vì giặc Nam Chiếu, Cao Biền đánh dẹp, lại đắp thành Đại
La to rộng bề thế hơn…Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất,
họ Khúc ở Giao Châu tự lập Tiết độ sứ. Vua Nam Hán sai
Lý Khắc Chính sang đánh dẹp họ Khúc, lại cử Lý Tiến làm
thứ sử. Bộ tướng của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ ở Ái
Châu đem quân đánh Tiến, chiếm được Đại La thành…Như thế
thời Vãn Đường, các họ Lý, Phùng, Khúc, Dương có mưu đồ
nổi dậy để tự chủ ở Giao Châu. Vậy ở bờ bắc sông Đuống
có khả năng là vùng lập nghiệp của họ Lý, họ Khúc kế thế
làm hùng trưởng.Như thế hành trạng của sư Định Không,
Thông Thiện, Đinh La Quý An cùng tâm nguyện của họ có
thể hiểu được. Vậy thủ phủ của họ Lý là Hoa Lâm, gần ngã
ba sông Hồng, sông Đuống… Những năm loạn lạc họ Lý cứ
kinh dinh đất đai về phía đông, đông bắc phía bờ bắc
sông Đuống, tạo nên hương Diên Uẩn ở bờ bắc sông Đuống.
Những ngôi chùa cổ ở Kinh Bắc được dựng có họ Lý góp
công sức như chùa Lục Tổ, chùa Cổ Pháp (chùa Dặn) ở Đình
Bảng, chùa Cha Lư (chùa Minh Châu) ở Dương Lôi… Còn họ
Dương có khả năng kinh dinh vùng đất thuộc hương Thổ
Lỗi, nên về sau có làng Dương Xá. Có khả năng Lý Khuê,
là một hùng trưởng ở Hoa Lâm, thời thập nhị sứ quân vượt
sông Đuống, về phía nam chiếm Thổ Lỗi để đặt bản doanh
vậy. Chúng tôi nghĩ rằng, nếu Dương Lôi là quê nội thì ở
Dương Lôi phải có nhà Thái Đường để họ Lý thường xuyên
tế lễ tiên tổ họ Lý và cả ngàn năm sau con cháu họ Lý(đã
đổi thành họ Nguyễn) phải tìm về. Đằng này con cháu họ
Lý vẫn hằng coi Hoa Lâm là quê nội .
Còn làng Dương Lôi, vẫn còn tộc họ Phạm,
luôn truyền ức làng mình là quê ngoại và là nơi bà Phạm
Thánh Mẫu sinh Lý Công Uẩn vào những ngày gian khổ. Điều
thú vị là bà nội của Lý Công Uẩn cũng gốc họ Phạm Dương
Lôi, lấy chồng là hùng trưởng Lý Khuê và làm dâu nhà họ
Lý ở Hoa Lâm .
5/Thay lời kết:
Khi đã lên ngôi, vua Lý
Thái Tổ đã truy phong cha là Hiển Khánh vương và tôn tạo
ngôi mộ của cha ở rừng Báng, không xa chùa Thiên Tâm
và Dương Lôi, được dân gian gọi là mộ Hiển Khánh Vương.
Lại truy phong mẹ là Minh Đức Thái Hậu và cũng xây lăng
cho mẹ trong rừng Báng. Do chưa tiện truy phong ông nội
Lý Lãng Công, một vị sứ quân đã tử trận, nhưng sau đó
truy phong bà nội làm hậu, ban tên thụy để cúng tế; thế
thì bí mật truy phong ông nội là hoàng đế vậy… Lý Công
Uẩn bí mật dựng mộ phần của ông nội Lý Lãng Công ( mộ
Hùng Công) và mộ của bà nội Phạm Thị Tiên (mộ Phạm quốc
mẫu) ở Hoa Lâm. Rõ ràng Lý Công Uẩn có người anh được
ban tước Vũ Uy Vương , có em là Dực Thánh Vương.Lại có
một người chú ruột còn sống và được phong Vũ Đạo Vương,
con ông chú là Trung Hiển lại giứ chức Thái úy Lý triều.
Như thế Lý công Uẩn có một gia tộc đàng hoàng, nhưng do
ông nội là sứ quân Lý Lãng Công, bị Đinh Tiên Hoàng đánh
bại và Triều Đinh, Tiền Lê tầm nã gắt gao con cháu Lý
Lãng Công, gia đình của Lý Công Uẩn phải sống trong ly
tán, bí mật. Nếu không có mối quan hệ huyết thống với sứ
quân Lý Khuê thì bà con thân thuộc của thiền sư Vạn Hạnh
chỉ cần đổi họ và sống bình thường, đằng này cha mẹ của
Lý Công Uẩn phải kết hôn trong bí mật, sống trong rừng,
chịu muôn vàn khó khăn và chết thảm ! Do cuộc vận động
nhằm đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, họ Lý hương Cổ Pháp đã
tạo ra huyền thoại cha con Lý Công Uẩn là con thần cháu
thánh nên vẫn giữ bí mật mối quan hệ huyết tộc với Lý
Khuê. Thôn Dương Đanh, làng Dương Xá được lệnh ngầm tế
lễ sứ quân Lý Lãng Công và ở Thái Đường Hoa Lâm là nơi
hiệp tế tiên tổ họ Lý, trong đó có ông nội Lý Khuê và bà
nội Phạm Thị Tiên của Lý Thái Tổ.

Từ giả thuyết công tác nêu
trên, chúng tôi thử dựng một phổ hệ gia tộc Lý Công Uẩn
và Quốc Sư Vạn Hạnh. Phả đồ giả thuyết về tông tích của
Lý Công Uẩn, trong đó chọn thân phụ của Định Không thiền
sư làm tổ họ Lý và phải chăng ngài tổ này là hậu duệ của
Lý Tự Tiên, cùng khởi nghĩa với Đinh Kiến vào năm 687?
Tạm xềp Định Không thuộc đời thứ nhất, ngang hàng ông cố
của Lý Khuê. Có khả năng đệ tử Thông Thiện cũng thuộc họ
Lý, ngang đời với ông nội của Lý Khuê. Đệ tử Đinh La Quí
An của Thông Thiện, người trị phép thuật của Cao Biền và
trồng cây gạo lịch sử ở Dương Lôi là ngang đời với cha
của Lý Khuê và là hậu duệ của Đinh Kiến. Họ Khúc từng
khởi nghĩa và tự chủ, có hậu duệ là Khúc Lãm, được
Trưởng lão Đinh La Quí An nhắc đến trong lời trối…
Chúng tôi đề xuất một giả thuyết công tác trong công
cuộc tìm kiếm tông tích của nhà vua huyền thoại Lý Thái
Tổ. Với tinh thần khoa học, chúng tôi dựa vào những
bài kệ mang màu sắc sấm ký được chép trong Thiền Uyển
tập anh ngữ lục, hoặc bài sấm ký xuất hiện trên cây gạo…
để tìm sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn. Thiền sư
Vạn Hạnh đã hoàn thành xuất sắc tâm nguyện của họ Lý nói
riêng và của dân Việt nói chung. Dẫu là thiền sư ngài đã
đạt vinh quang tột bực, cũng như người cháu, người con
nuôi và người học trò xuất sắc Lý Công Uẩn. Tuy nhiên để
đạt được sự vinh quang ấy thì tự đáy lòng thiền sư Vạn
Hạnh và vua Lý Thái Tổ vẫn đau đáu một nỗi niềm không
nguôi là Lý Công Uẩn là người « mất gốc » ! Vì lẽ đó, vị
cố vấn Vạn Hạnh đã bàn với vua Lý Thái Tổ khi vừa lên
ngôi đã phong tước vương cho chú, anh, em ; truy phong
mẹ và cha…tức là biến huyền thoại người thần của Lý Công
Uẩn thành bậc có cha là thần và mẹ là người thực của cõi
nhân gian. Tuy nhiên sau 10 năm ở ngôi, nỗi đau ấy vẫn
còn trong thiền sư Vạn Hạnh và vua Lý Thái Tổ, cho nên
hai người quyết định truy phong bà nội của Lý Công Uẩn,
ở Hoa Lâm, là hậu. Nhưng không truy phong ông nội, vẫn
tạo ra huyền thoại bà nội « cảm thần hầu » trên tảng đá
trong hang và sinh Hiển Khánh Vương. Chính ở chùa Tiêu
Sơn, thiền sư Vạn Hạnh kể về các vị tổ Định Không, Thông
Thiện, Đinh La Quí An, Thiền Ông với những bài kệ có
sức dự đoán như thần là nhằm gửi lại hậu thế những chìa
khóa để giải mã gốc gác người thực của Lý Công Uẩn. Do
bối cảnh lịch sử đương thời, trước và sau khi Lý Công
Uẩn lên ngôi, Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn âm thầm giữ kín
nỗi niềm bi kịch ấy, khiến hậu thế gặp nhiều khó khăn
trong việc tìm gốc gác của Lý Thái Tổ. Khi nêu giả
thuyết để góp phần tìm kiếm tông tích của vua Lý Thái
Tổ, có thể phạm sai lầm, có gì sơ suất thì các nhà sử
học và bà con họ Lý, họ Phạm góp ý cho chúng tôi trong
tinh thần khoa học.
6-9--2010
Trần Viết Điền
|