| |
|
Lưu Bang – Lư Bôn – Triệu Đà
4 quận cực Nam nhà Tần
-
Nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu đặt dấu hỏi:
Câu đầu tiên của Truyện Nam Chiếu khẳng định: “Người Nam Chiếu là
con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”. Câu khẳng định này đúng là đánh đố
người đọc ngày nay. Nam Chiếu được coi là quốc gia của người Di Bạch
vùng Vân Nam, sao lại là con cháu Triệu Đà được?.
-
Nước Nam Việt của Triệu Đà đô ở Phiên Ngung theo sự
hiểu biết hiện có th́ con cháu nhà Triệu phải là người Tày Thái Nùng
mới đúng …sao có thể là người Di Bạch ? hay là có 1 nước Nam Chiếu
khác ?
-
Từ Chiếu – Triệu thực ra là từ kư âm Hán tự của chủ –
chúa Việt ngữ; Nam Chiếu đồng nghĩa với Nam đế , nước Nam Chiếu hay
Nam chúa chỉ nghĩa là nước của chúa phương Nam như thế có thể có
nhiều nước ‘Nam chúa’ không phải duy nhất là nước của tộc Di – Bạch
do B́ La Cáp kiến lập ở Vân nam thời trung cổ.
Từ ch́a khoá …. ‘người Di Bạch ở Vân Nam…’ ta mở cửa vào sử họ Hùng.
-
Sử Trung hoa chép:
Lưu Bang người đất Phong thuộc ḍng dơi đế Nghiêu , thời Tần làm
đ́nh trưởng ở Tứ thượng , nhân việc ông bị huyện trưởng đất Bái giao
cho dẫn phu đi lao dịch xây dựng cung thất cho vua Tần ở Ly sơn đă
thả hết đám phu phen này và từ đó Lưu Bang cùng những người theo ông
lẩn trốn trên núi Mang Đăng gần đất Bái sống cuộc sống ngoài ṿng
pháp luật.
-
Phân tích đoạn sử trên theo chiều hướng mới của Sử
thuyết Hùng Việt:
Đất Phong là đất cố cựu của người họ Hùng từ khi lập quốc …vua Hùng
đóng đô ở Phong châu …, bà Trưng quê ở châu Phong …, phong ở đây là
gió tượng của quẻ Tốn trấn phía tây trong đồ h́nh Tiên thiên bát
quái , trên thực địa đă xác định trong sử thuyết Hùng Việt Phong
châu là vùng núi Tản sông Đà.(tản ↔ tốn=phong – gió).
Đế Nghiêu – ông Giao Thường – Đường vương chính là ông tổ của nhánh
người họ Hùng ở miền Bắc Việt nam ngày nay nên đương nhiên là tổ của
ḍng tộc Lưu Bang đất Phong.
-
Lưu Bang người đất Phong nhưng khởi nghiệp ở núi
Muang Đăng đất Bái; Muang đích thị là từ Mường , ngày nay người tây
phương vẫn kư âm Latinh y như thế , Bái là biến âm của Bạch – Bộc
tên 1 tộc người , khoa học ngày nay gọi là tập đoàn người Bách Bộc ở
Tây – Nam Trung hoa phân biệt với tập đoàn người ở vùng lănh nam –
giang Nam hoàn toàn vắng bóng cư dân ngữ hệ Tạng – Miến.
-
Vân Nam là địa bàn tập trung của người Bái – Bạch
tiếng nói thuộc ngữ hệ Tạng Miến chính là đất Bái khởi nghiệp của
Lưu Bang xưa.
-
Thông tin rất đặc biệt: Lưu Bang làm đ́nh trưởng ở Tứ
thượng …
Tứ thượng thiết Tượng; Khám phá này chỉ ra điều quan trọng … Lưu
Bang làm đ́nh trưởng ở Tượng quận; Liên kết Thông tin: đất Bái –
người Bạch và Tượng quận th́ có thể kết luận: đất Vân nam ngày nay
chính là Tượng quận xưa , (khám phá này đă bác bỏ hoàn toàn ngụy
thuyết của cả đống phù thủy Trung quốc mượn danh khoa học choTượng
quân nhà Tần là đất Nam Quảng tây và Bắc Việt nam ngày nay).
-
Tới đây th́ xem ra …vẫn chưa thể giải thích thoả đáng
cho sự việc đă nêu trong Lĩnh nam trích quái … “Người Nam Chiếu là
con cháu Vũ Đế Triệu Đà” do chưa thể xác định liên hệ giữa 2 nhân
vật Lưu Bang và Triệu Đà hay nói khác đi là khẳng định được Lưu Bang
là vua Nam Chiếu.
Xem xét 1 đoạn sử Việt:
-
Đại Việt sử kư toàn thư chép:Lư Bôn người làng Thái
B́nh, phủ Long Hưng, nay thuộc Sơn Tây (theo nhận định mới th́ quê
gốc của Lư Nam Đế thuộc địa bàn tỉnh Thái Nguyên ngày nay).
-
Nhà Lương – Hán quốc cai trị nước ta hết sức khắc
nghiệt , Mùa xuân năm 542 Lư Bí phất cờ khởi nghĩa ở Thái B́nh.
Hào kiệt nhiều nơi hưởng ứng như ở Chu Diên có Triệu Túc và Triệu
Quang Phục; tại Thanh Tŕ có Phạm Tu; ở Thái B́nh có Tinh Thiều; Lư
Phục Man ở Cổ Sở.
-
Chỉ sau 3 tháng nghĩa quân chiếm hầu hết các quận
huyện , Quân Lương đại bại thứ sử Tiêu Tư bỏ thành Long Biên chạy về
Trung Quốc , Năm 544 Lư Bí lên ngôi Hoàng Đế sử gọi là Lư Nam Đế.Đặt
tên nước là Vạn Xuân..Kinh đô ở sông Tô Lịch (Hà Nội).Niên hiệu là
Thiên Đức.
-
Sử sách chép … “Mùa xuân, tháng giêng, vua nhân thắng
giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan,
dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ư mong cho xă tắc truyền đến muôn đời
vậy.”…
Năm 545, tháng 6, nhà Lương cho Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu,
Trần Bá Tiên làm tư mă, đem quân xâm lấn, lại sai thứ sử Định Châu
là Tiêu Bột hội quân với Phiêu ở Giang Tây.
-
Năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh –
Phú Thọ, tướng Phạm Tu tử trận. Lư Nam Đế chạy vào đất người Lạo ở
Tân Xương. Sau một thời gian tập hợp và củng cố lực lượng, tháng 8,
ông đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt Trần Bá
Tiên đem quân theo ḍng nước tiến trước vào. Quân Vạn Xuân không
pḥng bị, v́ thế tan vỡ. Lư Nam Đế phải lui về động Khuất Lạo ủy
thác cho Triệu Quang Phục điều quân chống đánh với đánh Bá Tiên. Sau
Lư Nam đế mất ở động Khuất Lăo.
-
Nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu cho rằng: địa danh
Thái B́nh nơi Lư Bôn khởi nghiệp nếu dùng phép ‘phản – thiết’ Hán
văn th́: Thái B́nh phản hay đảo vị thành ra B́nh Thái và B́nh thái
thiết Bái …như thế rơ ràng Thái b́nh chỉ là địa danh đẻ ra từ tên
đất Bái mà thôi.
-
Lư Bôn người Sơn Tây; sơn Tây cũng là vùng đất nằm ở
phía Tây tức đất Phong.
Lư Bôn chạy vào đất của người …Lăo , đóng quân ở động …Khuất Lăo;
Khuất Lăo – Ngật Lăo cũng là Di Lăo – Lư Lăo tất cả là tên gọi cộng
đồng người Liêu hay Liêu tử ở Tây – Nam Trung hoa tức cùng địa bàn
cư ngụ với người Bái – Bạch.
-
Rơ hơn hết là địa danh hồ Điển Triệt nơi Lư Bôn đóng
2 vạn quân thủy. Thực ra không hề có hồ Điển triệt ở gần Hà nội,
Điển Triệt hay hồ Điển Triệt chỉ là ‘tam sao thất bản’ của Điền Tŕ
tức cái ao ở đất Điền , ngày nay chính người Trung quốc vẫn sai đậm
khi gọi là ‘hồ Điền tŕ’; 1 địa danh nổi tiếng của Vân Nam.
-
Như thế là cuộc khởi nghĩa của Lư Bôn ở Giao chỉ lại
có đủ các thông tin về đất Phong đất Bái cùng người và đất Vân Nam
giống hệt như những thông tin liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Lưu
Bang bên Tàu vậy.
-
Về thân thế …Lưu Bang c̣n gọi là Lưu Qúy v́ ông là
con trai thứ ba của Lưu Thái công; Phải chăng v́ cả cuộc đời vất vả
nam chinh bắc chiến của Lưu Bang mà dân gian Việt có từ kép “Bôn Ba”;
Bôn là Bang và Ba đích thị là Qúy …; Lưu Bang và Lư Bôn , khác nhau
chỉ v́ phương âm thực ra là 1 nhân vật lịch sử.
-
Xin lưu ư thông tin trong chính sử: Lư Bôn là vua
nước Nam Việt.
-
Câu đối ở Quán Giang (Hoài Đức – Hà Nội), nơi thờ Lư
Bôn, bắt đầu bằng: “Hồng duy Nam Việt triệu cơ…”.
Nhưng sao … Sử kư, Tư Mă Thiên lại viết: “Vua Nam Việt họ Triệu tên
là Đà, người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đă
chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm,
Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người
Việt. Như thế đă mười ba năm. Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Đà lập tức
đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận tự tôn làm “Nam Việt Vũ đế”,
đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa và nhân đó dùng uy
lực uy hiếp biên giới, đem của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu
Lạc bắt họ lệ thuộc ḿnh. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn đặm,
Đà bèn đi xe mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là “chế”,
chẳng kém ǵ Trung Quốc”.
-
Lư Bôn lập nước Nam Việt xưng là Lư Nam Đế , Nam Đế
là đồng nghĩa của Nam Chiếu cùng nghĩa là vua nước Nam Việt; Triệu
Đà – Triệu vũ đế cũng lập nước Nam Việt xưng là Nam Việt Vũ đế….lẽ
nào Lư Bôn chính là Triệu Đà và
Nam Chiếu cũng là nước của Lư Nam đế .
-
Đó chính là ư của nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu
khi viết:
… Lư Bôn là vua nước Nam Việt. Nam Việt là nước do Triệu Đà (Triệu
Vũ Đế) lập nên, đô đóng ở Phiên Ngung (Quảng Đông). Như vậy Lư Bôn
chính là Triệu Vũ Đế, là người Việt (Giao Chỉ) đầu tiên xưng đế, mở
đầu một thời đại huy hoàng của sử Việt. Lư Nam Việt Đế là cách gọi
theo kiểu sử Việt lấy họ vua và tên nước mà gọi. Triệu Vũ Đế là cách
gọi của Hoa sử theo quốc danh và miếu hiệu của vua. Tuy 2 tên nhưng
là một người.
-
Dựa trên danh xưng và sự đồng nhất về thông tin liên
quan th́ Lưu Bang trong sử Trung hoa và Lư Bôn của sử Việt chỉ là 1
nhân vật , mặt khác căn cứ vào sách sử th́ Lư Bôn và Triệu Đà cũng
là 1 nhân vật , là vua nước Nam Việt.
Nối kết 3 luồng thông tin về Lưu Bang – Lư Bôn và Triệu vũ đế người
viết xin được cùng nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu đưa ra gỉa
thuyết đột phá cho giai đoạn lịch sử nước Nam Việt đầy rắm rối và
cũng rất mù mờ.
Sau khi Lữ hậu mất, đất nước do Lư Bôn gầy dựng chia làm 2; ở thành
Phiên Ngung Lữ Gia tức nhà họ Lữ tôn con cháu Lư Bôn – Lưu Bang làm
vua lập ra 1 triều đ́nh Nam Việt khác coi như chính thức nối tiếp
triều đại do Lư Bôn – Lưu Bang kiến lập tồn tại song song với triều
đ́nh nhà Hiếu ở Trường An , như thế đây là lần đầu tiên đất nước
Trung hoa chia thành Nam và Bắc.
-
Triệu Đà – Triệu Vũ đế chỉ là tên gọi trong Việt sử
của Lư Bôn – Lưu Bang người được Lữ Gia tôn là vua tổ nước Nam Việt
đô Phiên Ngung tương tự như ông Khải tôn Đại Vũ là vua tổ nhà Hạ ,
Ninh vương tôn Văn vương là tổ nhà Châu , như thế Lư Bôn vừa là Hiếu
Cao tổ của triều Hiếu Trung hoa (sử Tàu biến thành nhà Tây Hán) vừa
là Triệu vũ đế tổ của nước Nam Việt.
-
-
Năm 111 trước công nguyên Hiếu Vũ đế đă phong Lộ bác
Đức làm phục ba tướng quân đem quân đánh diệt Nam Việt của Vệ vương
– Kiến đức và tể tướng Lữ Gia thống nhất giang sơn; quy 2 ḍng con
cháu Lư Bôn – Lưu Bang về 1 mối , mở ra trang sử hiển hách rạng ngời
của nhà Đại Hưng , Đại Hưng cùng với Đại Đường là 2 triều đại được
người Trung Hoa mặc nhiên coi là đại diện cho lịch sử dân tộc …chỉ
tiếc 1 điều rất ít người biết:
Từ Hưng chỉ là 1 vế trong cặp từ lưỡng lập theo Dịch học:
-
‘hên – sui’ , ‘hơn – thua’ , ‘hưng – suy’ …bị đám phù thủy chữ nghĩa
biến thành cặp ‘Hán – Sở’ (tranh hùng) , từ đó Hưng →Hán , nước Hưng
dân Hưng người Hưng con cháu các vua Hùng từ thời kiến lập Hữu Hùng
quốc bỗng dưng biến thành Hăn quốc – nước của Hăn , Hăn dân – dân
nước Hăn , Hăn nhân – người gọi chúa là Hăn …
-
Kết: Lư Bôn – Lưu Bang và Triệu vũ đế chỉ là 1 nhân
vật lịch sử và nước Nam chiếu chính là nước của Nam đế nên… Lĩnh nam
trích quái viết: …: “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”
-
Không biết đến bao giờ mọi người mới chấp nhận sự
thật về nước Nam Việt và vua Nam chiếu này ?.
Nguyễn Quang Nhật |
|