|
- Một liệt nữ thời Trần và bản "Kê
minh thập sách"
--------------------------------------------------------------------------------
|
Hoành Sơn quan. |
Huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) không chỉ nổi tiếng với Đèo Ngang và Hoành Sơn
quan mà c̣n có một di tích đặc biệt khác: Đền thờ Chế Thắng phu nhân,
một liệt nữ thời Trần.
Sách "Truyền kỳ tân phả" của Đoàn Thị Điểm (1705 -
1748) chép:
Vào thời vua Trần Duệ Tông (1372 - 1377) có một người con gái nhà quan, tư
dung tươi đẹp, thông hiểu âm luật, văn từ tên là Nguyễn Cơ, tự Bích Châu,
được kén vào hậu cung.
Một hôm gặp tiết trung thu, tức cảnh sinh t́nh, vua nảy thi hứng ngâm một
vế đối rằng:
Thu thiên họa các quải ngân đăng, nguyệt trung đan quế nghĩa là Trời thu,
gác tía treo đèn bạc, quế đỏ trong trăng. Vừa lúc nhác thấy Bích Châu, vua
hỏi: "Nàng có thể đối lại câu ấy chăng"? Nàng liền dời gót ngọc, miệng hoa
thốt mở, đối rằng: Xuân sắc đài trang khai bảo kính, thủy để phù dung
nghĩa là Sắc xuân đài trang mở gương báu, phù dung đáy nước. Vua khen ngợi
hồi lâu, ban cho đôi khuyên tai vàng nạm rồng ngọc, từ đó yêu quư hơn mọi
cung phi.
Nhưng chuyện mà nàng Bích Châu quan tâm hơn cả là chính sự. Đau ḷng trước
đời sống khổ cực của nhân dân và triều chính rối ren, nàng đă dâng lên vua
một bức sớ gồm mười điều để b́nh trị thiên hạ, gọi là Kê minh thập sách.
Sớ viết:
"Trộm nghĩ dời khỏi bếp gianh, giữ cháy trước khi chưa cháy. Dùng gốc cây
dâu ràng cửa tổ, pḥng mưa trước khi chưa mưa. V́ dân t́nh dễ ch́m đắm vào
sự yên vui, mà thế vận khó ḷng giữ được luôn b́nh trị. Cho nên, tiến lời
răn biếng trễ, Cao Dao trước dè sự ngợi khen; ở vào đời thái b́nh, Giả
Nghị (1) đă tâu lời than thở. Chỉ v́ yêu vua mà ngăn trước, không phải làm
khác chúng để khoe tài.
Kẻ thiếp hèn là Bích Châu; lúc nhỏ sinh ở nơi nghèo hèn, khi lớn được vào
hầu, chứa chan ban thưởng, đằm thắm thương yêu, thêu xiêm áo vua Ngu, trút
trâm cài Khương Hậu (2), tiến lời can đứng trước đ́nh thần. Bày tỏ mười
điều, băn khoăn tấc dạ:
Một là, năng giữ cỗi gốc của nước, trừ hà bạo th́ ḷng người yên vui.
Hai là, giữ nếp cũ, bỏ phiền nhiễu th́ kỷ cương không rối.
Ba là, nén chặt kẻ quyền thần để ngăn ngừa chính sự mục nát.
Bốn là, thải bớt những kẻ nhũng lạm để trừ tệ khoét đục của dân.
Năm là, xin cổ động nho phong, khiến cho lửa bó đuốc cùng với ánh mặt trời
cùng soi sáng.
Sáu là, mở đường cho người nói thẳng, để cho cửa thành cùng với đường can
gián mở toang.
Bảy là, cách kén quân nên chú trọng vào dũng lực hơn là cao lớn.
Tám là, chọn tướng nên cầu người thao lược mà không căn cứ vào thế gia.
Chín là, khí giới quư hồ bền chắc, không chuộng h́nh thức.
Mười là, trận pháp cốt cho chỉnh tề, cần chi điệu múa.
Mười điều kể trên rất là thiết thực, phơi bày tấm ḷng trung, mong được bề
trên soi xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, quân vương nghĩ đến chăng? Nước được
thịnh trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy".
Vua xem xong, vỗ vào phách cây đàn mà khen rằng: "Không ngờ một nữ tử lại
thông tuệ đến thế" nhưng lại không dám đem thi hành.
Đời vua trước, Chế Bồng Nga đem quân xâm lược nước ta, đánh đến kinh thành,
vua tôi Nghệ Tông phải bỏ Thăng Long mà chạy. Định rửa mối nhục đó, năm
1377, vua Duệ Tông có ư đem quân đánh Chiêm Thành. Ngự sử Lê Tích và Bích
Châu hết sức can ngăn. Lê Tích nói: "Vua không nên lấy giận riêng mà khởi
binh, tướng không nên cầu công mà đánh bậy". Lúc đó, nội trị chưa yên, dân
binh khốn khó nên tờ biểu của Bích Châu viết rằng: "Trị đạo: trước gốc,
sau ngọn, xin nghỉ binh cho dân chúng yên hàn; trị rắn dùng mềm, dùng
người xa lấy đức... Đó thật là thượng sách, xin xét đoán cho minh".
Can gián không nghe, để trọn đạo vua tôi và ơn nghĩa vợ chồng, Bích Châu
xin theo vua hành quân để hộ giá. Năm ấy, vua Duệ Tông thân chinh mang 20
vạn quân, bóng cờ rợp trời, thuyền bè đầy sông, thẳng đến cửa biển Kỳ Hoa
(Kỳ Anh) th́ gặp mưa gió nổi lên dữ dội. Vua hạ lệnh tạm đóng quân. Cuối
canh ba đêm đó, vua chợt thấy một người nanh to, râu xồm, đầu đội mũ lưu
tinh, ḿnh mặc áo gấm vẩy, lắc lư đi tới, tự xưng là đô đốc vùng biển Nam
Hải, đang thiếu người nội trợ, dám xin vua một cung tần. Nếu vua thuận
ḷng, xin báo đáp; nếu không thuận, quyết không thể bỏ qua được". Vua gật
đầu.
Lúc tỉnh dậy, vua cho vời các phi tần đi theo kể lại chuyện trong mộng.
Các cung phi tái mặt, không ai nói một lời.
Bích Châu chứa chan nước mắt, qùy trước mặt vua tâu rằng: "Cái nguy sóng
gió kia, chứng nghiệm đă báo trước. Nếu không phải oan khiên ngày cũ, tất
cũng chướng nghiệp ngày nay. Thiếp không dám than luyến hồng hoa, tiếc
thân bồ liễu, xin được trả cho xong cái nợ trước mắt kia... Sau khi thiếp
chết, xin bệ hạ sửa văn nghỉ vơ, kén dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa,
dựng mưu chước lâu dài cho quốc gia. Được như thế th́ u hồn thiếp có thể
ngậm cười nơi chín suối".
Nói xong liền nhảy xuống biển, trong mưa gào sóng cuộn c̣n văng vẳng tiếng
nàng gửi lời vĩnh biệt. Vua và các phi tần chưa hết kinh hoàng, th́ bỗng
chốc gió tan, mưa tạnh. Ngày ấy là ngày 27 tháng Giêng năm Đinh Tỵ.
Gần đúng một thế kỷ sau, năm 1470, khi vua Lê Thánh Tông trên đường đánh
quân Chiêm Thành, qua biển Kỳ Hoa, được Bích Châu báo mộng, kể lể sự t́nh,
dâng ngọc minh châu tên là Triệt hải, soi thấu cả nơi âm u. Vua Lê Thánh
Tông bèn sai thị thần là Nguyễn Trọng Ư viết một bức thư trách Quảng Lợi
Vương là thần cai quản đô đốc Nam Hải, kẹp vào đầu tên bắn ra biển. Lát
sau, thi hài của nàng Bích Châu nổi lên, vẻ đẹp vẫn y nguyên, hương tỏa
ngát thơm, nhan sắc vẫn như thuở b́nh minh. Vua cho mai táng theo lễ đối
với hoàng hậu, sai lập đền thờ và phong thần là "Chế Thắng" nên đền này
được gọi là "Chế Thắng phu nhân từ".
Vua lại ngự chế một bài thơ, đề ở tường bên trái của đền. Đề xong, chỉnh
đốn quân đội lên đường. Quân đi đến đâu, gió thu bẻ cành, thái sơn đè
trứng, bắt sống tướng giặc, hát khúc khải hoàn. Trên đường trở về, đến đền
thờ Chế Thắng, hồi tưởng việc xưa, ngẫm tới chuyện nay, vua Lê Thánh Tông
ngậm ngùi than rằng : "Quốc gia hưng vượng tất có điềm lành, quốc gia suy
đồi, tất có điềm dữ. Điềm lành hay điềm dữ, thật có liên quan đến đức của
ông vua tốt hay xấu".
Đền thờ của Nguyễn Cơ Bích Châu được lập từ thời vua Lê Thánh Tông (thế kỷ
XV), được sửa sang, tôn tạo qua nhiều thời kỳ, nổi tiếng linh thiêng. Hằng
năm, cứ vào ngày 12 tháng hai âm lịch, được coi là ngày giỗ của bà (3) dân
làng mở hội lớn, khách thập phương đến rất đông.
Những điều bà Bích Châu viết trong Kê minh thập sách th́ không phải vua và
nhiều người khác không biết. Thế nhưng cái đáng trọng là dám nói thẳng,
dám xả thân khi cần thiết.
Những bài học lịch sử, ư nghĩa về chức phận qua cuộc đời của bà Nguyễn Cơ
Bích Châu, qua suy ngẫm của vua Lê Thánh Tông thật đáng ghi ḷng. Dân
thường t́m về những chốn đền thiêng của các anh hùng, nghĩa sĩ, là để
ngưỡng mộ, để bất chấp thói thường mà khẳng định và nuôi bền cái đạo lư
ḿnh noi theo vậy. Sức sống của dân tộc cũng phần nào được biểu hiện ở đó
chăng?
----------
(1) Cao Dao và Giả Nghị là những bề tôi giỏi được ghi chép trong sử cũ.
(2) Khương Hậu là vợ vua Chu Tuyên Vương. Nhà vua thường hay dậy muộn, trễ
nải công việc, Khương Hậu tự nhận là tội của ḿnh, rút bỏ trâm ngọc. Vua
từ đó tỉnh ngộ.
(3) Có lẽ đó là ngày phát hiện và mai táng thi hài bà Bích Châu thời Lê
Thánh Tông. Cũng có tài liệu chép rằng, bà Bích Châu không phải mất v́ tự
nguyện làm vật hiến tế mà trúng tên địch trong trận chiến hộ giá vua ngày
10-2 năm Đinh Tỵ, mất rạng sáng ngày 12-2 năm đó ở cửa biển Thị Nại.
NGUYỄN SĨ ĐẠI
|