|
Lịch Sử Việt Nam -
Phạm Quân Khanh
XXIII. Pháp Xâm Chiếm Việt Nam
A.
Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884)
B. Thời kỳ đô hộ (1884 - 1945)
1. Chính Sách Thực Dân
2. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân Tộc Việt Nam
Ạ Chiến tranh xâm lược (1858 - 1884)
Từ thế kư? 19, hầu hết các thị trường của Pháp ở Ấn Độ và Trung Hoa đều
bị Anh Cát Lợi chiếm hoặc phong toả. Thị trường lớn của Pháp ở Trung Hoa
là Vân Nam bị chận đường thông thương ở Hương Cảng từ năm 1842 (sau khi
Anh thắng Tàu trong trận "nha phiến"), nên Pháp phải t́m đường khác từ
Thái B́nh Dương vào Vân Nam. Sông Cửu Long bất lợi, v́ vậy phải tính
việc dùng sông Hồng Hà.
Lúc đầu, Pháp chỉ muốn được quyền sử dụng các sông kể trên, nhưng sau
khi chiến tranh với Việt Nam th́ thấy triều đ́nh nhà Nguyễn quá yếu hèn
và thị trường Việt Nam cũng trở nên rất quan trọng, v́ thế Pháp đă chiếm
trọn để đô hộ và khai thác.
1. Ba tỉnh Miền Đông Nam kỳ bị thất thủ (1862)
Quân Pháp và Tây Ban Nha lấy cớ triều đ́nh Huế cấm đạo Thiên Chúa mà đem
quân vào can thiệp. Đầu năm 1859 quân Pháp hạ thành Gia Định, Tự Đức sai
Nguyễn Tri Phương vào lập đồn kỳ Hoà lo chống cư.. Năm 1861, quân Pháp
hạ đồn kỳ Hoà rồi tiến chiếm Định Tường, Biên Hoà và Vĩnh Long (1862).
Tự Đức cử Phan Thanh Giản vào Gia Định nghị hoà. Hoà ước kư ngày 9 5
1862, nhượng ba tỉnh miền Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hoà, Định Tường)
cho Pháp.
2. Ba tỉnh Miền Tây Nam kỳ thất thủ (1867)
Năm 1863, Tự Đức sai Phan Thanh Giản cầm đầu phái đoàn sang Pháp để điều
đ́nh chuộc lại ba tỉnh miền đông. Vua Pháp chấp thuận với điều kưện để
Pháp bảo hộ luôn sáu tỉnh Nam kỳ. Việc bàn chưa xong th́ Pháp rút lại đề
nghị đó. Thấy vậy vua Tự Đức phải cử Phan Thanh Giản làm kưnh lược sứ
nắm giữ 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ. Mặc dù đă 70 tuổi ông vẫn phải chịu
trách nhiệm khó khăn ấỵ
Quân Pháp viện cớ triều đ́nh Nguyễn giúp nghĩa quân chống Pháp ở 3 tỉnh
miền Đông để tiến quân chiếm nốt ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang,
Hà Tiên. Phan Thanh Giản liệu sức không cự nổi và sợ dân chết khổ v́
chiến tranh, nên ra lệnh nộp thành rồi uống thuốc độc tự tử, 1867. Thế
là 6 tỉnh Nam kỳ bị thuộc Pháp.
3. Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất (1873)
Sau khi chiếm Nam kỳ, Pháp thấy sông Cửu Long không thuận tiện cho việc
giao thông với Vân Nam ở Tàu, bèn tính tới con đường sông Hồng Hà. Pháp
sai tên Jean Dupuis giả làm lái buôn dùng sông Hồng Hà để chở hàng vào
Vân Nam. Sau khi thấy sông Hồng Hà thuận tiện cho việc giao thương, tên
này trở lại Hà Nội gây chuyện với quan lại Việt Nam để quân Pháp ở Sài
G̣n có cớ ra can thiệp. Soái phủ Sài G̣n cử tên đại uư Francis Garnier
đem binh thuyền ra tấn công Hà Nộị Quan thủ thành là Nguyễn Tri Phương
và con là pḥ mă Nguyễn Lâm cự không lạị Nguyễn Lâm tử trận, Nguyễn Tri
Phương bị bắt rồi ông tự tử chết (1873).
Sau khi chiếm được Hà Nội, Garnier tiến chiếm Ninh B́nh, Nam Định và Hải
Dương.
Triều đ́nh Huế sai Hoàng Kế Viêm tổ chức pḥng thủ. Hoàng Kế Viêm gọi
quân cờ đen giúp sức để lấy lại Hà Nộị Quân Cờ Đen vốn là dư đảng của
quân Thái B́nh bên Tàu chạy sang Việt Nam, được Hoàng Kế Viêm chiêu dụ ở
Lào Caỵ Quân Cờ Đen phục kưch quân Pháp ở Ô Cầu Giấy và giết được
Garnier.
Soái phủ Nam kỳ sai Philastre từ Sài G̣n ra Hà Nội lo việc giảng hoà và
trả lại các thành cho Việt Nam rồi lui tầu bè xuống Hải Pḥng. Sau đó
Nguyễn Văn Tường cùng Philastre vào Sài G̣n tiếp tục thương nghi..
Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Thượng thư Lê Tuấn, Thượng thư Nguyễn Văn
Tường và Thiếu tướng Dupré cùng kư bản hoà ước 1874, gồm 22 khoản, các
khoản chính là:
Việt Nam nhượng đứt cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ, mở của Ninh Hải (Hải Pḥng),
thành Hà Nội và sông Hồng Hà cho người ngoại quốc vào buôn bán.
Pháp công nhận quyền độc lập của Việt Nam, không phải thuần phục nước
nào nữạ Mọi việc đánh dẹp sẽ do Pháp lo liệu, và phải y theo sách lược
ngoại giao của Pháp.
4. Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ hai (1882)
Về sau, thấy triều đ́nh Nguyễn càng ngày càng suy nhược, Pháp tính việc
chiếm Bắc kỳ. Soái phủ Sài G̣n lấy cớ bảo vệ quyền lợi của người Pháp,
sai đại tá Henri Rivière ra Bắc. Rivière đánh chiếm Hà Nội ngày 28 tháng
4 năm 1882, quan thủ thành là Hoàng Diệu phải tự tử. Tự Đức thấy nguy
bèn cầu cứu nhà Thanh bên Tàu. Lợi dụng cơ hội này Thanh triều đem quân
sang đóng ở Bắc Ninh và Sơn Tây đợi dịp tranh quyền lợi với Pháp ở Việt
Nam. Pháp cũng tăng cường thêm quân ra Bắc. Khi Rivière đem quân chiếm
Nam Định, quân triều đ́nh cùng quân Cờ Đen tấn công Hà Nộị Rivière vội
trở lại giải vây th́ bị quân Cờ Đen phục kưch, giết chết ở Ô Cầu Giấỵ
Pháp thấy nguy phải cử cấp tướng ra chỉ huy và tăng thêm quân, rồi sai
Harmand làm toàn quyền kưnh lư việc Bắc kỳ.
Dân chúng Bắc kỳ nổi lên kháng Pháp khắp nơi và quân Việt phản công ở Hà
Nội, Nam Định nhưng đều bị thất bạị Trong t́nh trạng cam go đó, triều
đ́nh Huế sinh nhiều việc rối loạn. Tự Đức mất (1883), Dục Đức lên ngôi
được ba ngày th́ lại bị hai tên quyền thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất
Thuyết truất ngôi, lập Hiệp Hoà. Khi đó quân Pháp đánh Thuận An, uy hiếp
Huế. Triều đ́nh phải cử Trần Đ́nh Túc, Nguyễn Trọng Hợp cùng với Harmand,
De Champeaux kư hoà ước ngày 23 7 1883. Hoà ước có 27 khoản. Theo đó
triều đ́nh Huế chịu nhận Pháp bảo hô.. Pháp được đặt công sứ, chỉ huy
các tỉnh, vua Việt chỉ có quyền cai trị từ tỉnh Thanh Hoá tới đèo Ngang.
Hoà ước kư xong nhưng không thi hành được v́ Bắc kỳ vẫn trong t́nh trạng
chiến tranh, quân Tàu và quân triều đ́nh vẫn tiếp tục đánh. Pháp phải
gọi thêm quân tiếp viện từ chính quốc sang rồi tiến chiếm Sơn Tây, Bắc
Ninh, Thái Nguyên, Hưng Hoá, Tuyên Quang. Quân Tàu thua, phải rút lên
vùng biên giới Hoa Việt, quân Nam phải lui về Huế. Ỏ Huế, Tôn Thất
Thuyết và Nguyễn Văn Tường vẫn tiếp tục gây rối, phế vua Hiệp Hoà lập
vua Kiến Phúc. Triều đ́nh Huế yêu cầu Pháp kư hoà ước khác để quyền hành
của vua Việt được nới rộng hơn. Nguyễn Văn Tường cùng Patenôtre kư hoà
ước ngày 6 6 1884, gồm 19 khoản. Hoà ước này cũng như hoà ước 1883,
nhưng giới hạn cai trị của triều đ́nh Huế được nới rộng thêm từ Thanh
Hoá tới B́nh Thuận.
Tại vùng biên giới Hoa Việt, quân Tàu vẫn chiếm đóng, quân Pháp tiến
đánh nhưng bị thất trận ở Bắc Lệ và Lạng Sơn. Nước Pháp bèn đem hải quân
đánh Phúc Châu và Đài Loan của Tàụ Trung Hoa phải kư hoà ước Thiên Tân
năm 1885, nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam và rút quân về Tàu.
Xem vậy, việc bang giao giữa nước này với nước khác đều v́ lợi, nhưng
nước mạnh bao giờ cũng trưng việc nghĩa để che đậy ư gian, rồi kết quả
mọi điều lợi đều về nước mạnh, chứ chẳng v́ nghĩa chi cả. Thế mà triều
đ́nh Huế, cũng như nhiều người cứ u u, mê mê đi cầu cạnh người, không
biết lo làm cho dân giầu, nước mạnh, thật là phường ích kư?, vị lợi chỉ
biết chăm lo bản thân mà coi thường quốc gia dân tộc.
Sau nhiều năm chiến tranh và qua 4 bản hoà ước 1862, 1874, 1883 và 1884
nước Pháp đă hoàn tất việc xâm lăng thực dân ở Việt Nam. Nam kỳ trở
thành thuộc địa, Bắc kỳ là đất bị bảo hộ và Trung kỳ là nơi Pháp lập chế
độ trú sứ, nhưng trên thực tế cả ba miền đều là thuộc địa của Pháp, nhà
Nguyễn ở Huế không có quyền hành ǵ cả.
Hoà ước 1884 xác định quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam đă thi hành tới
ngày 9 tháng 3 năm 1945.
B. Thời kỳ Pháp Đô Hộ (1884 - 1945)
1. Chính sách thực dân
2. Công cuộc kháng pháp của dân Việt Nam
1. Chính sách thực dân
Theo hoà ước 1884, chế độ cai trị của Pháp được phân biệt tùy miền. Nam
kỳ thuộc địa, Bắc kỳ bảo hộ, Trung kỳ trú sứ. Nhưng trên thực tế cả ba
miền đều bị chung dưới ách đô hộ như nhaụ Mọi quyền hành đều nằm trong
tay người Pháp. Sau khi chiếm Việt Nam và Ai Lao, Cao Mên, Pháp thiếp
lập chế độ thuộc địa chặt chẽ. Lúc đầu mỗi xứ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ,
Ai Lao, Cao Mên) có một viên thủ hiến lo việc cai tri.. Đến năm 1887
Pháp thiết lập phủ Toàn quyền để thống nhất việc cai trị toàn vùng (Đông
Dương). Tại mỗi xứ, cắt đặt như sau: Thống Đốc Nam kỳ, Khâm Sứ Trung kỳ,
Khâm Sứ Cao Mên, Thống Sứ Bắc kỳ, Thống Sứ Ai Laọ Các viên chức này đều
phải theo lệnh của viên Toàn Quyền.
Dân chúng Việt Nam bị đầy đoạ khốn cực, bị bóc lột tận cùng, phải chịu
khổ nhục để phục vụ lớp quan đô hộ, phải chịu sưu cao thuế nặng để bọn
này hưởng thụ và chi dùng vào việc chém giết dân Việt. Hơn thế nữa, thực
dân Pháp dùng mọi cách để phá huỷ cơ cấu văn hoá Việt.
2. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân tộc Việt Nam
Ngay khi ba tỉnh miền đông Nam kỳ bị thất thủ, nghĩa quân miền Nam nổi
lên đánh Pháp, nhưng thế lực c̣n yếu nên đều bị thất bạị Tuy vậy, trong
suốt thời gian bị đô hộ, dân Việt trên toàn quốc liên tiếp khởi nghĩa
đuổi Pháp, qua các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Đông Du, Duy Tân và
các đảng phái quốc gia.
* Miền Nam
- Trương Công Định (Trương Định) 1860 - 1864
Trương Công Định chiêu mộ nghĩa quân, lập căn cứ ở G̣ Công, đánh theo
lối du kưch, gây nhiều thiệt hại cho quân đi.ch. Trận lớn nhất là trận
Cần Giuộc. Về sau bị tên Huỳnh Công Tấn phản bội, chỉ điểm cho Pháp vây
đánh ông ở Kiến Phước (G̣ Công). Trận này ông bị đạn rồi tự tử, năm
1864.
- Nguyễn Trung Trực 1860 - 1868
Nguyễn Trung Trực kháng chiến ở Tân An, Rạch Giá, chiến thắng lớn trong
trận đốt tầu Pháp ở vàm Nhật Tảo (Tân An) và trận đánh thành Kiên Giang
(Rạch Giá), sau lập chiến khu ở đảo Phú Quốc. Tên Việt gian Huỳnh Công
Tấn bày mưu bắt mẹ ông, ông phải bỏ khí giới để cứu me.. Ông bị Pháp
chém ở Kiên Giang (27-10-1868)
- Phan Ṭng 1869 - 1870. Khởi nghĩa ở Hóc Môn, G̣ Vấp, Ba Tri.
- Tri Huyện Thoại (Đỗ Trinh Thoại) 1861. Hoạt động ở vùng Mỹ Tho, Cao
Lănh, Cai Lậỵ
- Thiên Hộ Dương (Vơ Duy Dương) 1860 - 1886. Lập chiến khu ở Đồng Tháp
Mườị Cuối năm 1886, ông bị mắc bệnh chết.
- Thủ Khoa Huân (Nguyễn Hữu Huân) 1862 - 1875. Kháng chiến ở Mỹ Tho và
Tân An.
- Đoàn Công Bửu, Nguyễn Xuân Phụng 1874 - 1875. Khởi nghĩa ở Trà Vinh.
- Lê Tấn Kế, Trần B́nh 1874 - 1875. Khởi nghĩa ở Ba Đô.ng.
- Phan Tôn, Phan Liêm (con Phan Thanh Giản). Khởi nghĩa ở Vĩnh Long, Sa
Đéc, Trà Vinh và Bến Trẹ
- Quản Hớn, Nguyễn Văn Bường 1885. Khởi nghĩa ở 18 Thôn Vườn Trầu, Bà
Điểm, Hóc Môn thuộc Gia Đi.nh.
- Phan Văn Đạt, Lê Cao Dơng khởi nghĩa ở miền Nam, bị Pháp bắt và bị
giết.
* Miền Trung
- Vua Hàm Nghi lănh Đạo Phong Trào Cần Vương
Vua Kiến Phúc mất, hai phụ chánh Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lập
vua Hàm Nghi (1884). Chính phủ Pháp đ̣i tham dự vào việc phế lập và đ̣i
triều đ́nh Huế phải để Pháp phong vương cho vua Hàm Nghị Khi đó khắp nơi
đều có nghĩa quân nổi lên và triều đ́nh th́ dùng dằng chưa quyết định
thi hành hoà ước 1884. Tướng Pháp De Courcy bèn đem quân vào Huế bắt
triều đ́nh phải chịu nhận bảo hộ ngaỵ Triều đ́nh chống lạị Đêm mồng 3
rạng ngày mồng 4 tháng 7 năm 1885 quân Nam tấn công dinh Khâm Sứ và đồn
quân Pháp ở Mang Cá. Ngày hôm sau quân Nam thất thủ, phải bỏ kưnh thành.
Tôn Thất Thuyết đem vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, tiếp tục đánh Pháp.
Nguyễn Văn Tường về Huế đầu hàng rồi lập Đồng Khánh lên làm vua.
Vua Hàm Nghi ở Quảng Trị phát hịch kêu gọi dân chúng nổi lên chống Pháp
rồi lui về Tân Sở và tính ra Bắc nhưng không thành. Sĩ phu trong nước
hưởng ứng rất đông, nổi lên ở nhiều nơị Đồng Khánh ở Huế nhiều lần sai
người đi mời vua Hàm Nghi và chiêu dụ các cựu thần, nhưng không ai chịu
về hàng Pháp.
Về sau Pháp mua chuộc được tên hầu cận vua Hàm Nghi là Trương Quang
Ngọc, tên này bắt vua nộp cho Pháp (1888), nhà vua bị Pháp đầy sang
Algérie, thuộc địa Pháp ở Châu Phi.
- Phan Đ́nh Phùng
Hưởng ứng hịch Cần Vương, Phan Đ́nh Phùng được vua Hàm Nghi trao quyền
chỉ huy nghĩa binh (1886). Sau khi vua bị bắt, ông tiếp tục kháng chiến
và chỉ huy Phong Trào Văn Thân, lập chiến khu ở Ngà
- Hoàng Hoa Thám
Khi kháng chiến chống Pháp, Hoàng Hoa Thám được triều đ́nh phong làm Đề
Đốc nên thường gọi là Đề Thám. Năm 1886, ông lập chiến khu ở Yên Thế,
Bắc Giang. Kháng chiến ṛng ră 25 năm gây tổn thất nặng nề cho quân
Pháp. Dân chúng rất ngưỡng mộ, gọi ông là hùm thiêng Yên Thế. Nhiều lần
thế lực suy yếu, ông phải trá hàng, vào những năm 1894 và 1897, để chỉnh
đốn hàng ngũ rồi lại tiếp tục đánh Pháp. Năm 1908, ông mưu đánh úp Hà
Nội nhưng bị thất bạị Về sau quân Pháp mua chuộc thủ hạ của ông là tên
Lương Tam kỳ, lập kế ám sát ông (1913).
- Vua Thành Thái và Vua Duy Tân chống Pháp
Vua Đồng Khánh chết non (1888, lúc 25 tuổi), Pháp lập vua Thành Thái con
vua Dục Đức, lúc đó mới 10 tuổị Lớn lên, nhà vua hiểu rơ t́nh trạng đất
nước nên phản đối Pháp và t́m cách liên lạc với các nhà cách mạng Việt
Nam ở hải ngoại như kỳ Ngoại Hầu Cường Để. V́ thế vua Thành Thái bị Pháp
bắt thoái vị và bị đầy sang đảo Réunion (Phi Châu) (1907).
Pháp lập Hoàng Tử Vĩnh San, mới 8 tuổi lên ngôi lấy hiệu là Duy Tân. Năm
1912, vua Duy Tân yêu cầu nước Pháp thi hành đúng tinh thần bản hoà ước
1884, nhưng không có kết quả.
Năm 1916, nhà vua lănh đạo đảng Tân Việt, cùng với các nhà ái quốc Trần
Cao Vân và Thái Phiên để mưu việc khởi nghĩạ Kế hoạch bị bại lô.. Pháp
đầy vua Duy Tân sang đảo Réunion. Các người tham dự vào kế hoạch khởi
nghĩa đều bị Pháp giết hoặc bị đầỵ
Sau đó, thực dân Pháp lập con vua Đồng Khánh (vị vua dễ sai bảo) lên
ngôi năm 1916, lấy hiệu là Khải Đi.nh. Năm 1925, Khải Định mất, con là
Vĩnh Thuỵ, đang học tại Pháp, được gọi về lên ngôi, lấy hiệu là Bảo Đạị
Ông này không thiết tha tới việc nước, nên đă kư thêm Hiệp định ngày 25
11 1925 trao mọi quyền hành cho viên Khâm sứ Huế và cho Tôn Thất Hân làm
phụ chánh để lo việc cúng tế, rồi lại qua Pháp. Năm 1932, Bảo Đại về
Việt Nam, nhưng chỉ lo ăn chơi, không có quyền hành ǵ cả. Mọi việc
trong nước đều do viên Toàn Quyền Pháp nắm giữ.
* Phong Trào Đông Du
Sau khi Phong trào Cần Vương tan ră, nhà ái quốc Phan Bội Châu, người
Nghệ An, đứng ra kết nạp các nghĩa sĩ Cần Vương c̣n sót lại (1902). Ông
đi khắp trong nước t́m đồng chí để thực hiện chương tŕnh giải phóng
quốc dân. Ông thành lập hội Duy Tân và tôn kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cháu
đích tôn vua Gia Long, làm Hội Chủ. Để khích động đám sĩ phu trong nước,
Phan Bội Châu viết "Lưu Cầu Huyết Lệ", rất được truyền tụng, có công
dụng làm sống lại ḷng yêu nước của dân chúng. Các đồng chí quan trọng
đă cùng Phan Bội Châu bôn ba khắp trong nước cũng như ngoại quốc là
Trịnh Hiền, Lê Vơ, Đặng Thái Thân, Thái Nam Xương, Trịnh Công Kiều, Chu
Thư Đồng, Tôn Thất Toại, Đặng Nguyên Cẩm, Ngô Đức Kế, Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quư Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Lương Ngọc Can
v.v...
Năm 1904, Nga Nhật chiến tranh kết liễụ Sự thắng lợi vẻ vang của Nhật
gây xúc động mạnh mẽ trong tầng lớp sĩ phu và các nhà ái quốc Việt Nam.
Nhờ đó, khuynh hướng Đông Du (sang Nhật) cầu học được nhiều người hưởng
ứng.
Năm 1095, Phan Bội Châu cùng Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính khởi hành đi
Hồng Kông, Thượng Hải rồi sang Nhật. Tại Nhật cụ Phan tiếp xúc với học
giả Trung Hoa Lương Khải Siêu, đang tị nạn tại Tokyọ Lương Khải Siêu
giới thiệu cụ với các chính khách Nhật như Khuyển Dưỡng Nghị, Bá tước
Đại Ôi (đă hai lần làm Thủ tướng). Cụ Phan ngỏ ư cầu viện nhưng bị từ
chối.
Cường Để sang Nhật năm 1906. Chương tŕnh du học Nhật Bản được Nguyễn
Hải Thần tích cực giúp đỡ. Về sau han Bội Châu và Phan Chu Trinh bất
đồng ư kưến về kế hoạch cứu quốc. Phan Bội Châu chủ trương bài Pháp,
dành độc lập. Phan Chu Trinh chủ trương bài quân chủ, dựa vào Pháp để
cầu học Thái Tây, ông bỏ về nước cổ xuư cho lập trường của ḿnh.
Năm 1910, Pháp điều đ́nh với Nhật trục xuất các nhà cách mạng và du học
sinh Việt Nam. Phan Bội Châu phải chạy sang Trung Hoa, rồi bôn ba nhiều
nơi: Xiêm La, Nam Dương. Khi được tin cách mạng Trung Hoa thành công
(1911) cụ lại sang Tàu hoạt đô.ng. Năm 1912, cụ giải tán Duy Tân Hội để
lập Việt Nam Quang Phục Hội, chủ trương Dân Chủ Cộng hoà. Hội giúp đỡ du
học sinh và hô hào cách ma.ng. Năm 1913, Pháp (Toàn Quyền Sarraut) mưu
với Đô đốc Quảng Đông là Long Tế Quang bắt giam Phan Bội Châụ Cùng năm
đó, ở trong nước Hội Đồng Đề H́nh Pháp xử 14 án tử h́nh, trong đó Phan
Bội Châu và Cường Để bị tử h́nh vắng mặt. Năm 1917, Long Tế Quang bị
quân cách mạng Trung Hoa đánh thua, cụ Phan được thả ra.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) âm mưu bắt cóc Phan Bội Châu ở
Thượng Hải (Trung Hoa) giao cho Pháp. Phan Bội Châu bị Pháp kết án chung
thân khổ saị Đồng bào toàn quốc biểu t́nh đ̣i tự do cho cụ, Pháp nhượng
bộ, bắt cụ Phan an trí ở Huế. Phan Bội Châu mất năm 1940.
Phong Trào Duy Tân
Biến cố Nhật thắng Tàu năm 1894 và Nhật thắng Nga năm 1904, đă làm các
dân tộc Châu Á thức tỉnh. Ỏ Trung Hoa, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi hô
hào cải cách Duy Tân. Ỏ Việt Nam, các chí sĩ hăng hái trong phong trào
Duy Tân, đề cao dân quyền gồm có Phan Chu Trinh, Đặng Tử Kính, Trần Quư
Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế.
Năm 1906, Phan Chu Trinh sang Nhật, gặp Phan Bội Châu; Nhưng hai người
bất đồng ư kưến. Phan Chu Trinh trở về hoạt động trong nước. Năm 1908,
nhân vụ biểu t́nh yêu cầu giảm nhẹ sưu thuế của dân các tỉnh Quảng Ngăi,
Quảng Nam, Thừa Thiên, một số nhân sĩ Trung, Bắc kỳ bị bắt, trong đó có
Phan Chu Trinh. Cụ bị đầy ra đảo Côn Lôn.
Năm 1911, nhờ Hội Nhân Quyền Pháp can thiệp Phan Chu Trinh được thạ Cụ
qua Pháp, làm nghề chụp ảnh. Năm 1922, Khải Định sang Pháp, cụ gởi thơ
chỉ trích, năm 1925, cụ về nước. Năm sau, Phan Chu Trinh mất ở Sài G̣n.
Một tổ chức có ảnh hưởng rất nhiều cho công cuộc duy tân là trường Đông
Kinh Nghĩa Thục. Trường mở ở Hà Nội năm 1907, do các ông Nguyễn Quyền,
Ngô Đức Kế, Lương Ngọc Can, Dương Bá Trạc,& #272;ào Nguyên Phổ, Phan Huy
Thịnh, Hoàng Tăng Bí... đứng ra tổ chức. Trường dạy miễn phí cho các
thanh niên nam nữ cả ba thứ chữ Việt, Pháp, Hán. Việt văn, khoa học,
công nghệ thường thức được chú trọng đặc biệt. Trường cũng thường tổ
chức các buổi diễn thuyết về văn hoá, khoa học ... Trường soạn sách giáo
khoa và các bài hát khích động ḷng yêu nước, phát không cho dân chúng.
Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ hoạt động được 9 tháng th́ bịPháp bắt đóng cửa.
* Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến (con cụ Lương Ngọc Can, người sáng lập
Đông Kinh Nghĩa Thục) đă từng học trường vơ bị Chấn Vơ ở Nhật Bản, tham
dự vào đoàn quân cách mạng Trung Hoạ Bị người Anh bắt ở Hương Cảng rồi
giao cho Pháp, bị giam ở Thái Nguyên. Trong ngục ông tiếp tục cổ động ái
quốc, được nhiều người nghe theo, trong đó có Trịnh Văn Cấn là một hạ sĩ
quan cấp Đội (trung sĩ) thuộc đơn vị Khố Xanh của Pháp ở Thái Nguyên.
Lương Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn định kế hoạch khởI nghĩạ Đêm 31 tháng
8 năm 1917, Trịnh Văn Cấn nổi lên lấy danh nghĩa Quang Phục quân, mang
200 binh lấy thành Thái Nguyên. Trịnh Văn Cấn được phong làm Quang Phục
quân Đại Đô Đốc. Quân Pháp phải đem đại binh từ Hà Nội lên đánh. Quang
Phục quân giữ Thái Nguyên được 3 ngày th́ phải rút vào rừng. Lương Ngọc
Quyến, v́ bị Pháp tra tấn làm liệt chân, không theo nghĩa quân được nên
tự tử.
Trịnh Văn Cấn ẩn nấp trong vùng Tam Đảo, Yên Thế tiếp tục đánh Pháp được
vài tháng. Đến khi quân bị hao ṃn, thế lực suy tàn, Trịnh Văn Cấn tự tử
ở vùng núi Phú Tho..
* Việc Ném Tạc Đạn ở Sa Điện, Quảng Châu
Năm 1923, viên toàn quyền Đông Dương là Martial Merlin trên đường từ
Nhật trở lại Việt Nam, ghé tớI Sa Điện, Quảng Châu (Trung Quốc) để dự
bữa tiệc do Pháp kiều ở đây khoản đăi tại khách sạn Victoriạ Đương khi
ăn, tên này bị nhà ái quốc Phạm Hồng Thái ném tạc đạn, nhưng hắn thoát
chết. Bị thất bại, Phạm Hồng Thái nhẩy xuống sông tự trầm.
* Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Phan Bội Châu bị bắt năm 1925 và Phan Chu Trinh chết năm 1926 đă gây ảnh
hưởng mạnh mẽ trong dân chúng, nhất là tầng lớp thanh niên trí thức.
Năm 1927, một đảng chính trị cách mạng đầu tiên ra đời do Nguyễn Thái
Học lănh đạo. Nguyễn Thái Học đă từng tranh đấu ôn hoà với Pháp nhưng
không có kết quả, nên ông chủ trương dùng vơ lực. V́ thế, Việt Nam Quốc
Dân Đảng được thành lập, với mục đích giành độc lập cho đất nước. Năm
1930, Việt Nam Quốc Dân Đảng định kế hoạch khởi nghĩa chiếm lại Bắc kỳ.
Nguyễn Thái Học ra lệnh tổng khởi nghĩa vào ngày 10 2 1930, nhưng lệnh
không tới kư.p các địa phương, nên cuộc khởi nghĩa không đúng ngày đă
hoạch đi.nh.
Đêm ngày mồng 9 rạng ngày mồng 10 tháng 2 năm 1930, chi bộ Yên Báy khởi
công đánh các trại lưnh Pháp, giết được nhiều đi.ch. Đến sáng ngày hôm
sau, quân Pháp phản công kư.ch liệt, nghĩa quân bị tan ră.
Đêm mồng 9 tháng 2, Nguyễn Khắc Nhu đánh Hưng Hoá và Lâm Thao bị Pháp
phản công mạnh, quân cách mạng thua, Nguyễn Khắc Nhu tự tử.
Đêm mồng 10 tháng 2, Đoàn Trần Nghiệp (Kí Con) chỉ huy đánh Hà Nộị
Đào Văn Thế chỉ huy mặt trận Thái B́nh chiếm được huyện Phủ Dực.
Đêm 15 rạng ngày 16 tháng 2, Trần Quang Diệu chỉ huy mặt trận Hải Dương
chiếm huyện Vĩnh Bảọ
Nguyễn Thái Học chỉ huy đánh đồn Phả Lại.
Pháp dùng toàn lực không quân và bộ binh phản công, ném bom tiêu diệt
làng Cổ Am nơi có nhiều quân cách ma.ng. Ỏ khắp nơi, nghĩa quân đều bị
thất bạị Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Hải Dương) ngày 20 tháng
2. Ngày 17 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thái Học và 12 nhà cách mạng Việt
Nam Quốc Dân Đảng bị Pháp chém tại Yên Bái.
* Cuộc Khởi Nghĩa Lạng Sơn
Trong đại chiến thứ hai (1939 1945) Pháp đầu hàng Đức. Nhật cùng phe với
Đức, đánh chiếm Trung Hoa rồi tràn qua biên giới Việt Hoa ngày 22 8
1940. Nhân cơ hội đó, Trần Trung Lập và Đoàn Kiểm Điểm chỉ huy đoàn quân
Việt Nam Phục Quốc Hội nổi lên đánh quân Pháp ở Lạng Sơn và vùng lân
cận.
Nhưng về sau có sự thoả hiệp giữa Nhật và Pháp, quân phục quốc bị Nhật
bỏ rơi, nên đă bị Pháp đánh thua. Trần Trung Lập bị bắt, Đoàn Kiểm Điểm
tử trận.
* Các Đảng Phái, Tổ Chức Chính Trị Khác
Ngoài các tổ chức kháng Pháp kể trên, người Việt c̣n thành lập nhiều
đảng phái, tổ chức chính trị khác để tranh đấụ
- 1923, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long lập đảng Lập Hiến với chủ
trương ôn hoà và bảo thủ.
- 1930, Phạm Quỳnh tranh đấu ôn hoà. Kết quả, được Pháp mời làm thượng
thự
- 1925, Lê Văn Huân lập đảng Phục Việt, sau đổi tên là Tân Việt Cách
Mạng Đảng. Hoạt động tích cực chống Pháp, bị Pháp và Cộng Sản tiêu diệt.
- 1927, Nguyễn An Ninh tổ chức đảng bí mật ở Hóc môn có khuynh hướng
Cộng Sản, bị Pháp bắt đầy ra Côn Lôn.
- 1932, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch lập đảng, theo khuynh hướng Đệ Tứ
Quốc Tế (Cộng Sản Đệ Tứ) hoạt động ở Sài G̣n.
- 1937, Nguyễn Văn Thinh thành lập phong trào Dân Chủ ở Nam kỳ.
- Lư Đông A thành lập đảng Đại Việt Duy Dân, có lư thuyết vững chắc
nhưng tầm mức hoạt động hạn hẹp.
- 1940, Nguyễn Tường Tam thành lập Đại Việt Dân Chính, (sau đổi tên là
Đại Việt Quốc Xă) dựa vào thế lực Nhật Bản để chống Pháp, nhưng sau bị
Nhật bỏ rơị Pháp thẳng tay đàn áp, một số đảng viên bị bắt, Nguyễn Tường
Tam trốn sang Tàụ
- 1941, Trương Tử Anh thành lập đảng Đại Việt Quốc Dân. Bị Pháp đàn áp,
đảng bị suy sụp.
- 1943 1944, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Vũ Đ́nh Di lập Việt Nam Ái Quốc
Đảng.
- Vũ Đ́nh Hoè, Dương Đức Hiền lập Dân Chủ Đảng.
- 1945, Nhượng Tống, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Tiếu thành lập Đại Việt
Quốc Gia Lyên Minh (gồm Việt nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Xă và các
đảng phái quốc gia khác).
Hầu hết đảng phái quốc gia không có nguyên lư hành động độc lập. Nhất là
sinh hoạt chính trị chỉ lẩn quẩn ở trong tầng lớp xa rời quần chúng.
Vào thời Việt Pháp chiến tranh, thói thường các nhà cách mạng Việt Nam
mỗi khi bị truy lùng thường trốn sang Trung Hoa, nương náu ở vùng Hoa
Nam giáp giới với nước Việt, như Quảng Châu, Nam Ninh, Vân Nam ... Trong
thời gian Đại Chiến thứ hai, ở vùng này có người của các đảng: Phục
Quốc, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Dân Chính, Đại Việt Quốc Dân, Đại
Việt Duy Dân v.v. cùng các lănh tụ có uy tín như: Nguyễn Hải Thần,
Trương Bội Công, Lư Đông A ... Lúc đó chính phủ Trung Hoa có ư dung túng
những nhà cách mạng Việt Nam v́ muốn lợi dụng họ vào việc đối phó với
Pháp về vấn đề quyền lợi ở Việt Nam. Người cầm quyền ở Quảng Đông là
Trương Phát Khuê và Tiêu Văn được lệnh tập họp các nhà cách mạng Việt
Nam vào một mặt trận duy nhất.
Tháng 10 năm 1942 họp đại hội ở Lyễu Châu (Đông Dương Cộng Sản Đảng
không được mời). Đại diện các đảng cách mạng đồng ư cùng gia nhập vào
một mặt trận gọi là Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Nguyễn Hải Thần
được cử làm Chủ ti.ch. Nhưng v́ bất đồng ư kưến, không thành lập nổi Ban
Quản Trị Trung Ương.
Tháng 3 năm 1944, đại hội lần thứ hai được thiết lập ở Liễu Châụ Lần này
đại hội thoả thuận lập chính phủ Cộng Hoà Việt Nam Lâm Thờị Trương Bội
Công được cử làm Chủ tịch và các uỷ viên gồm có Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng
Khanh, Tùng Sơn, Nghiêm Kế Tổ, Bồ Xuân Luật, Hồ Chí Minh. Chủ trương
đánh Phát xít Nhật và Thực dân Pháp để thâu hồi độc lập cho Việt Nam.
Chính phủ lâm thời c̣n đang dùng dằng bàn kế hoạch, chưa quyết định hành
động th́ Hồ Chí Minh đă lợi dụng chiêu bài quốc gia đó tức tốc về Việt
Nam vận động cướp chính quyền Trần Trọng Kim ngày 25 tháng 8 năm 1945.
C̣n Tiếp
Phạm Quân Khanh
|