Những dòng sông lịch sử
Nước là vật chất tối cần cho sự sống, khi
chưa đạt đến trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến như
ngày nay thì việc sinh sống ven sống là tất yếu.
Sông cung cấp nước làm nên cuộc sống, sông là đường lưu
chuyển tự nhiên như mạch máu đến khắp cơ thể, Tiến
trình lịch sử của dân tộc họ Hùng gắn liền với những
dòng sông là điều hợp lẽ.
Với chúng ta sông núi đã trở thành linh thiêng chứ không
thuần vật chất nữa, dòng sông là dấu ấn tiền nhân
đóng lên trời đất .
Người họ Hùng lấy 5 ngọn núi gọi là ngũ Nhạc làm
biểu tượng cho quốc thổ, nhưng xin lưu ý : sự phân chia
địa lý mỗi thời kỳ mỗi khác, không có sự phân chia
địa lý xuyên suốt lịch sử, Ngũ nhạc mỗi thời mỗi
khác cũng là Thái sơn nhưng Thái sơn thời tiền sử khác
thái sơn thời Tần khác, Cửu châu cũng vậy ; cửu châu
nhà Hạ không phải là cửu châu trong lịch sử Trung quốc
ngày nay, rõ nhất là thời xuân thu chiến quốc cũng Tần
Sở Tề …thời 16 nước rợ Thác Bạt đâu có phải người
Trung Hoả nhưng cũng Tần cũng Sở Cũng Tề …
Chúng ta kết thúc thiên khảo luận về tổ quốc và dân
tộc họ HÙNG này bằng một khám phá chưa sách vở nào
nói tới….không biết có tự bao giờ mà lại hiện hữu trên
bản đồ Việt Nam và Trung quốc ngày nay dòng lịch sử
xuyên suốt bao trùm cổ và trung đại thể hiện bởi những
dòng sông ; lịch sử họ Hùng cổ – kim âm thầm trôi từ Nam
lên Bắc (phương hướng hiện nay) theo những dòng sông, chính nhờ sự ‘âm thầm lặng lẽ’ mà cuốn lịch sử “sông
núi” này không bị những kẻ muốn xóa sổ Thiên hạ Hùng
Việt trên cõi đời này phát hiện, vì thế chúng không
thể đổi, không thể sửa như đã làm với Kinh Văn .
1 , Núi Đọ cái nôi của giống dòng họ Hùng
:
Họ HÙNG lập quốc thời Hùng triều thứ 5 –Hùng Vũ.
Số 5 là trung tâm của Hà thư và Lạc đồ, nơi điều hoà
và điều khiển cả 6 cõi .;đó chính là ý nghĩa chữ Vua
hay Vũ vương.
Từ mốc thời gian này trở về trước con người mới chỉ
mang chữ Nhân chưa có chữ Dân , Tiền nhân trong cả chiều
dài thời gian từ Bản cả-Tựu nhân, đế họ Sào- Vũ võng
đến 4 tổ phụ của 4 phương trời hội tụ nơi THÁI SƠN, Thái sơn là địa danh mà bất cứ người Việt nào cũng
nằm lòng nhờ câu Công cha như núi Thái sơn nghe đi nghe
lại ngàn vạn lần trong đời người …, trước đây ai cũng
tưởng Thái sơn là ngọn núi chính trong Ngũ nhạc nằm ở
Sơn đông bên Tàu …nên đâu có gì thiêng liêng nơi đất ấy mà
tiền nhân nhắn gửi truyền miệng hết đời này đến đời
khác ?.
Trong dịch học Thái là ngôi chí cực uyên
nguyên, là nơi quy nhất của vạn hữu theo Lão giáo, không tên gọi là ‘vô’ hữu danh gọi là ‘thái’ biểu hiện
ra vật thể là ‘đại’, thái là từ trừu tượng vô hình vô
ảnh nên khi nói Thái sơn là đã sai rồi ,chính xác phải
gọi là Đại sơn tức ngọn núi to lớn, có thể Đại sơn
không phải chỉ sự to lớn về kích cỡ mà to lớn vì ý
nghĩa lịch sử ẩn tàng …cái nôi của 1 dòng tộc người .
Thái sơn →Đại sơn = núi Đọ .
Khảo cổ học đã xác nhận điều này, núi
Đọ linh thiêng với người họ Hùng vì là biểu tượng của
tổ tiên dòng giống .
2 , Sông Cả ; dòng sông ghi bóng Hùng Vũ,
là khởi điểm của lịch sử quốc gia họ Hùng .
Tên gọi sông Cả chính là dấu Ấn của Hùng Vũ đóng vào
trời đất ghi dấu nơi lập quốc ; nơi chốn linh thiêng muôn
đời trong tâm thức của người họ Hùng.
sông Cả là nơi hình thành ý thức quốc gia
tức sự kết nối bền vững người người đồng tâm hiệp lực
hoà mồ hôi tạo lập cuộc sống và từ đó hình thành gia
sản chung về văn hóa tâm linh ; núi Đọ – Thái Sơn là
biểu tượng của ý thức nguồn cội là nơi mà bóng hình
tổ tiên thấp thoáng dõi theo đàn con, từ nơi này nguồn
linh lực ngàn năm vạn năm vẫn tuôn trào chảy mãi đến
tận hôm nay kết tụ thành khí phách và bản lãnh Việt, ngọn núi già cỗi thấp bé gần bờ biển, từ đó có thể
nhìn thấy mặt trời nhô dần lên từ mặt biển đông mới
đích thực là Đại sơn – núi Đọ ngàn đời trước còn Thái
sơn bên Tàu với dáng vẻ hùng vĩ đỉnh cao chót vót chỉ
là nơi du hí của Tần thủy hoàng …chứ tổ tiên nào mà
leo nổi .
3 , Sông Chu hay sông cha ; sông của đế Nghi.
Nghi là biến âm của nhì – nhị, vua tổ là
vua lập quốc, ngày cộng đồng người họ Hùng từ thị
tộc vươn mình trở thành Hữu Hùng quốc tức nước của
người họ Hùng chính là ngày quốc tổ quy tiên chấm dứt
thời lập quốc đồng thời cũng là lúc quốc gia bắt đầu
tồn tại với vua thứ nhất …nhưng lại gọi là đế Nghi –
nhì vì trước đã có quốc tổ, sự việc này còn lưu dấu
rất rõ trong cách gọi con đầu là ‘hai’ ở nam bộ .
Dòng sông ở về hướng mặt trời đi (xích
đạo) kế sông Cả này là hình bóng của đế Nghi, Hoa sử
gọi là đế Nghiêu.
Người Việt từ vua cũng là cha – mẹ nên sau
sông ‘tổ’ rồi đến sông ‘cha’ sau nữa là …sông mẹ .
4 , Sông Mã hay sông mẹ ; sông của vua phương
Nam.
Dòng sông của phương Nam mở nước, nơi tượng trưng cho Kinh
dương vương trong Truyền thuyết lịch sử Việt, dòng sông
Mã cũng là biểu tượng của thời đế Thuấn mở nước về
phương Nam xưa, Câu thơ Nam phục nhất Đường Ngu thật trọn
ý.
Cha (Chu), Mẹ (Mã) sinh ra, nuôi nấng đàn con ; câu ca dao
…nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra chính là chỉ con
sông mẹ, ngày nay tam sao thất bổn …Mẹ biến thành Mã
không còn chút gì là ý nghĩa thiêng liêng .
3 dòng sông Cả – Chu – Mã hợp với núi Đọ
chuẩn xác về mặt từ ngữ phải viết là sông Vua – sông
Cha – sông Mẹ hợp với núi Đại kết thành biểu tượng của
thời quốc gia sơ khai nước nên chốn ấy thành cõi thiêng
muôn đời của con cháu nhà Hùng .
5 , Sông Đà hay Đan thủy con sông mang dấu
tích của Hùng Việt .
Là nơi sinh ra dòng Lộc Tục – con cháu của Hiên Viên và
con gái của Vũ Tiên, với sử Trung hoa thì đấy là Đan
thủy nơi Hoàng đế đánh bại Hoan Đâu thống nhất Bắc – Nam
thu giang sơn về 1 mối ; Đan thực ra là Đen, màu Đen của
phương Nam – phương nước xưa (nay lộn ngược thành phương
bắc ?) nên còn gọi là sông Mờ ; con sông này cũng là nơi
mà ông Đại Vũ đã đổ mồ hôi và vắt nát óc cho việc
trị thủy, tạo nên vùng đất đồng bằng nuôi sống đàn con
bao đời, sông Đà núi Tản là chốn thiêng liêng thờ Tản
viên sơn thánh quốc chúa đại vương tức Hùng Việt Vương –
Tuấn Lang .
Sông Đà có tên là Đan thủy – Hắc thủy hay
sông Mờ vì nó dòng sông của vùng đất màu đen phương Nam
xưa hợp với Hồng lĩnh ở đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh
hướng Xích đạo hình thành 2 miền ‘Đào – Đường’ lãnh
thổ ban đầu của hữu Hùng quốc ; khi chinh phục xong miền
đất Đường hay Thường là mốc kết thúc thời nhà nước sơ
khai để bước sang thời vương quốc họ Hùng bắt đầu thời
mà lịch sử gọi là Tam đại .
6 , Sông Hồng hay Hồng Hà ; dòng sông biểu
tượng thời nhà Hạ, vương triều đầu tiên trong tam đại, vua khai sáng là Hùng Hoa vương – Hải lang .
Hắc thủy tượng trưng cho sự kết thúc giai
đoạn nhà nước sơ khai, nằm cạnh Hồng hà chỉ ra sự
‘Khởi’ đầu của vương quốc, điểm cuối của chu kỳ trước
chính là điểm bắt đầu của chu kỳ sau hoàn toàn đúng
với ý nghĩa Dịch học .
Đất tổ vương triều Hạ, sử Trung hoa gọi là nước Thiêu
(Thao) nước Đào ,truyền thuyết Việt gọi là Hồng bàng
(bang) ; lưu tồn vật chất trong lòng đất mới khám phá
gọi là nền văn hóa Phùng Nguyên, công cụ đá có cùng
kỹ thuật chế tác đã được tìm thấy phân bố trên địa
bàn hết sức rộng, phía Bắc lan tới tận Châu giang .
Sông Hồng được coi là tượng trưng cho nhà
Hạ vì chính Giao chỉ là đất khởi nghiệp của các vua
triều đại Hạ, Thủ đô ban đầu là An ấp cũng trên đất
này thời nhà Hạ trung hưng mới định đô ở Dương thành
Quảng đông ngày nay
7 , Trường giang hay sông Thương con sông của
Việt Thường Thị cũng là con sông tiêu biểu cho nhà Thương
, Trong tên ‘Dương tử’ thì dương thực ra là giang, Tử chỉ
là biến âm của Từ đồng nghĩa của thương yêu Dịch tượng
của phương Đông, Dương tử là ‘giang từ’ cấu trúc Việt
ngữ nghĩa là sông Thương ….trường hợp chữ tác đánh chữ
tộ này cũng tương tự địa danh Giang Tây vậy …trong địa
lý Trung hoa thì địa bàn này đích thị là phía đông
không thể là phía tây …, tây chính là tam sao thất bổn
của Từ – thương phương đông .
Sông Thương hay Đường, Đằng là nơi sinh tụ của con cháu
họ Hùng thời Long Tiên Lang – Thành Thang,Cổ sử Trung hoa
gọi là Triều đại Thương , Hồ Nam trở thành Ngũ Lĩnh hay
Trung Nguyên, nơi đó cũng mang ấn tích của thời vượt
‘Giang’ mở cõi hào hùng của vua Bàn Canh, là dòng sông
của thời văn hóa Qui Tàng Dịch hay chữ khắc trên mai
rùa, đây là thời “chất biến” trong sinh hoạt tinh thần
hay hoạt động trí tuệ nâng dân tộc lên tầm cao mới trong
nấc thang văn minh.
8 , Sông Hoài thực ra là sông Hời – sông Hai
.
Nhà Ân chính xác phải gọi đầy đủ là nhà
Thương Ân nghĩa là triều đại Thương thứ 2, Ân – Ơn đồng
nghĩa với Nhị – nhì, tiếng Việt là hai, hai ↔hoài.
Vua Bàn Canh đã từ thủ đô sau cùng thời
Thương là thành Tân cán tức can Tân chuyển sang kinh đô
đầu tiên thời Thương Ân hay Thương 2 là Bàn Canh long thành
…sợ thông tin mang trong “can Canh và can Tân” sẽ chỉ ra
kinh đô thời Thương và Thương 2 …người ta đã đổi Tân can
thành Tân cán và cạo mất chữ Canh trong Bàn Canh long
thành .
Nhà “Ân – 2” đã có công thu phục cả lưu vực
sông Hoài vào bản đồ ‘Thiên hạ’ vì thế con sông chính
chảy qua vùng này gọi là sông Hoài – hai – 2 .
9 , Châu Giang – Sông Tứ : nơi khai cơ sáng
nghiệp cuả Văn vương .
Nước Văn Lang, đất tổ triều Đại Chu chiếm trọn trung lưu
và thượng lưu con sông này; Tây Âu Lạc cũng là đây, 2
dòng con Lửa và Lạc (nước) của Hiền Vương – Hiên Viên
lại hợp nhất trên mảnh đất này, Khi Chu Vũ Vương lên ngôi
Thiên tử Trung Hoa thì miền này là đất đế vương cốt lõi
của thiên hạ nhà Chu, Ngũ Kinh – linh hồn của văn minh
Trung Hoa đã được Khổng Tử tổng kết và viết ở đây, Trống đồng là linh khí của họ Hùng cũng ra đời ở miền
đất này.
Với bề dày lịch sử từ thời Hùng Vương
dựng nước “câu ngàn năm văn hiến” vẫn chưa xứng tầm nếu
kể từ thời Thần Nông Viêm Đế phải nói là “vạn năm văn
hiến” mới đúng.
10 , Hoàng Hà – là Đế thủy của Tần thủy
hoàng
Tần Thủy Hoàng đặt tên là Đức Thủy, đúng thực là Đế
Thủy tức sông Vua, sông chúa dịch qua Hán ngữ là Hoàng
Hà chứ nào phải sông vàng, sông bạc hay sông có màu
nước màu vàng như sử Trung Hoa thường giải thích.
Ý khác: tên cũ của Hoàng hà làVỹ Thủy
nghĩa là con sông lớn, vỹ là to lớn, địa lý Trung Hoa
viết sai thành Vị Thủy, tức sông Vị; Vỹ Thủy – con sông
to, Việt Nam ghi thành sông “Tô Lịch”, chữ sông là thừa
vì Tô; to; Lịch: lạch, con lạch to … dịch sang thành Vỹ
Thủy, … rồi Vị Thủy.
Trang sử mở nước của Trụ Vương chắc chắn đẫm máu đào
vì miền đất ven bờ Hoàng Hà là trung tâm của dân Lu hay
Liêu, cuộc chiến bất tận Hoa – Man bắt đầu từ đấy kéo
dài hơn 3.000 năm mới kết thúc trong thế giới hiện đại
11 , Hán Thủy : tên đúng phải là Hưng thủy
tượng trưng cho cơ nghiệp của Lý Bôn – Lưu Bang ., triều
Hiếu mà sử Tàu gọi là Tây Hán đã dựng nghiệp nơi
thượng nguồn con sông này .
Hán – Sở chỉ là cặp đối tam sao thất bổn
của Hên – sui, hơn – thua, hưng – suy Vì bản thân cặp từ
‘Hán – Sở’ chẳng nói lên ý nghĩa gì .
Có nhiều người nói ngược …vì khởi nghiệp nơi thượng
nguồn sông Hán nên tên triều đại do Lưu Bang lập ra mới
gọi là triều Hán …thực ra thì Sau cuộc chống Tần thành
công Hạng Vũ nhân danh vua nổi đậy bù nhìn Sở hoài vương
phân phong đất cho những người có công ….Lưu Bang bị Hạng
Vũ ghét cay ghét đắng nên phân cho vùng đất hẻo nhất…
toàn đồi với núi lại giáp với đất của Hung nô ….nhờ vả
chạy chọt mãi mới được thêm vùng sau là thượng nguồn
sông Hán .
Tên gọi Hán vương – Sở vương chỉ là những
tên người viết sử đặt về sau vì Lưu Bang thắng Hạng Vũ
nên là Hên – Hơn – Hưng vương còn Hạng Vũ thua cuộc nên
gọi là Sui – Thua – Suy vương .
Hán vương thực ra là Hưng vương nên Trung hoa
không hề có sông Hán chỉ có Hưng giang mà thôi
, Hưng là
từ đã chép trong cổ sử Việt … Lý Bôn – Lưu Bang là Hùng
Trịnh vương – Hưng đức lang .
Con sông chảy qua đất ban đầu của Hưng vương
– Hưng đức lang gọi là Hưng giang là hợp lý …ngược lại
thì trước khi cuộc đối đầu Lưu Bang – Hạng Vũ …có ‘kết
qủa’ thì nào đã biết ai thắng ai thua đâu mà có con sông
Hán – Hưng – Hơn .
Chính tên những con sông là pho sử chép về
qúa khứ mấy ngàn năm mà tiền nhân người Việt đã khắc
vào đất trời, đấy là dấu chỉ chắc chắn nhất, chân
xác nhất không thể nào phủ nhận được .
Văn Nhân - Nguyễn Quang Nhật
Nguồn: huvi.wordpress.com
|