| |
|
-
Nghĩ về mấy Câu Ca Dao
Nói Về Cuộc Khởi Nghĩa
Của
- Phan
Bá Vành (1821-1827)
- ĐÀO ĐỨC NHUẬN
- Sau khi đánh thắng nhà Tây
Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long (1802). Trong
suốt thời gian Gia Long trị vì (1802-1819) về nội trị tương đối ổn
định dù rằng có một số vùng dân chúng nổi lên chống lại triều
đình, nhất là ở khu vực Đàng Ngoài với cả hàng chục vụ, nhưng
đây chỉ là những cuộc nổi dậy lẻ tẻ, thế lực quá yếu, chỉ quấy
phá ở một vài phủ huyện chẳng bao lâu sau đã bị dẹp tắt ngay.
Nhưng sang đời vua Minh Mạng (1820-1840) đã có những cuộc nổi dậy
với quy mô rộng lớn ở đất Bắc Kỳ như cuộc khởi nghĩa của Phan
Bá Vành (1821-1827), cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương (1826-1833) ở
Ninh Bình, Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân (1833-1835)
nổi lên ở Cao Bằng quấy phá mấy tỉnh vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên,
Cao Bằng và Lạng Sơn và cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi ở đất lục
tỉnh Nam Kỳ. Trong những cuộc khởi nghĩa kể trên, kiệt hiệt hơn
cả, đó là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi trong năm 1833, chỉ trong
vòng 1 tháng trời, quân của Khôi đã chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ, Khôi
tự phong là đại nguyên suý và phong chức tước cho các đồ đảng
chẳng khác chi một triều đình và phải cần đến gần 3 năm quan
quân của triều đình mới phá tan được cứ điểm cố thủ cuối cùng
của loạn quân là thành Bát Quái (nay nằm trong địa phận Sài Gòn)!
Vậy mà ca dao lịch sử hầu như không ghi lại câu nào gọi là để kỷ
công cho Lê Văn Khôi mà ngày nay chúng ta chỉ được biết có mỗi một
câu nêu rõ tên của Khôi nhưng lại là một câu tỏ ý trách móc :
- Bao giờ bắt được giặc Khôi,
- Cho yên giặc nước chồng tôi mới về !
-
-
Cùng thời với câu ca dao trên còn
một câu nữa cũng tỏ ý trách móc Lê Văn Khôi đã gây ra cuộc binh
biến khiến cho quân lính đương thời phải vất vả mệt nhọc. Vào
thời Minh Mạng (1820-1840), bến Trường Tiền và bến Bồ Đề thuộc
kinh đô Phú Xuân là nơi đồn trú của 2 đội Thủy sư. Trong mấy năm
đầu, quân triều đình tại các trấn Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận
đều bị quân của Khôi đánh cho liểng xiểng. Để đối phó với tình
thế, sau khi một tướng của Khôi là Thái Công Triều, nguyên là một
vị quan của triều đình theo Khôi làm phản nhưng sau đó đã về qui
phục Triều đình xin đới công chuộc tội, Minh Mạng đã điều động 2
toán quân Thủy sư tại kinh đô vào Nam tham chiến. Đội quân kinh đô
được gọi là quân Trấn Vũ chưa từng chinh chiến nơi xa nên ra đi mà
trong lòng lo sợ không yên:
- Nơi bến Trường Tiền có cây đa bóng mát
- Gần bến Bồ Đề có bãi cát phẳng lì
- Trời ơi, sanh giặc làm chi
- Để quân Trấn Vũ phải ra đi cơ hàn!
-
- Trước cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi hơn 10 năm, tại đất
Nam Định xứ Đàng Ngoài đã có cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành.
- Tháng giêng năm Minh Mạng
thứ 2 (1821), Phan Bá Vành đã lãnh đạo nghĩa binh lập căn cứ ở
Trà Lũ (Nam Định) nổi lên khởi nghĩa chống lại triều đình. Cuộc
khởi nghĩa của Phan Bá Vành đã kéo dài gần 6 năm, hoạt động khắp
các tỉnh ven biển từ Nam Định, Thái Bình đến Quảng Yên, có khi
nghĩa quân hoạt động đến tận Sơn Tây, kéo vào đến Hòa Bình, Thanh
Hóa. Đến năm Minh Mạng thứ 7 (1826), Phan Bá Vành lại liên kết với
nghĩa binh của Võ Đức Cát và Nguyễn Hạnh đánh phá các phủ Trà
Lý và Lân Hải (tháng 2 Bính Tuất, 1826), 2 quan thủ ngự của triều
đình là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn đều bị hại. Quan
trấn thủ Nam Định là Lê Mậu Diễn đem quân tiếp cứu cũng bị nghĩa
binh giết chết. Thế của nghĩa quân mạnh như nước vỡ bờ, quân các
trấn hiệp lực chống cự cũng rất khó khăn nhưng rồi đến cuối năm,
một thủ lãnh của nghĩa quân là Lê Đức Cát bị thống chế Trương
Phước Đặng vây bắt ở làng Đông Hào, Giao Thủy đem giết đi. Sau cái
chết của Lê Đức Cát, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh liên kết với
giặc Khách đang hoành hành ngoài biển đem 5000 quân vây khổn 2 huyện
Tiên Minh và Nghi Dương ở Hải Dương. Trước thế mạnh của quân khởi
nghĩa, Minh Mạng sai 2 tướng tài là quan tham hiệp Thanh Hóa Nguyễn
Công Trứ, quan tham hiệp Nghệ An Nguyễn Hữu Thận cùng quan quân 2
tỉnh Thanh Nghệ hiệp với quân của quan hiệp trấn Bắc Thành cố tiêu
diệt cho được cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành. Không nao núng
trước lực lượng hùng hậu của triều đình, sang đầu năm Minh Mệnh
thứ 8 (1827) Phan Bá Vành lại cho quân chiếm 2 phủ Xuân Trường và
Kiến Xương (Nam Định), vây khổn quân của Phạm Đình Bửu ở Chợ Quán
khiến Nguyễn Công Trứ và Phạm Văn Lý phải dốc toàn lực để giải
vây. Trước sức phản công mãnh liệt của quân triều đình, cuối cùng
Phan Bá Vành cùng bộ hạ lại kéo nhau trở về Trà Lũ đào hào,
đắp thành cố thủ. Bị vây ngặt, Phan Bá Vành định lợi dụng đêm hôm
tìm đường thoát thân ra biển nhưng rồi, vào tháng hai năm Đinh hợi
(1827), sau hơn 1 tháng cố thủ, quan quân triều đình vây bắt được
Phan Bá Vành cùng 760 đồ đảng đem về trị tội. Cuộc khởi nghĩa
của Phan Bá Vành chấm dứt sau hơn 6 năm tung hoành trên địa bàn đất
Bắc.
- Như ta đã biết, trên đất Bắc, đồng thời với cuộc khởi nghĩa của
Phan Bá Vành còn có những cuộc khởi nghĩa qui mô khác như của Lê
Duy Lương, Nồng Văn Vân . . .Trong những câu ca dao được xem là ca dao
lịch sử còn lưu truyền cho đến ngày nay, hầu như không có câu nào
nhắc đến tên tuổi của các thủ lãnh kể trên, trong lúc đó thì
cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành ở đất Nam Định lại có nhiều câu
ca dao nhắc đến hơn cả :
-
* Trên trời có ông sao Tua
-
Ở làng Nguyệt (Minh) Giám có vua Ba Vành
-
Phương Đông quật lũ hung tinh
-
Làm cho bảy viện tan tành ra tro
-
-
* Trên trời có ông sao Tua
-
Cầu Đông, bến Đá có vua Ba Vành
-
-
* Trên trời có ông sao Tua
-
Ở dưới mạn biển có vua Ba Vành
-
-
*Trên trời có ông sao Tua
-
Ba làng Trà Lũ có vua Ba Vành
-
- Nhận xét
đầu tiên của chúng ta là các câu trên đây đều có câu “lục” (tức câu
thơ sáu chữ của thơ lục bát) giống nhau :
- Trên trời
có ông sao Tua !
-
- Đây là một hình thức
cấu tạo những câu ca dao mới cùng chung với nội dung của câu đầu
tiên hoặc phản bác với nội dung của câu đầu tiên.
-
- Các câu ca
dao trên có chung một nội dung “tiên tri” nhằm ca tụng Phan Bá Vành,
thủ lãnh của một cuộc khởi nghĩa đã làm cho quan quân của triều
đình Minh Mạng phải nhiều phen thất điên bát đảo! Quả thực, đây
chỉ là một “tiên tri” mang tính chất tuyên truyền vì thực tế chưa
bao giờ Phan Bá Vành là vua và trong suốt thời gian lãnh đạo khởi
nghĩa, ông cũng chưa bao giờ tự xưng là vua!
-
- Các câu “bát” ở dưới
đều xưng tụng Phan Bá Vành là “Vua” (Vua Ba Vành) và mỗi câu xuất
hiện ở một địa phương nơi mà nghĩa quân Phan Bá Vành đã gây được
nhiều thanh thế, tạo được nhiều chấn động nhân tâm trong quần chúng
: làng Minh Giám hay làng Nguyệt Giám là làng sinh quán của Phan
Bá Vành ; “Cầu Đông, Bến Đá” hay
“Ở dưới mạn biển” là những vùng mà cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành đã từng hoạt
động ! “Ba làng Trà Lũ” tức các làng Trà Trung, Trà Bắc và
Trà Đoài thuộc huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định vừa là cứ điểm
xuất phát, vừa là cứ điểm cố thủ cuối cùng của nghĩa quân Phan
Bá Vành.
-
- Những câu ca dao trên
đây lúc đầu chắc hẳn đã xuất hiện trong hàng ngũ nghĩa quân Phan
Bá Vành để làm công cụ tuyên truyền và cứ qua mỗi địa phương quan
trọng, câu thơ tuyên truyền lại được thay đổi địa danh như ta đã
thấy ở trên và có thể là trong buổi đầu, khi câu ca dao xuất hiện
lần đầu tiên, nó được tuyên truyền như một “câu sấm” tiên tri Phan
Bá Vành “sẽ là Vua”. Đây là một thủ đoạn chính trị mà các thủ
lãnh khởi nghĩa đôi khi đã phải dùng để tự gây thanh thế cho mình
như câu chuyện “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”
trong cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc xâm lăng nhà Minh (1417-1427). Vả lại,
trong thời đại phong kiến, các thủ lãnh khởi nghĩa chống lại
triều đình đều nhằm mục đích tối hậu: hoặc khởi nghĩa vì mục
đích cần vương (tức ủng hộ cho một dòng họ đã bị thoán đoạt
quyền hành) như những cuộc khởi nghĩa lấy danh nghĩa phù Lê, hoặc
chính thủ lãnh khởi nghĩa có tham vọng diệt triều đại thối nát
đương quyền để tự mình lên ngôi cửu ngũ như cuộc khởi nghĩa của
anh em Tây Sơn với sự lên ngôi của Nguyễn Nhạc và về sau là của
Nguyễn Huệ. Và có như vậy, các thủ lãnh khởi nghiã mới kêu gọi
được sự hợp tác của từng lớp sĩ phu và của cả dân chúng ; và
chúng ta có thể suy đoán câu ca dao đã xuất hiện gần như đồng thời
với sự kiện nhằm mục đích gây thanh thế cho người thủ lãnh của
phong trào tức Phan Bá Vành trong quảng đại quần chúng.
-
- Những câu ca dao mang
tính tuyên truyền như trên đã ăn sâu vào tâm thức của quảng đại
quần chúng đương thời, dù ít dù nhiều cũng đã gây được ảnh hưởng
tốt trong dân chúng và nhờ vậy mà chúng đã được bảo lưu cho đến
ngày nay.
-
- Câu ca dao sau đây cũng
nhắc đến “vua Ba Vành” nhưng chắc hẳn nó đã không xuất hiện cùng
thời với sự kiện Phan Bá Vành khởi nghĩa mà nó chỉ xuất hiện
muộn về sau nhằm thẩm định giá trị của thủ lãnh Phan Bá Vành,
và rõ ràng cuộc khởi nghĩa của ông tuy không thành công nhưng cũng
đã để lại trong lòng dân chúng vùng quê hương ông một mối cảm tình
tốt đẹp :
- * Chẳng
vui cũng thể hội chùa
- Chẳng ngai, chẳng hốt cũng vua Ba Vành
-
- Ngày nay, chúng ta đã có
thể sưu tập hàng trăm câu ca dao được gọi là ca dao lịch sử. Trong
hàng trăm câu đó, họa hoằn chúng ta mới bắt gặp dăm ba câu có nhắc
đến tên một vài thủ lãnh khởi nghĩa một cách rõ ràng chính xác
như mấy câu ca dao lịch sử trên đây. Đây cũng là một điều đáng để
cho chúng ta lưu tâm tìm hiểu.
-
- Như chúng ta có thể cảm
nhận, dân tộc Việt Nam là một dân tộc bất khuất nhưng lại rất
hiếu hòa. Bất khuất trước kẻ thù xâm lược, bất khuất trước những
áp bức bất công, hà khắc của cường quyền, nhưng sau khi tinh thần
bất khuất đã được biểu lộ hay đã tạo nên chiến thắng rồi thì
tinh thần hiếu hòa lại là tinh thần chủ đạo trong cuộc sống. Họ
không mấy khi nhắc đến chiến công. Họ không mấy khi miệt thị kẻ
thù.
-
- Thời nhà Lý (1010-1225),
Lý Thường Kiệt đã đem quân đánh thẳng sang đất nước Trung Hoa hàng
năm trăm dặm (1075), đã chiến thắng oanh liệt quân nhà Tống trên sông
Như Nguyệt (1076) cũng chỉ được nhắc đến một cách nhẹ nhàng, không
hận thù, không khoa trương:
-
Nực cười châu
chấu đá xe,
- Tưởng rằng
chấu ngã, ai dè xe nghiêng!
-
- Thời nhà Tây Sơn (1788-1802), Quang Trung Nguyễn Huệ đã lãnh đạo quân
dân Đại Việt đánh thắng 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, tạo nên
chiến tích Đống Đa lừng lẫy (ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, 1789).
“Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những
người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc,
lương ăn” (VNSL, II, 134). Và về sau dân chúng còn lập cả đền
thờ để thờ những linh hồn oan khuất của binh lính Mãn Thanh tử
trận tại gò Đống Đa thuộc Hà Nội ngày nay:
-
Đống Đa ghi
dấu lại đây,
- Bên kia Thanh
miếu, Bên này Bộc am!
-
- Đây là tinh thần hiếu sinh
và hiếu hòa của dân tộc Việt Nam.
- Họ biết ơn tất cả những anh hùng liệt nữ đã từng lãnh đạo họ
trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, những cuộc khởi
nghĩa chống cường quyền – dù thành công hay thất bại – với mục
đích tối thượng là mưu cầu cuộc sống tự do hơn, no ấm hơn cho họ,
đem họ thoát khỏi mọi gông cùm áp bức của ngoại bang hay của
cường quyền, nhưng lòng biết ơn đó được thể hiện bằng cách thờ
phượng như những vị thần “bảo quốc hộ dân” như đền Đồng Nhân ở Hà
Nội thờ Hai Bà Trưng hằng năm tổ chức lễ hội từ ngày 3 đến ngày
6 tháng hai âm lịch ; bà Triệu Thị Trinh được lập đền thờ trên núi
Gai thuộc làng Phú Điền, huyện Hậu Lộc (Thanh Hóa) hằng năm tổ
chức lễ hội vào ngày 21 tháng hai âm lịch ; đền Trúc thuộc tỉnh
Hà Nam thờ Lý Thường Kiệt, hằng năm tổ chức lễ hội từ ngày 6
đến ngày 10 tháng hai âm lịch ; đền Kiếp Bạc ở Hải Dương thờ Trần
Hưng Đạo mà dân chúng đã tôn xưng là Đức Thánh Trần, hằng năm tổ
chức lễ hội từ ngày 18 đến ngà 20 tháng tám âm lịch ; như đền
thờ Lê Văn Duyệt được dân chúng tôn xưng là Lăng Ông ở sài Gòn, lễ
giỗ được tổ chức vào 3 ngày cuối tháng 7 sang đầu tháng 8 âm lịch
và vào những ngày đầu Xuân hầu như không lúc nào ngớt hương khói .
. . bởi vì “các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân
với nước, lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà
lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ” (
PKB, 59) chứ không mấy khi đặt ca vè để truyền tụng. Vì vậy mà,
trong suốt dọc trường kỳ dựng nước và giữ nước đã có biết bao
nhiêu anh hùng liệt nữ được ghi tên trong sử sách nhưng đã có mấy
ai được nhắc nhở đến trong văn chương truyền khẩu của dân gian, đặc
biệt là trong ca dao?
-
- Trường hợp những câu ca dao
trên đây thật hãn hữu. Thế nhưng, như tôi đã lý giải ở trên, đây có
thể chỉ là những câu thơ mang tính chất tuyên truyền lần đầu xuất
hiện trong hàng ngũ nghĩa quân Phan Bá Vành và sau đó nó được
người dân địa phương truyền tụng thay cho những truyền đơn và rồi
nhập vào trí nhớ của dân gian để đến bây giờ chúng đã trở thành
những câu ca dao lịch sử!
-
-
ĐÀO ĐỨC NHUẬN
-
- Tài liệu tham khảo:
- -Các tuyển tập ca dao.
- -Việt Nam Phong Tục của Phan
Kế Bính.
- -Việt Nam Sử Lược của Trần
Trọng Kim.
- -Cố Đô Huế
của Thái Văn Kiểm.
|
|