Gia phổ tộc Nguyễn và tộc Mạc trong mối
quan hệ hôn nhân giữa hai ḍng họ trong thế kỷ
XVI-XVII.
Quận chúa Mạc thị lâu ban đầu cùng
chị sống ẩn cư chùa Phật Lam Sơn và về sau
lấy Quốc sư Vơ Quới Công, làm việc tại phủ
Chúa, là thầy dạy các thái tử của chúa Nguyễn.
Để đáp lại mối thâm t́nh về việc Mạc Cảnh
Huống gả cháu gái cho ḿnh, chúa Săi Nguyễn
Phúc Nguyên về sau gả con gái trưởng của ḿnh
là công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Liên cho con trai
trưởng của Mạc Cảnh Huống là Mạc Cảnh Vinh (6).
Sau khi Mạc cảnh Vinh trở thành pḥ mă, chúa
Nguyễn Phúc Nguyên đă cho phép ông và các bà
Mạc Thị Giai và Mạc Thị Lâu được mang quốc
tính- họ Nguyễn. V́ vậy trong gia phả tộc
Nguyễn Phúc được ghi là Nguyễn Phúc Vinh,
Nguyễn Thị Ngọc Giai và Nguyễn Thị Ngọc Lâu
(7).
Nhân dân làng Cổ Trai, Quảng Trị đă xem ông
Mạc Cảnh Huống cùng hoàng hậu Mạc Thị Giai và
công chúa Nguyễn Thị Ngọc Liên là những ân nhân
của làng, đă có công lao to lớn trong việc xây
dựng Tôn Miếu và Lam Sơn Phật tự ở đây.
Mạc Cảnh Huỗng cũng như anh ruột ḿnh là
Khiêm vương Mạc Kính Điển, có tài năng trong
lĩnh vực quân sự. Ông đă hoạch định chiến lược
quân sự của chúa Nguyễn, cùng với Nguyễn Ư Kỷ
và Tống Phước Trị, góp phần to lớn trong việc
củng cố nền thống trị của nhà Nguyễn trong
buổi ban đầu vào đầu thế kỷ XVII. Vượt lên
trên hai huân thân nói trên, Mạc Cảnh Huống là
người phục vụ lâu dài nhất dưới thời các chúa
Nguyễn, kể từ thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng qua
chúa săi Nguyễn Phúc Nguyên cho đến chúa
Thượng Nguyễn Phúc Lan trong suốt 38 năm liên
tục từ 1600 đến 1638.
Ông là vị chỉ huy tối cao của quân đội Đàng
Trong, người vạch ra chiến lược quân sự để
chống quân Trịnh ở phía Bắc và b́nh định quân
Chiêm ở phương Nam. Dưới thời Nguyễn Hoàng, ông
đă đóng góp nhiều công lao trong công cuộc Nam
tiến, đánh chiếm Đồng Xuân và Tuy Ḥa của
Chămpa vào năm 1611, mở rộng bờ cơi Đại Việt
về phía Nam. Để ghi nhận công lao của ông,
năm 1617, chúa Tiên Nguyễn Hoàng tấn phong ông
chức Nguyên huân Sư Thống thủ Thống Thái phó
(8).
Dưới thời chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên, ông
đă có vai tṛ quan trọng trong đường lối ḥa
b́nh để b́nh định bộ tộc Man ở Ai Lao thường
hay cướp bóc, quấy rối ở biên giới phía Tây
năm Tân Dậu (1621). Tiếp đó, ông cũng góp
phần vào chiến thắng quân Trịnh do các danh
tướng Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế chỉ huy
5000 quân theo lệnh của chúa Trịnh Tráng đánh
vào Đàng Trong lần thứ nhất vào năm 1627 và
ngăn chặn được sự tấn công lần thứ hai của
quân Trịnh vào năm 1633.
Trong quá tŕnh xây dựng lực lượng vũ trang
và chỉ huy quân đội Đàng Trong trong nhiều năm
cũng như từ những bài học của thực tiễn chiến
tranh, Thống Thái phó Mạc Cảnh Huống đă giành
thời gian và trí tuệ để biên soạn cuốn sách
về phép dùng binh, gọi là Binh thư trận đồ.
Nhưng tiếc thay, cuốn binh thư này đă bị thất
lạc (9).
Thực tế lịch sử đă cho hay, dưới thời tời
các chúa Nguyễn, quân đội Đàng Trong có đủ sức
mạnh để tự vệ và đảm bảo an ninh lănh thổ.
Sách Những cuộc du hành và những cuộc
tranh luận của Fiar Dimingo Navarette 1618-1686,
đă viết về sự tinh nhuệ của quân đội Đàng
Trong rằng: “Tôi nghe nhiều lần người Bồ Đào
Nha và Tây Ban Nha nói rằng quân đội chúa
Nguyễn là những xạ thủ giỏi…Đây là lư do tại
sao họ luôn giành ưu thế trong các cuộc đối
đầu liên tiếp với chúa Trịnh”.
Giáo sĩ Cristoforo Borri, từng sống ở Đàng
Trong trong những năm 1618-1622, đă hết lời ca
ngợi tính ưu việt của quân đội Đàng Trong dưới
thời chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên: “Như vậy, ở
khắp nơi, trên đất liên cũng như trên biển,
vang dọi tên tuổi quang vinh, làm vẻ vang cho
phẩm giá của quân đội Đàng Trong” (10).
Giáo sĩ Metello Saccano cũng đă đề cao sự
hùng mạnh của quân đội Đàng Trong dưới thời các
chúa Nguyễn: “Với lực lượng quân sự cực kỳ
nhanh nhẹ và đông đảo, chúa Đàng Trong đă giữ
vững được kỷ cương trong sự thịnh vượng, an ninh
và được thần dân kính phục” (11).
Sự hùng mạnh đó của quân đội Đàng Trong
hiển nhiên có sự đóng góp hết sức quan trọng
của huân thần Thống Thái phó Mạc Cảnh Huống
với tư cách là tổng chỉ huy lực lượng vũ trang
Đàng Trong.
Nhà Nguyễn cũng đă đánh giá cao sự đóng góp
của Mạc Cảnh Huống trong việc xây dựng vương
triều nhà Nguyễn trong buổi sơ khai rằng:
“Khi Thái tổ Hoàng đế vào Nam trấn Thuận
Hóa, Tống Phước Trị sớm dâng bản đồ sổ sách
trong xứ, lại cùng Uy Quốc công Nguyễn Ư Kỷ,
Thống binh Mạc Cảnh Huống đồng tâm tận lực
phụ tá vương thất, thật có công trạng trong
thời quốc sơ vậy. Cảnh Huống dần dần làm
quan tới chức Thống inh, góp mưu nơi màn trướng
công lao phụ tá buổi quốc sơ ngang với Nguyễn
Ư Kỷ, Tống Phước Trị” (12).
Ông giúp chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan
(1635-1648) cho đến năm Mậu dần 1638 ông mới
xin từ quan, nghỉ việc công ở tuổi 96 để tu
hành. Ông chọn làng Trà Kiệu, huyện Diên
Phước, dinh Quảng Nam (nay là xóm Hoàng Châu, xă
Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) để
định cư và trở thành thủy tổ của tộc Mạc ở đây
(13).
Đến năm Đinh Mùi (1667) ở tuổi thọ 125, ông
trùng tu ngôi chùa thờ Phật trên đồi Bảo châu
có tên gọi là chùa Bảo Sơn Phúc hay Bảo Châu Sơn
tự mà ông trở thành trụ tŕ của ngôi chùa này
với pháp danh Thuyền Cảnh Chân Tu.
Trước đây vào thế kỷ XVI-XVII, dưới chân
đồi Bảo châu có một nhánh cửa sông Thu Bồn
chảy qua. Nhánh sông này chảy dưới chân G̣ Hùng
và G̣ Hàm Rồng thuộc làng Chiêm Sơn, nơi đặt
các lăng mộ của hai Hoàngg hậu Đoàn Thị Ngọc
và Mạc Thị Giai (nay thuộc xă Duy Trinh, huyện
Duy Xuyên). Dưới chân đồi Bảo Châu và Bảo Châu
Sơn tự (nay thuộc xă Duy Sơn, huyện Duy Xuyên)
có một bến đ̣ rất tấp nập. Về sau ḍng
sông này đă bị bồi lấp (14).
Về sau, bà Mạc Thị Lâu cùng chồng là Quốc
sư Vơ Quới Công cũng đến nương nhờ cửa Phật
tại Bảo Châu Sơn tự và viên tịch tại đây (15).
Thuyền Cảnh Chân Tu Mạc Cảnh Huống trụ tŕ
ở Bảo Châu Sơn tự đến mười năm và được nhân dân
trong vùng và dinh Quảng Nam tôn vinh như vị
Phật sống. Nà sư mất vào tuổi 135, tại Bảo
Châu Sơn tự ngày mồng 1 tháng Giêng năm Đinh Tỵ
(1677) (16).
Phần mộ của ông được táng tại vườn chùa Bảo
Châu Sơn. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đă lệnh
cho dinh Quảng Nam xây dựng đền “Trung Trinh
Liệt” tại làng Trà Kiệu Tây để thờ Thủy tổ
Mạc Cảnh Huống và cấp 2,2 mẫu công điền gọi
là Rộc Đ́nh để Ngũ Xă chăm lo việc thờ phụng
ông hàng năm cùng các vị văn thần vơ bá.
Cũng vào thời kỳ này, 12 tộc khác của Ngũ Xă
Trà Kiệu là Trà Kiệu Trung, Trà Kiệu Đông,
Trà Kiệu tây, Trà Kiệu Nam và Trà Kiệu Thượng
cũng xây dựng nhà thờ Tiền Hiền Ngũ xă. Ngôi
đ́nh và nhà thờ đều được xât dựng trên xóm
Hoàng châu ở Trà Kiệu Tây (nay thuộc xă Duy
Sơn, huyện Duy Xuyên).
Cần nêu lên rằng trong vườn chùa Bảo Châu,
ngoài mộ Mạc Cảnh Huống, c̣n có mộ của bà
Nguyễn Thị Ngọc Dương, mộ của Văi Đô Mạc Thị
Lâu và mộ của Thuyền Trư Vơ Qưới Công.
Tộc Mạc Tà Kiệu đổi theo quốc tính
Nguyễn Phước được 5 đời. Đến thời kỳ quân Tây
Sơn nổi lên, tộc Mạc ở Trà Kiệu phải đổi
thành họ Nguyễn Trường và giữa họ này từ đó cho
đến nay.
Sau khi Mạc Cảnh Huống qua đời, dân làng Cổ
Tai ở Quảng Trị đă coi ông như vị ân nhân của
làng, vị thần bảo hộ làng. Mỗi lần giỗ kỵ
tưởng niệm ông, vị tộc trưởng làng Cổ Trai đă
khấn: “Ngài trở lại hoàn toàn sự hoàn thiện
bản lai nư cũ bằng những cố gắng. Ngài đă thực
hiện các tuân thủ và nhịn ăn một cách chu đáo,
Ngài thực hiện việc tích đức với tất cả sức
lực của ḿnh trong một ngôi nà hưu trí thờ
Phật, luôn luôn Ngài cầu khẩn v́ mục đích tỏ
ḷng biết ơn đối với ân tứ và làm tṛn bổn
phận đối với Đức Phật hoặc là để tự giải
thoát cho ḿnh khỏi nỗi tam đồ. Một khi làm
cho ḿnh tự biến đổi như vậy, Ngài đă tự nâng
cao sự tinh thông hoàn toàn, sau khi Ngài tịch,
người ta đă dâng tặng nhiều phẩm tước cao quư
và chúa Nguyễn đă tôn kính Ngài như một vị
Phật mà sự xuất hiện trên cơi đời này cũng
giống như sự xuất hiện của các Đức Phật
khác” (17).
Theo tài liệu lưu trữ của tộc Ngô (tức họ
Mạc) ở làng Cổ Trai, Hải Dương (nay là huyện
Kiến Thụy, Hải Pḥng), hàng năm bà con trong
tộc đă tổ chức hiệp kỵ một cách trọng thể
ba vị thần bảo vệ ḍng họ (tức Mạc Cảnh
Huống, Mạc Thị Giai và Nguyễn Phúc Ngọc Liên)
và các vị đại nhân của họ Mạc vào ngày rằm tháng
5 âm lịch hàng năm.
Khi vua Duy Tân lên ngôi (1907-1916) đă đánh
giá lại công lao của các huân thần trong buổi
sơ khai xây dựng vương triều nhà Nguyễn, đă ra
Sắc phong ngày 24 thánh 12 năm Duy Tân thứ Nất
(1907), truy tặng Mạc Cảnh Huống (tức Nguyễn
Trường Huống) là Khai quốc công thần.
Nguyên văn Sắc phong như sau:
Phiên âm:
Thừa Thiên hưng vận
Hoàng đế chế viết: Trẫm duy quân tử, khuông
thời chi lược, vĩnh thế hữu từ, hy triều chương
văng chi ân. Vô công bất báo, quyện duy hiền tá,
hạp bí ân luận.
Tiền triều Thống binh Thái phó, truy phong
nguyên huân Nguyễn Trường Huống, thôn Đẩu hùng
tâm, đề qua tráng chí, phụ Vệ, Anh chi lược,
hoài Quản, Cát chi tài. Hội tế long vân, ngộ
Thánh minh nhi ủy, duyên hài ngư thủy, tham duy
ốc dĩ vận trù, cơ tằng vũ tiễn yêu gian, quang
hà điển binh chi mệnh. Độc thị vân đài đồ họa.
Do hư Thượng tướng chi đàn, ngôn niệm Nguyên
huân nghi trù dị ốc. Tư đặc truy tặng Khai quốc
công thần Đặc tiến Tráng vơ tướng quân Đô thống
phủ Đô thống Chưởng phủ sự. Thụy Tung Trinh
Liệt, tư vu Trung Nghĩa từ Tích chi cáo mệnh.
Ư hi! Vinh du hoa cổn, thức chương nhất tưu
chi bao, sắc khởi truyền đài, thượng bội tam
sinh chi cảm, hữu tri linh sảng, thức khắc chỉ
thừa.
Khâm tại!
Duy Tân Nguyên niên
Thập nhị nguyệt, Nhị thập tứ nhật.
Tạm dịch:
Noi theo,
Vận trời hưng thịnh.
Hoàng đế chế rằng: Trẫm nghĩ các bậc quân tử,
mưu lược cứu thời, danh thơm muôn thuở. Ân nghĩa
ấy đời đời rạng rỡ. Kẻ không có công ắt không
được báo đáp, người hiền tài pḥ tá phải luôn
được nhớ ơn.
Triều trước Thống binh Thái phó được truy
phong Nguyên huân Nguyễn Trường Huống, chí lớn
nuốt trôi sao Đẩu, dũng khí cầm ngang ngọn dáo,
coi khinh mưu lược Vệ Khanh, Anh Bố, hoài nhớ
tài cao Quản Trọng, Khổng Minh (18). May gặp
được bậc Thánh minh mà ủy thác, khác nào rồng
mây, cá nước gặp nhau. Trong màn trướng vận trù
mưu lược, đă bao phen gian nguy tên đạn, công
nghiệp vẻ vang nắm giữ binh quyền, đáng được ghi
tên vẽ tượng ở trên Vân Đài.
Bởi do đàn thờ Thượng tướng bị hỏng hư, tưởng
nên phải có nơi thờ Nguyên huân riêng biệt. Nay,
đặc cách truy tặng Khai quốc công thần Đặc tiến
tráng vơ tướng quân Đô thống phủ, Đô thống
chưởng sự. Thụy là Trung Trinh Liệt, thờ tại đền
Trung Nghĩa. Cho đem ban bố.
Hỡi ôi! Một lời khen hay đúng mực, đẹp đẽ hơn
cả áo Cổn hoa. Nhắc cho ở dưới suối vàng hăy cảm
nhận lấy vật phẩm lễ nghi. Hễ biết linh thiêng,
lập tức vâng lời.
Kính thay!
Ngày 24 tháng 12
Duy Tân năm đầu (1907).
Đến năm 1927, dưới thời Bảo Đại (1925-1945),
Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (École francaise d’
Extrênme Orient) lập dự án nghiên cứu khu di
tích Champa ở Trà Kiệu (Kinh thành Sư tử
Simhapura), mà đồi Bảo Châu nằm trong diện khai
quật. Giám đốc Trường này đă gửi đơn lên Triều
đ́nh Huế ngày 2-7-1927 xin phép thực hiện dự án
và Triều đ́nh Huế đă ra văn bản chấp thuận ngày
11-9 năm đó (19).
V́ vậy, chính quyền huyện Duy Xuyên tỉnh
Quảng Nam đă kết hợp với tộc Nguyễn Trường ở Trà
Kiệu tổ chức nghi lễ dời mộ cuả danh thần Nguyễn
Trường Huống cùng những người thân đă táng trước
đây trong vườn chùa Bảo Châu Sơn trên đồi Bảo
Châu.
Nghi lễ cải táng được tiến hành theo đúng thủ
tục dưới sự chứng kiến của Tri huyện Duy Xuyên
Trần Văn Lỵ và một hậu duệ của danh thần là
Nguyễn Trường Biên, được triều đ́nh chỉ định, có
lính tráng bảo vệ.
Thân tộc Nguyễn Trường đă bốc di cốt vào
chiều ngày 16-9-1927 và đến 8 giờ sáng ngày hôm
sau 17-9-1927, lễ cải táng được tiến hành trọng
thể tại chân núi Non Trược (núi Trà Kiệu), cách
đồi Bảo Châu chừng 200m. Các ngôi mộ được xây
bằng xi măng h́nh chữ nhật.
Nghi lễ cải táng các ngôi mộ nói trên có
J.Y.Claeys tham dự. Ông mô tả tỉ mỉ sự việc này
trong bài Nghi lễ chuyển dời các ngôi mộ ở Trà
Kiệu đăng trên Tạp chí của Trường Viễn Đông Bác
cổ (BEFEO) năm 1927 (20).
Theo J.Y.Claeys, mộ của danh thần Nguyễn
Trường Huống được gắn bia cũ có mái che nhỏ đơn
giản. Nội dung chạm khắc trên bia như sau:
“Nước Đại Nam
Thành Thái thứ 18, này 12 tháng 4 (5-5-1906)
Thủy tổ tịch giữa các thần, chức Thống thủ,
hàm Huống Đức hầu, tước Thái phó, tặng Nguyên
Huân Quốc tính, pháp danh Thuyền Cảnh Chân Tu.
Tộc phụng lập
Hậu duệ Trường Biên dựng bia” (21).
Sau này nước nhà thống nhất 1975, các hậu duệ
tộc Mạc-Nguyễn Trường đă trùng tu lại lăng mộ
của danh thần Mạc Cảnh Huống tức Nguyễn Trường
Huống. Xung quanh lăng có tường thành thấp cách
điệu bao quanh, trên cổng lăng có biển trắng ghi
hàng chữ Quốc ngữ màu đỏ thành hai ḍng “Lăng mộ
Mạc Thống thủ”.
Ở trên 2 trụ cổng lăng khắc hai hàng câu đổi
chữ Hán chạy dọc sơn màu váng trên nền đỏ:
Bắc địa hưng bang đa tuấn kiệt
Nam thiên khai quốc đại công thần.
Tạm dịch:
Đất Bắc dựng non nhiều anh kiệt,
Trời Nam mở cơi lắm công thần.
Phía trước mộ của danh thần là nà bia cao và
trên mộ chí bằng đá cẩm thạch ghi các hàng chữ
Hán:
“Thành Thái thứ 18, ngày 12 tháng 4
(5-5-1906)
Hiển thủy tổ Huống Đức hầu tặng Thái phó
Nguyên huân Quốc tính
Pháp danh Thuyền Cảnh Chân Tu chi mộ
Bổn tộc đồng phụng lập”.
Trong khuôn viên của khu lăng, ngoài ngôi mộ
của danh thần Mạc Cảnh Huống, c̣n có mộ của phu
nhân Nguyễn Ngọc Dương, Sư bà Diệu Minh Mạc Thị
Lâu, Quốc sư Vơ Qưới Công cùng mộ Phó tướng quốc
Đốc đồng chí Thanh Lộc hầu Nguyễn Quư Công Mạc
Cảnh Vinh và Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Liên
(22).
Ngoài ngôi đ́nh thờ chung danh thần Mạc Cảnh
Huông như đă nói, trước năm 1940, tộc Nguyễn
Trường ở xă Trà Kiệu Tây đă dựng thêm một nhà
thờ tộc riêng trên nền cũ của chùa Bảo Châu Sơn
để thờ Mạc Cảnh Huống và các vị Tiên hiền, Thế
thư của tộc Mạc. Nhà thờ tộc này đă bị phá hủy
thời Tây Sơn.
Trong kháng chiến chống Pháp, đ́nh thờ Mạc
Cảnh Huống ở Trà Kiệu bị hư hỏng phần tiền sảnh,
c̣n nà thờ Ngũ Xă th́ bị hư hỏng trầm trọng. Đến
năm 1955, tộc Mạc- Nguyễn Trường cúng 12 tộc Mạc
khác của Ngũ Xă dựng lại nhà thờ Ngũ Xă mới,
rộng 5 gian trên nền đ́nh thờ danh thần Mạc Cảnh
Huống trước đây. Bài vị của Mạc Cảnh Huống được
đặ ở gian giữa cùng với các bài vị của các vị
Tiên hiền của Ngũ xă Trà Kiệu. Nhà thờ này đă bị
phá hủy năm 1963, tộc Mạc- Nguyễn Trường đă xây
dựng nhà thờ tộc mới, gọi là Mạc-Nguyễn từ đường
trên nền chùa Bảo Châu Sơn tự cũ, cách nhà thờ
Ngũ Xă chừng 200m. Bên trong nhà thờ treo nhiều
bức hoành phi câu đối với nội dung phong phú.
Ngoài câu đối bằng chữ Hán ở phía trước lăng
mộ của danh thần Mạc Cảnh Huống đă được nêu ở
trên c̣n có các câu đối khác như:
“Tổ lai Bắc địa căn nguyên thủy
Hồi trứ Nam thiên vũ trụ tiên”
Tạm dịch:
“Gốc trước quê cha trên đất Bắc
Về xây tiên tổ chốn trời Nam”.
Ở bên Tả của chánh tẩm treo câu đối màu vàng
trên nền đỏ:
“Quốc tước tập phong hoa cổn miện
Công thần pḥ chúa tráng dư đồ”
Tạm dịch:
“ Tước hiệu vua ban cùng mũ áo
Công thần pḥ chúa mở cơi bờ”.
Ở bên Hữu của tẩm treo câu đối:
“ Trà Sơn linh tú phụng quang cửu
Đông Phụ căn miêu tộc tánh trường”
Tạm dịch:
Núi Tà Kiệu linh kiệt măi quang vinh
G̣ Đông gốc rễ lưu danh họ
Ở gian giữa chính điện treo câu đối:
Quốc súng công thần khâm đế mạng
Sắc phong Thượng tướng hà triều ân
Tạm dịch:
Nước quư công thần vâng mệnh chúa
Sắc phong Thượng tướng chịu ơn vua
…
Nói chung, nội dung của các hoành phi và câu
đối trong Mạc-Nguyễn từ đường nói lên nguồn gốc
của họ Mạc, công đức của danh thần Mạc Cảnh
huống cũng như ḷng biết ơn của tộc Mạc đối với
ân sủng của nà Nguyễn.
Hiện nay tại nhà thờ này c̣n bảo quản sắc
phong của vua Duy Tân truy phong cho Thống binh
Mạc Cảnh Huống là Khai quốc công thần vào năm
1907 nư đă nói ở trên.
Tháng 2 năm 2000, các tộc Ngũ xă Trà Kiệu đă
trùng tu Nhà thờ Ngũ Xă và tổ chức lễ kỷ niệm
530 ngày thành lập. Trong dịp này, các tộc Ngũ
Xă đă đề nghị với tộc Mạc-Nguyễn Trường xin rước
bài vị của danh tướng Mạc Cảnh Huống về thờ lại
tại Nhà thờ Ngũ Xă như trước đây. Chiều ngày 26
tháng 2 năm Canh Th́nh, tức ngày 30-2-2000, lễ
rước bài vị đă được tổ chức trọng thể. Hiện nay,
bài vị của danh tướng Mạc Cảnh Huống được thờ
tại gian giữa cùng 13 vị Tiên hiền khác của các
tộc Ngũ Xă. Cũng vào dịp này Nhà thờ Ngũ Xă Trà
Kiệu đă được xếp hạng và được công nhận là Di
tích Lịch sử- Văn hóa của địa phương.
CHÚ THÍCH
(1) Viện Sử học: Nà Mạc và ḍng họ Mạc trong
lịch sử. 1996 Cuốn sách này đă dẫn cuốn Lê Triều
thông sử của Lê Quư Đôn th́ Mạc Đăng Doanh chỉ
có 7 con trai (Phúc Hải, Kính Điển, Tư Trường,
Lư Ḥa, Hiệp Cung, Phúc Tư và Đôn Nhượng), như
vậy không có ai là Cảnh Huống và không cho biết
có một thân vương nào theo Nguyễn Hoàng, tr 446-
447. Nhưng trong Đại Nam liệt truyện tiền biên
lại đánh giá rằng Mạc Cảnh Huống là một trong ba
khai quốc công thần của nhà Nguyễn. Theo gia phả
của tộc Mạc làng Trà Kiệu, xă Duy Sơn, huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam hiện nay th́ Mạc Cảnh
Huống là con trai của Mạc Phúc Hải, em ruột của
Mạc Kính Điển cà chú ruột của Hoàng hậu Mạc Thị
Giai, hậu của chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên.
(2), (5), (17) Léopold Cadière: Au sujet de l’
épouse de Sai Vuong. B.AV.H 1922. No3,
p.221-232.
(3), (7), (8), (9), (13), (15) Nguyễn Trường
Mười: Gia phả tộc Mạc (tức Nguyễn Trường) xă Duy
Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.1996 (tài
liệu nội bộ).
(4), (6) Léopold Cadière: Généalogie de la
Princesse Giai, épouse de Sai Vuong. B.AV.H
1943. No4, p.379-406.
(10) Cristoforo Borri: Relation de la nouvelle
mission dé Pères de la Compagnie de Jésus au
royaume de la Cochichine, 1631.
(11)Georges Taboulet: La gét francaise en In
do-chine, 1955.
(12) Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt
truyện tiền biên, 1821, tr 130-132.
(14) Ở nhiều địa điểm khác nhau mà trước đây
nhánh sông đó đă chảy quan, như ở sân vận động
G̣ Dổi, gần miếu Thành hoàng, cạnh nhà thờ Trà
Kiệu hiện nay, người ta đă đào đươc di vật như
dây neo, ván thuyền…
(16) Không đúng như đă ghi trong Đại Nam liệt
truyện tiền biên của Quốc sử quán triều Nguyễn
là ông chết tại chức.
(18) Veejcos lẽ là Vệ Khanh người B́nh Dương làm
Đại tướng thời Hán Vơ Đế, được phong tước Trương
B́nh Hầu. Anh là Anh Bố người đời Chiến Quốc
theo pḥ Sở Bá Vương Hạng Vơ được phong làm Cửu
Giang Vương. Quản tức Quản Trọng, người thời
Xuân Thu Chiến Quốc, pḥ tá Tề Hoàng Công làm
nên nghiệp bá, được phong tới chức Thừa Tướng.
(19), (20), (21) J.Y.Claeys: Crémonie pour le
déplace-ment de tombes à Tra Kieu, BEFEO. 1927,
p. 479-451.
(22) Theo tộc Mạc-Nguyễn Trường ở xă Duy Sơn th́
có hai ngôi mộ của Pḥ mă Phó tướng Nguyễn Hữu
Vinh và Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Liên là những
ngôi mộ gió, không có hài cốt, chỉ có tính chất
tượng trưng.
NGUYỄN PHƯỚC TƯƠNG