| |
|
-
LỊCH SỬ VIỆT
NAM KHỞI SỰ TỪ GẦN 3000 NĂM TCN
- ĐĂ ĐƯỢC XÁC
MINH QUA TÁC PHẨM
-
CỘI NGUỒN VIỆT TỘC CỦA PHẠM TRẦN
ANH
-
- Thanh Văn
-
Đă
từ lâu tôi thường thắc mắc về một chi tiết trong cổ sử của Việt Nam về
giai đoạn các vua Hùng dựng nước. Theo truyền thuyết Việt tộc là hậu duệ
của Viêm Đế Thần Nông, cháu ba đời của Viêm Đế là Đế Minh, sinh ra Đế
Nghi. Đế Minh đi xuống phương Nam tuần tra, đến vùng Ngũ Lĩnh, nằm vế
phương Nam nước Trung Hoa, kết hôn cùng tiên nữ, sinh ra Lộc Tục, là
người có thánh đức. Đế Minh muốn truyền ngôi vua cho, nhưng Lôc Tục lại
nhường cho anh, nên Đế Minh để cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương
Bắc (tức là nước Trung Hoa, phía Bắc sông Hoàng hà). Cho con thứ là Lộc
Tục làm vua phương Nam. Lúc đó là vào năm Nhâm Tuất (2879TCN). Lộc Tục
xưng đế hiệu là Kinh Dương Vương, lấy họ là Hồng Bàng và đặt tên nước là
Xích Qũy. Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long Nữ, sinh
ra Sùng Lăm. Sùng Lăm kế nghiệp cha lên làm vua xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ. Sinh được trăm trứng và
trăm trứng đó nở ra trăm người con trai. Đây là tổ của bách Việt. Một
hôm Lạc Long Quân bảo nàng Âu Cơ rằng ta vốn là giống Rồng, nàng là
giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó. Nên sau đó hai người
chia tay nhau mỗi người dẫn theo 50 người con. Cha dẫn 50 con xuống phía
biển, mẹ dẫn 50 con về núi. Lạc Long Quân phong cho người con trưởng (không
rơ tên húy) lên nối ngôi, xưng là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang
v..v.. Hùng Vương truyền được 18 đời, tất cả đều lấy hiệu là Hùng Vương,
cho đến năm Qúy Măo (258TCN) th́ nước Văn Lang của vua Hùng bị vua nước
Thục la Thục Phán chiếm được. Thục Phán lên ngôi xưng la An Dương Vương
và đổi quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê và xây Loa Thành theo
h́nh trôn ốc. Tính từ năm 2879TCN đến năm
258TCN cả thẩy
là 2622 năm. Chi tiết này không những riêng cá nhân tôi thắc mắc
v́ tính từ Kinh Dương Vương đến vua Hùng thứ 18 có 20 đời vua mà thời
gian trị v́ những hơn 2600 năm th́ thật là một điều khó tin. Các sử gia
từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô Th́ Sĩ và gần đây Trần Trọng Kim, Phạm
Văn Sơn và mới nhất là sử gia Trần Gia Phụng. Tất cả đều không ai tin
các chi tiết về thời gian trị v́ của 20 đời vua vào thời Hồng Bàng là
đúng. Thậm chí nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn với kiến thức về sử Việt Nam khá
giới hạn, trong một video do Thúy Nga Paris sản xuất trước đây đă dám
tuyên bố rằng thời Hồng Bàng “chắc” chỉ chừng 800 năm mà thôi.
-
Đề
tài nghiên cứu về Việt tộc không phải chỉ là đề tài dành riêng cho các
sử gia. Các nhà nghiên cứu về văn hoá như giáo sư Nguyễn Xuân Khoan, tức
nhà báo Thiện Nhân Chủ bút Tập San TV-Victoria hiện sống và làm việc ở
thành phố Melbourne Tiểu bang Victoria của Úc, nhà nghiên cứu văn hóa
Cung Đ́nh Thanh, người chủ trương tủ sách Việt học và tập san Tư Tưởng ở
Úc, hiện sống tại Sydney cũng thường chú ư. Nhà nghiên cứu Nguyên Nguyên
cũng sống ở Úc, và c̣n nhiều nhà nghiên cứu khác ở Pháp, Mỹ và Canada và
nhất là ngay trong nước Việt Nam cũng đều chú ư.
-
Nay
đọc trong tác phẩm Cội Nguồn Việt Tộc
của Phạm Trần Anh do Trần
Thục Vũ và Phạm Trần Hào xuất bản ở California Hoa Kỳ năm 2004. thắc mắc
trên của tôi đă được giải toả. Lư luận và dẫn chứng của Phạm Trần Anh
đầy tính thuyết phục và hợp lư khiến sau khi đọc xong phần tŕnh bầy về
chi tiết này trong tác phẩm ghi trên tôi tự cảm thấy nhẹ nhơm v́ bao lâu
nay vẫn ấm ức về chi tiết “khó tin” trong truyền thuyết về giai đoạn
dưng nước của các vua Hùng.
-
Bây giờ xin sơ
lươc tŕnh bầy về tác phẩm của Phạm Trân Anh trước sau đó sẽ viết rơ hơn
về chi tiết nêu trên.
-
Trước hết xin
có vài ḍng sơ lươc về tác gỉa: Phạm Trần Anh, là một cựu sinh viên Học
Viện Quốc Gia Hành Chánh, tốt nghiệp ban Đốc Sự khóa 15, ra trường năm
1971. Sau năm 1975 khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn lọt vào tay Cộng Sản
Bắc Việt. Đầu thập niên 1980, Phạm Trần Anh bị CSVN bắt cùng 23 phục
quốc quân cùng nhóm của anh rồi bị CSVN kết án tử h́nh. Chúng thù ghét
anh đến độ không đem bắn ngay mà nhiều lần đem “bắn giả” bằng cách đem
cột anh vào cọc hành h́nh và cho lính cầm súng chỉ bắn sát bên tai để hù
cho Anh sợ mà chết. Nhưng người tử tù này vẫn hiên ngang chống lại những
hành hạ của quân thù. Anh cũng đă bị chúng kiên giam nhiều năm và rồi do
áp lực của nhiều tổ chức ở hải ngoại chúng giảm án cho anh thành chung
thân khổ sai rồi sau cùng đến năm 1999 th́ chúng thả cho anh về sống tại
Saigon.
- Tác phẩm ghi trên đầu bài viết này của
anh đă được anh thai nghén ngay từ thời gian c̣n ở trong các trại tù của
CSVN và đến năm 2001 anh gửi bản thảo cho người bạn tù của anh là Trần
Thục Vũ đă đi định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1999. Với sự góp công của một số
thân hữu cựu SV/HV/QGHC và bạn bè của Trần Thục Vũ tác phẩm của Phạm
Trần Anh đă xuất hiện tại Nam Cali vào cuối năm 2004.
-
Cội Nguồn Việt Tộc là cuốn sách dầy 388 trang, in trên giấy trắng
mịn, b́a in mầu đen, chính giữa là một h́nh vuông mầu vàng bên trong có
h́nh mặt trống dồng Ngọc Lũ với hai mầu đỏ và vàng. Tên Sách in trên đầu
trang b́a và tên tác gỉa in khá nhỏ ngay dưới ô vuông mầu vàng có h́nh
mặt trống đồng. Dưới cùng là mấy chữ Việt Nam 2004. B́a sau có in h́nh
Phạm Trần Anh chụp chung với Trần Thục Vũ năm 1999 khi hai người mới
được CSVN thả ra khỏi nhà tù của chúng. Một số lời giới thiệu đặc biệt
về Phạm Trần Anh cùng 4 câu thơ của Trần Thục Vũ:
-
Anh đứng thẳng trên đôi chân bất khuất,
-
Ḷng thản nhiên anh đón đợi gông xiềng.
-
Anh ngẩng nặt dọc vang lời thơ thép,
-
Trong u tỳ lửa ấm vẫn bùng lên.
-
Thơ, h́nh và
những ḍng chữ giới thiệu tất cả đều mầu trắng trên nền b́a đen và chót
hết là h́nh thu nhỏ của mặt trốngđồng Ngọc Lũ nơi góc trái dưới cùng của
b́a sau.
-
Về
nội dung, sau các phần Giới thiệu dẫn nhập dưới h́nh thức một lá thư của
Trần Thục Vũ gửi Phạm Trần Anh, phần giới thiệu tác phẩm của Trần Công
Hàm cựu sinh viên tốt nghiệp khóa 8 ban Đốc Sự HV/QGHC, tức nhà văn Anh
Thái Phượng, phần dẫn luận của nhà văn Hải Triều (hiện sống ở Canada) là
12 chương sách gồm :
-
1/
Huyền thoại Rồng tiên.
-
2/
Thời đại Hùng Vương.
-
3/
Quốc gia Văn Lang.
-
4/
Hiện thực lịch sử của quốc gia Văn Lang.
-
5/
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
-
6/
Nguồn gốc tiếng Việt cổ.
-
7/
Nguồn gốc Việt tộc.
-
8/
Nguồn gốc dân tộc trong thư tịch cổ.
-
9/
Chủng tính Malaynesien của Việt tộc.
-
10/
Từ Malaynesien của Bách Việt.
-
11/
Đồng bào thiểu số của Việt tộc.
-
12/
Nguồn gốc Bách Việt của thổ dân châu Mỹ-Úc.
-
Chót hến là bài
sử thi :”Rồng Tiên truyền thuyết sử thi” của Phạm Trần Anh.
-
Trong sách cũng
có in vài bản đồ Trung Quốc thời cổ đại và một số h́nh chụp các cổ tự
của Việt tộc, cả sơ đồ thành Cổ loa ở cuối sách.
-
Xuyên suốt 12
chương sách tác giả đă dẫn giải và minh chứng cho người đọc thấy rằng
Việt tộc là một dân tộc xuất phát từ các hải đảo thuộc Châu Đại Dương ở
phương Nam theo thời gian di chuyển dần lên phía Bắc, lập nghiệp ở phía
Nam sông Hoàng Hà bên Tầu. Sau đó bị người Hán tộc dịnh cư ở phía Bắc
sông Hoàng Hà đánh đuổi phải di chuyển dần xuống phía Nam.
-
Bằng những dẫn
chứng về các khoa khảo cổ học, ngôn ngữ học, khoa khảo tiển sử học với
các dẫn chứng bằng các tài liệu của viện Viễn Đông Bác Cổ, các khảo cứu
của các nhà bác học như G. Coedès, nguyên Viện Trưởng Viễn Đông Bác Cổ
(1962). Valois và G. Olivier. Các tài liệu của các học gỉa như Nguyễn
Hiến Lê, nhà khảo cứu ngôn ngữ B́nh Nguyên Lộc. Các nhà khảo cổ học
Nguyễn Đ́nh Khoa và Nguyễn Lân Cường (hiện ở trong nước) và nhiều nhà
bác học và khảo cứu Trung Hoa và các quốc gia khác. Rồi với kết quả khảo
cứu của các nhà khảo cổ học bằng phương pháp dùng Carbon C14 cũng như
phương pháp đo chỉ số sọ của Việt tộc so sánh với Hán Tộc và các chủng
tộc khác, Phạm Trần Anh đă chứng minh được rơ ràng nguồn gốc Việt tộc là
chủng tộc lâu đời nhất xuất hiện ở vùng đất phía Nam Trung Hoa (phiá Nam
sông Hoàng Hà và sau cùng do sự tấn công và lấn chiếm của Hán tộc, một
tộc du mục xuất phát từ các vùng phía Bắc sông Hoàng hà, đă phải lui dần
vế phương Nam và định cư tại châu thổ Bắc Việt ngày nay). Nguồn gốc của
Việt tộc rơ ràng hoàn toàn khác hẳn Hán tộc là sắc dân du mục từ phương
Bắc tràn xuống xây dựng nên nuớc Trung Hoa ngày nay. Việt tộc cũng là
một sắc dân có ngôn ngữ, chữ viết từ thời cổ đại, có một nền văn minh
khá cao, có một nền nông nghiệp trồng lúa nước rất sớm và văn minh, đă
để lại các di sản như trống đồng, thuyền mũi cong, các nông cụ như lưỡi
cầy bằng đồng v..v..
-
Về phần in ấn
tác phẩm, có lẽ do gấp gáp những người phụ trách đă không thể sửa chữa
những lỗi lầm quá nhiều về “dả tự” rải rác hàng mấy chục lỗi trong cuốn
sách. Một sơ xuất khá quan trọng mà tôi ghi nhận được là người phụ trách
“biên tập”(tức là đánh máy và tŕnh bầy) dường như không biết phân biệt
phần chính văn và các phần giải thích của tác giả nên rất nhiều đoạn đă
in liền tù t́ các lời giải thích, chú thích với phần chính văn của tác
gỉa. Sự kiện này khiến người đọc rất là mệt óc v́ phải đọc đi đoc lại
nhiều lần một đoạn để phân biệt được khúc nào là chính văn, khúc nào là
những lời chú thích, giải thích của tác gỉa; hơn nữa đây là một tác phẩm
về mặt biên khảo rất công phu nên nó thuộc loại đă được viện dẫn những
khảo cứu và phát kiến của nhiều nhà khoa học và nghiên cứu khắp nơi liên
quan đến vấn đề mà tác giả muốn tŕnh bầy nên nó rất là khô khan và nặng
phần chuyên môn khiến người đọc nào không phải là người cố t́m hiểu và
thích thú với vấn đề khảo cứu như đề tài mà tác giả nêu ra sẽ cảm thấy
rất khó “nuốt” hết cuốn sách một cách thoải mái.
-
Bây giờ xin đề
cập đến chi tiết mà tôi cho là lư thú nhất là việc Phạm Trần Anh đă
chứng minh được giai đoạn hơn 2600 năm của thời Hồng Bàng là “chính xác”
và ĐÚNG:
-
Bàn về thời
Hồng Bàng Phạm Trần Anh cho rằng các sử gia Hán tộc với quan niệm “Đại
thống nhất”, tự cho ḿnh là trung tâm của thế giới, cái rốn của nhân
loại, Hán tộc là tộc ưu việt, nên trong kinh thi có câu :”Huệ thử Trung
Quốc, dĩ tuy tứ phương”. Đó là chủ trương bành trướng của Hán tộc ”dĩ hạ
biến di”, nghĩa là lấy cái cao thượng của Đại Hán để cải hoá man di.
Chính v́ vậy họ miệt thị các dân tộc khác, chủ trương tiêu diệt văn tự
của các dân tộc khác. Âm mưu nô dịch văn hoá rồi tiến tới đồng hoá. Lợi
dụng Hán tự là loại văn tự duy nhất của Hán tộc, các sử gia Trung Quốc
từ cổ đại đến nay, thường t́m cách xuyên tạc, bóp méo sự thật, sửa đổi
lịch sử của các dân tộc bị Hán tộc đàn áp hoặc đô hộ cho phù hợp với sử
quan Đại Hán, mục đích để đánh đổ ḷng tự hào của các dân tộc khác cho
dễ bề đồng hoá và thống trị.
-
Theo Nguyễn
Khắc Thuần th́ tài liệu mang tên “Hùng Triều Ngọc Phả” cho biết họ Hồng
Bàng truyền được 18 đời gồm :
-
1-
Hùng Vương tức Lộc
Tục.
-
2-
Hùng Hiền tức Sùng
Lăm.
-
3-
HÙng Lân.
-
4-
Hùng Việp.
-
5-
Hùng Hy.
-
6-
Hùng Huy.
-
7-
Hùng Chiêu.
-
8-
Hùng Vĩ.
-
9-
Hùng Định.
-
10-
Hùng Hy (chữ Hy này
viết khác với chữ Hy ở đời thứ 5).
-
11-
Hùng Trinh.
-
12-
Hùng Vơ.
-
13-
Hùng Việt.
-
14-
Hùng Anh.
-
15-
Hùng Triều.
-
16-
Hùng Tạo.
-
17-
Hùng Nghị.
-
18-
Hùng Duệ.
-
Từ trước đến
nay “chúng ta” thường nghĩ rằng “đời” vua Hùng là giai đoạn sinh
sống của một vị vua thuộc họ Hồng Bàng, cho nên với 18
đời vua mà
thời gian kéo dài đến 2622 năm th́ có vẻ rất vô lư.
-
Gần đây công
tŕnh nghiên cứu của Trần Huy Bá về Hùng Vương và sự tích “Hùng Triều
Ngọc Phả” do Nguyễn Như Đỗ sống vào thời nhà Lê ghi rơ ràng như
sau:”Thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm gồm 47 đời vua”. Theo
Hùng Vương Ngọc Phả th́ chữ Đời vua
dùng trong tài liệu này phải
hiểu là chữ “thế” trong Hán tự không phải là một đời người mà là “một ḍng gồm nhiều
đời”. Riêng thế (hay đời) tức là chi Hùng Vương thứ 18, chi cuối cùng
của thời đại Hùng Vương đă gồm 3 đời vua trị v́ suốt
150 năm (?).
Hiện nay ở Đ́nh Tây Đằng, huyện Ba V́, tỉnh Vĩnh Phú, c̣n bài vị “Tam Vị
Quốc Chúa”. thờ 3 vị vua cuối cùng thuộc thế (tức đời hay chi) Hùng
Vương thứ 18 này. Thế này chấm dứt vào năm 258TCN, tức là vào cuối đời
nhà Chu bên Tầu.
-
Theo sự tích
Ngọc Phả th́ mỗi ḍng vua được gọi là một “CHI”. Mỗi chi gồm nhiều đời
vua và được xếp theo thứ tự bát quái và thập can như sau:
-
Càn, Khảm, Chấn
Cấn, Khốn Ly, Khôn, Đoài và Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỳ, Canh,Tân,
Nhâm, Qúy. Cũng theo sự tích Ngọc Phả này th́ thời Hùng Vương gồm cả
thảy 47 đời vua theo thứ tự như sau:
-
1/ Chi Càn:
Kinh Dương Vương.
-
Đại Việt Sử Kư
Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép như sau:”Kinh Dương Vương là vị vua đầu
tiên của nước Đại Việt ta, cùng với Đế Nghi ở phương Bắc lên ngôi năm
2879TCN”. Kinh Dương Vương húy là Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919TCN),
lên ngôi năm 41 tuổi, trị v́ 86 năm từ năm Nhâm Tuất (2879TCN) đến năm
Đinh Hợi (2794TCN).
-
2/ Chi Khảm:
Lạc Long Quân.
-
Lạc Long Quân
húy Sùng Lăm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Th́n (2825TCN), lên
ngôi năm 33 tuổi. Chi này kéo dài 269 năm, từ năm Mậu Tư (2793TCN) đến
năm Bính Th́n (2525TCN). Thời kỳ này được truyện cổ tích về họ Hồng Bàng
Truyền Kỳ gọi là huyền sử Rồng Tiên. Tài liệu không ghi rơ là có mấy đời
vua của chi này.
-
3/ Chi Cấn:
Hùng Quốc Vương.
-
Hùng Quốc Vương
húy Hùng Lân, thế này trị v́ từ năm Đinh Tỵ (2524TCN) đến năm Bính Tuất
(2253TCN), kéo dài 271 năm. Thời kỳ này chính là thời kỳ ở bên Tầu Hoàng
Đế diệt Xuy Vưu, Du Vơng mà cổ sử của Trung Hoa cho là khởi nguyên của
dân tộc Hán. Tài liệu không ghi rơ là có mấy vị vua trong chi này.
-
4/ Chi Chấn:
Hùng Hoa Vương.
-
Hùng Hoa Vương
tức Hùng Bửu Lang. Lên ngôi năm Đinh Hợi (2254TCN) chi này trị v́ suốt
342 năm, tức là đến năm 1712TCN, tài liệu cũng không ghi rơ gồm mấy vị
vua.
-
5/ Chi Tốn:
Hùng Huy Vương húy Bảo Lang sinh năm 2030TCN, lên ngôi năm 59 tuổi. Chi
này kéo dài 200 năm tới năm 1771TCN. Không ghi rơ có mấy vị vua của chi
này.
-
6/ Chi Ly:
Hùng Hồn Vương.
-
Hùng Hồn Vương
húy Long Tiên Lang, sinh năm 1740TCN, chi này gồm 2 đời vua kéo dài 81
năm đến năm 1690TCN.
-
7/ Chi Khôn:
Hùng Chiêu Vương.
-
Hùng Chiêu
Vương húy Quốc Lang, sinh năm 1502TCN, lên ngôi năm 12 tuổi. Chi này gồm
5 đời vua kéo dài 200 năm từ năm 1690TCN đến năm 1490TCN.
-
8/ Chi Đoài:
Hùng Vĩ Vương.
-
Hùng Vĩ Vương
húy Văn Lang, sinh năm 1466TCN, lên ngôi năm 31 tuổi. Chi này gồm 5 đời
vua cả thảy là 100 năm, từ năm 1435TCN đến năm 1335TCN.
-
9/ Chi Giáp:
Hùng Định Vương.
-
Hùng Định Vương
húy Chân Nhân Lang, sinh năm 1381TCN, lên ngôi năm 45 tuổi. Chi này gồm
3 đời vua kéo dài được 80 năm từ năm 1336TCN đến năm 1256TCN.
-
10/ Chi Ất:Hùng
Uy Vương.
-
Hùng Uy Vương
húy Hoàng Long Lang, sinh năm 1294TCN, lên ngôi năm 37 tuổi, chi này
gồm 3 đời vua kéo dài được 90 năm, từ năm 1257TCN đến năm 1167TCN.
-
11/ Chi
Bính: Hùng Trinh Vương.
-
Hùng Trinh
Vương húy Hưng Đức Lang, sinh năm 1218TCN, lên ngôi năm 51 tuổi. Chi này
gồm 4 đời vua kéo dài 107 năm, từ năm 1168TCN dến năm 1061TCN.
-
12/
Chi Đinh: Hùng Vũ Vương.
-
Hùng Vũ Vương
húy Đức Hiền Lang, sinh năm 1114TCN, lên ngôi năm 52 tuổi, chi này có 3
đời vua, kéo dài 96 năm từ năm 1062TCN đến năm 966TCN.
-
13/ Chi Mậu:
Hùng Việt Vương.
-
Hùng Việt Vương
húy Tuấn Lang, sinh năm 990TCN, lên ngôi năm 23 tuổi, chi này có 5 đời
vua kéo dài 105 năm từ năm 967TCN đến năm 862TCN.
-
14/ Chi Kỷ:
Hùng Anh Vương.
-
Hùng Anh Vương
húy Viên Lang, sinh năm 905TCN, lên ngôi năm 42 tuổi, chi này có 4 đời
vua kéo dài từ năm 863TCN đến năm 779TCN tức là 89 năm.
-
15/ Chi
Canh: Hùng Triệu Vương.
-
Hùng Triệu
Vương húy Chiêu Lang, sinh năm 745TCN, lên ngôi năm 35 tuổi, chi này gồm
3 đời vua kéo dài từ năm 780TCN đến năm 686TCN tức là được 94 năm.
-
16/
Chi Tân: Hùng Tạo Vương.
-
Hùng Tạo Vương húy Đúc Quân Lang, sinh năm 740TCN lên ngôi năm 53 tuổi,
chi này có 3 đời vua kéo dài từ năm 687TCN đến năm 595TCN, tức là được
92 năm
-
17/ Chi
Nhâm: Hùng Nghi Vương.
-
Hùng Nghi Vương
húy Bảo Quang Lang, sinh năm 605TCN, lên ngôi năm 9 tuổi, chi này có 4
đời vua kéo dài từ năm 596TCN đến năm 336TCN tức là được 160 năm.
-
18/ Chi Qúy:
Hùng Duệ Vương.
-
Hùng Duệ Vương
húy Huệ Vương, sinh năm 350TCN lên ngôi năm 14 tuổi, chi này có 3 đời
vua kéo dài từ năm 337TCN đến năm 258TCN tức là được 79 năm.(Không phải
150 năm)
-
Theo sự tính
toán của người viết bài này th́ chi cuối cùng này chi kéo dài 79 năm chứ
không phải 150 năm và các chi từ chi Khôn tức là từ chi thứ 7 của thời
Hùng Vương cho đến hết chi cuối cùng thứ 18, năm sinh và theo như sách
của Pham Trần Anh ghi năm lên ngôi tính ra không phù hợp. Do đó trong
bài viết này tôi đă ghi lại cho đúng. Tôi không rơ là tài liệu “Hùng
Triều Ngọc Phả” mà Trần Huy Bá có được có ghi rơ ràng năm các vị vua đầu
các chi lên ngôi hay không, và có ghi khi lên ngôi đă bao nhiêu tuổi như
Pham Trần Anh ghi trong sách của anh hay không. Tôi đoán rằng có thể có,
nhưng ghi theo âm lịch tức là tên năm chỉ gồm hai chữ, một của “thập
can” và một của “thập nhị chi”, do đó đă khiến xảy ra sự kiện tính ra
năm theo Tây Lịch không chính xác.
-
Dù sao đây là
một phát giác vô cùng quan trọng đă giải toả được khúc mắc về sự
kiện 18 “đời” vua Hùng mà chiếm đến 2622 năm như từ lâu nay các sử gia
vẫn đổ cho truyền thuyết để “tạm” chấp nhận sự kiện “vô lư” này.
-
Sau hết tôi
nghĩ rằng tác phẩm của Phạm Trần Anh là một tác phẩm sưu khảo rất có giá
trị không những vế mặt lịch sử và văn hóa, mà c̣n là một tài liệu vô
cùng qúy gía để chứng minh nguồn gốc của Việt tộc. Tuy nhiên do có quá
nhiều sơ xuất về mặt tŕnh bầy của cuốn sách cũng như những sai sót về
thời gian ghi trên, thiết tưởng có hai sự kiện cần được các nhà nghiên
cứu và thưc hiên nhất là tác gỉa cần làm là:
-
1/ T́m cách xác
nhân về thời gian trị v́ và lên ngôi của các vua Hùng, cũng như t́m thêm
tài liệu để xác minh những thiếu xót về các chi không rơ có bao nhiêu
đời vua.
-
2/ Tác phẩm cần
được in lại với công tác “biên tập” kỹ lưỡng hơn để xứng đáng với một
công tŕnh biên khảo công phu của tác gỉa.
- Thanh Văn
|
|