23
tháng 8 năm 2004
Người phụ nữ
Việt Nam mở nước đầu tiên không ai khác hơn là Hai Bà Trưng. Tiểu sử
cũng như sự nghiệp của Hai Bà đă được nói đến nhiều. Có lẽ chỉ cần
thêm một ư kiến về Hai Bà hầu như ít được nêu ra. Đó là trong lịch sử
thế giới, Hai Bà khởi nghĩa chống ngoại xâm năm 40 sau Công nguyên, là
những bậc nữ lưu đầu tiên đứng lên tranh đấu giành độc lập cho đất
nước, trước nữ anh hùng Jeanne d'Arc (1412-1443 của Pháp gần 14 thế
kỷ. Sau Hai Bà Trưng, trong số những phụ nữ mở nước, phải kể đến các
công chúa Huyền Trân, Ngọc Vạn và Ngọc Khoa.
-
1.- CÔNG CHÚA
HUYỀN TRÂN
Vào cuối thế kỷ
13, sau khi cùng liên kết đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ, mối
giao hảo giữa Đại Việt và Chiêm Thành (Champa) khá tốt đẹp. Tháng 2
năm tân sửu (130, nước Chiêm Thành gởi sứ giả và phẩm vật sang thăm
viếng ngoại giao. Khi đoàn sứ giả Chiêm Thành về nước, thái thượng
hoàng Trần Nhân Tông đi theo. Lúc đó thượng hoàng đă xuất gia đi tu,
gặp khi rảnh rỗi, ông qua thăm Chiêm Thành, vừa để trả lễ, vừa để du
ngoạn, từ tháng 3 đến tháng 11 âm lịch cùng năm.
Vua Chiêm Thành
là Chế Mân (Jaya Simhavarman IV, trị v́ 1287-1307), nguyên là thái tử
Bổ Đích (Harijit), con đầu của vua Jaya Simhavarman III hay
Indravarman XI (trị v́ 1257-1287). Thời kháng Nguyên, vua Jaya
Simhavarman III đă già, Bổ Đích nắm trọng trách điều khiển việc nước,
và đă chỉ huy quân Chiêm đẩy lui lực lượng của Toa Đô (Sogatu).
Trong cuộc gặp
gỡ với vua Chế Mân, Trần Nhân Tông hứa gả con gái ḿnh là công chúa
Huyền Trân cho Chế Mân. Có thể lúc đó Trần Nhân Tông muốn làm cho nền
bang giao giữa hai nước Việt Chiêm bền vững qua cuộc hôn nhân nầy.
Lời hứa của thượng hoàng Trần Nhân Tông gặp nhiều phản bác về phía
triều đ́nh nước ta. Thời đó, quan niệm khắc khe về phân biệt chủng
tộc đă khiến cho các quan và cả Trần Anh Tông, vị vua đương triều,
ngăn trở cuộc hôn nhân nầy.
Măi đến khi Chế Mân quyết định tặng hai châu Ô và Rí
(Lư) ở phía bắc Chiêm Thành làm sính lễ, Trần Anh Tông mới nhận lời,
và lễ cưới diễn ra năm 1306 (bính ngọ). Năm 1307 (đinh mùi), Trần Anh
Tông đổi châu Ô thành Thuận Châu [Thuận = theo, theo lẽ phải], châu Lư
thành Hóa Châu [Hóa = thay đổi, dạy dỗ]. So với ngày nay, Thuận Châu
từ phía nam tỉnh Quảng Trị và phía bắc tỉnh Thừa Thiên ngày nay; Hóa
Châu gồm phần c̣n lại của tỉnh Thừa Thiên và phía bắc tỉnh Quảng Nam
ngày nay; diện tích tổng cộng vùng đất nầy khoảng 10.000 km2.
Huyền Trân được
vua Chế Mân phong tước hoàng hậu Paramecvari. Đám cưới được hơn một
năm, Chế Mân từ trần (1307). Vua Trần Anh Tông thương em, sợ Huyền
Trân bị đưa lên giàn hỏa thiêu chết theo chồng trong tục lệ Chiêm
Thành,( nên nhà vua cho tướng Trần Khắc Chung (tức Đỗ Khắc Chung)
sang Chiêm lấy cớ viếng tang, rồi lập mưu đưa Huyền Trân và con là Đa
Da trở về Đại Việt.(2) Theo Đại Nam nhất thống chí, quyển 16 viết về
tỉnh Nam Định, sau khi trở về nước, Huyền Trân công chúa đă đến tu ở
chùa Nộn Sơn, xă Hổ Sơn, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam
Định. Sách nầy không cho biết chính xác thời điểm công chúa đi tu,
nghĩa là công chúa đă đi tu ngay khi về nước hay sau khi đă về
già?(3) Số phận hoàng tử Đa Da không được sử sách nhắc đến.
-
Cuộc hôn nhân
Huyền Trân và Chế Mân tượng trưng cho sự phát triển một cách ḥa thuận
về phương nam theo truyền thống sống cùng và để người khác cùng sống
của người Việt. Sự hy sinh của công chúa Huyền Trân đă được một tác
giả vô danh đề cao trong một bài ca Huế theo điệu nam b́nh rất được
truyền tụng cho đến ngày nay:
Nước non ngàn
dặm ra đi, mối t́nh chi,
Mượn màu son
phấn, đền nợ Ô Ly,
Đắng cay v́,
đương độ xuân th́,
Số lao đao
hay nợ duyên ǵ?
Má hồng da
tuyết, quyết liều như hoa tàn trăng khuyết,
Vàng lộn với
ch́,
Khúc ly ca cớ
sao mà mường tượng Nghê thường!
Thấy chim
hồng nhạn bay đi, t́nh tha thiết.
Bóng dương
hoa quỳ
Nhắn một lời
Mân quân, nay chuyện mà như nguyện,
Đặng vài
phân, v́ lợi cho dân,
T́nh đem lại
mà cân,
Đắng cay trăm
phần...(4)
2.- CÔNG CHÚA
NGỌC VẠN
-
Vào đầu thế kỷ
17, sau khi Nguyễn Hoàng từ trần năm 1613, con là Săi Vương Nguyễn
Phúc Nguyên, lúc đó 51 tuổi (tuổi ta), lên kế vị và cầm quyền ở Đàng
Trong từ 1613 đến 1635. Theo di mệnh của Nguyễn Hoàng, Săi Vương quyết
xây dựng Đàng Trong thật vững mạnh để chống lại chúa Trịnh ở Đàng
Ngoài. Do đó, ông giao hảo với các nước phương nam để củng cố vị thế
của ông.
Phía nam nước ta
là Chiêm Thành và Chân Lạp (tức Cambodia ngày nay). Lúc đó, vua Chân
Lạp mới lên ngôi là Chey Chetta (trị v́ 1618-1628). Ông nầy muốn kết
thân với chúa Nguyễn để làm thế đối trọng với vua Xiêm La (Siam tức
Thái Lan ngày nay), nên đă cầu hôn với con gái Săi Vương.
Không có sử sách
nào ghi lại diễn tiến đưa đến cuộc hôn nhân nầy. Có thể v́ ngày
trước, quan niệm người Chân Lạp là man di, nên các sách sử nhà Nguyễn
tránh không ghi lại việc nầy. Bộ Đại Nam liệt truyện tiền biên, khi
ghi chép về các con gái của Săi Vương, đến mục „Ngọc Vạn“, đă ghi
rằng: „Khuyết truyện“ tức thiếu truyện, nghĩa là không có tiểu sử.
Gần đây, bộ gia phả mới ấn hành năm 1995 của gia đ́nh chúa Nguyễn cho
biết là vào năm 1620 (canh thân) Săi Vương gả người con gái thứ nh́ là
Nguyễn Phúc Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey-Chetta II.(5)
Ba năm sau cuộc
hôn nhân của Ngọc Vạn, Săi Vương cử một sứ bộ sang Chân Lạp xin vua
Chey-Chetta II nhượng khu dinh điền ở vùng Mô Xoài, gần Bà Rịa ngày
nay. Nhờ sự vận động của hoàng hậu Ngọc Vạn, vua Chân Lạp đồng ư cho
người Việt đến đó canh tác. Đây là lần đầu tiên người Việt chính thức
đặt chân lên đất Chân Lạp, và Mô Xoài là bàn đạp để người Việt dần dần
tiến xuống đồng bằng sông Cửu Long.
Chồng công chúa
Ngọc Vạn, vua Chey-Chetta II từ trần năm 1628. Từ đó triều đ́nh Chân
Lạp liên tục xảy ra cuộc tranh chấp ngôi báu giữa các hoàng thân. Năm
1658 (mậu tuất) hai hoàng thân So và Ang Tan nổi lên đánh vua Chân Lạp
lúc bấy giờ là Nặc Ông Chân (trị v́ 1642-1659), nhưng thất bại, xin
nhờ thái hậu Ngọc Vạn giúp đỡ. Thái hậu Ngọc Vạn chỉ cách cho hai
người nầy cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn lúc bấy giờ là Hiền Vương
Nguyễn Phúc Tần, cháu gọi thái hậu Ngọc Vạn bằng cô ruột, liền cử phó
tướng Tôn Thất Yến (hay Nguyễn Phúc Yến), đang đóng ở Phú Yên (dinh
Trấn Biên), đem 3.000 quân qua giúp, bắt được Nặc Ông Chân ở vùng Mô
Xoài (Bà Rịa ngày nay), đưa về giam ở Quảng B́nh v́ lúc đó nhà chúa
đang hành quân ở Quảng B́nh. Tại đây, Nặc Ông Chân từ trần năm
1659.(6)
-
Chúa Nguyễn
phong So lên làm vua Chân Lạp tức Batom Reachea (trị v́ 1660-1672).
Từ đó, nước ta càng ngày càng can thiệp vào công việc của Chân Lạp và
đưa người thâm nhập nước nầy, dần dần tiến đến sinh sống tận mũi Cà
Mau như ngày nay.
Như thế, đă hai
lần bà Ngọc Vạn đă dẫn đường cho người Việt mở đất về phương nam. Lần
thứ nhất sau cuộc hôn nhân năm 1620 và lần thứ nh́ trong cuộc tranh
chấp nội bộ vương quyền Chân Lạp năm 1658.
3.- CÔNG CHÚA
NGỌC KHOA
Như trên đă
viết, Săi Vương Nguyễn Phúc Nguyên có bốn cô con gái. Hai người lớn
nhất và trẻ nhất có chồng Việt. Người thứ nh́ là công chúa Ngọc Vạn
kết hôn với vua Chân Lạp. Vậy số phận cô công chúa thứ ba tên là
Nguyễn Phúc Ngọc Khoa như thế nào mà trong Đại Nam liệt truyện tiền
biên, tiểu truyện của Ngọc Khoa cũng đề là „khuyết truyện“ ?
May thay, sách
Nguyễn Phúc tộc thế phả, do chính Hội Đồng Nguyễn Phúc tộc viết lại,
đă chép rằng:"...Năm tân mùi [1631] bà [Ngọc Khoa] được đức Hy Tông
[Săi Vương] gả cho vua Chiêm Thành là Pôrômê. Nhờ có cuộc hôn phối nầy
mà t́nh giao hảo giữa hai nước Việt Chiêm được tốt đẹp (7)
Vấn đề không đơn
giản chỉ là t́nh giao hảo giữa hai nước, mà lư do cuộc hôn nhân nầy
c̣n sâu xa hơn nhiều.
Thứ nhất, chiến
tranh giữa hai miền Nam Bắc vừa mới bùng nổ năm đinh măo (1627) tại
vùng Bố Chính (Quảng B́nh ngày nay).
Thứ nh́, năm
1629, lưu thủ Phú Yên là Văn Phong (không biết họ) liên kết vơi người
Chiêm Thành nổi lên chống lại chúa Nguyễn. Săi Vương liền cử Phó tướng
Nguyễn Hữu Vinh, chồng của công chúa Ngọc Liên, đem quân dẹp yên, và
đổi phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.(8) Săi Vương rất lo ngại nếu ở
phía nam, Chiêm Thành mở cuộc chiến tranh chống chúa Nguyễn th́ ông sẽ
lâm vào t́nh trạng“lưỡng đầu thọ địch“.
Thứ ba, vào cuối
thế kỷ 16, người Chiêm Thành thường buôn bán với người Bồ Đào Nha ở
Macao, thuộc địa của Bồ trên đất Trung Hoa. Thương thuyền Bồ Đào Nha
hay ghé buôn bán trao đổi với người Chiêm ở các hải cảng Cam Ranh và
Phan Rang.(9) Do đó, nếu triều đ́nh Chiêm Thành liên kết với người Bồ
Đào Nha để chống lại Đại Việt, th́ thật là nguy hiểm chẳng những cho
chúa Nguyễn và nguy hiểm cho cả nước ta. Điều nầy làm cho chúa Nguyễn
lo ngại, nhất là khi Pô Ro mê là một người anh hùng, lên làm vua Chiêm
Thành (trị v́ 1627-165.(10)
Có thể v́ các
nguyên nhân trên, Săi Vương quyết định phải dàn xếp với Chiêm Thành,
và đưa đến cuộc hôn nhân ḥa hiếu Việt Chiêm năm 1631 giữa Ngọc Khoa,
con của Săi Vương, với vua Chiêm là Poromê, nhắm rút ng̣i nổ của phía
Chiêm Thành, bảo đảm an ninh mặt nam.
Các sách tây
phương ghi nhận rằng không hiểu v́ sao, sau năm 1639 th́ cuộc giao
thương giữa Chiêm Thành và người Bồ Đào Nha không c̣n được nghe nói
đến nữa.(1 Phải chăng việc nầy là hậu quả của chuyện công chúa
Ngọc Khoa sang làm hoàng hậu Chiêm Thành tám năm trước đó (163?
Sử sách không
ghi lại là bà Ngọc Khoa đă làm những ǵ ở triều đ́nh Chiêm Thành, chỉ
biết rằng truyền thuyết cũng như tục ngữ Chiêm Thành đều có ư trách
cứ, nếu không muốn nói là phẫn nộ, cho rằng bà Ngọc Khoa đă làm cho
vua Pô Ro mê trở nên mê muội và khiến cho nước Chiêm sụp đổ.
Trong sách Dân
tộc Chàm lược sử, hai ông Dohamide và Dorohiem cho biết theo lời của
một vị "Pô Thea", người phụ trách giữ tháp Pô Ro mê, kể cho tác giả E.
Aymonier câu chuyện rằng vua Pô Ro mê có ba vợ. Bà vợ đầu là Bia
Thanh Chih, con của vị vua tiền nhiệm đă truyền ngôi cho Pô Ro mê. Bà
nầy không có con. Pô Ro mê cưới người vợ thứ nh́ là một cô gái gốc Ra
đê, tên là Bia Thanh Chanh. Bà nầy sinh được một công chúa, sau gả
cho hoàng thân Phik Chơk. Hoàng thân Phik Chơk lại "liên kết với vua
Yuôn [chỉ người Việt] và cho triều đ́nh Huế rơ nhược điểm trong tâm
tánh của Pô Ro mê: sự yếu đuối trước sắc đẹp mỹ nhân. Vua Yuôn đă cho
một công chúa thật đẹp giả dạng làm khách thương sang nước Chàm. Do sự
sắp xếp khéo léo, tin tức về nữ khách thương duyên dáng ngoại bang nầy
đến tai Pô Ro mê, nên Pô Ro mê đă cho dời đến và khi vừa thấy mặt th́
đă phải ḷng ngay. Người Chàm gọi vị công chúa Yuôn nầy là Bia Ut hay
Nữ Hoàng Ut cũng thế. (12)
Theo truyền
thuyết Chiêm Thành, bà Ngọc Khoa hay Bia Ut đă dùng sắc đẹp mê hoặc Pô
Ro mê, khiến ông chặt bỏ cây "kraik", biểu tượng thiêng liêng của
vương quốc Chiêm Thành, v́ vậy sau đó vương quốc nầy sụp đổ.(13) Dân
chúng Chàm thường truyền tụng câu đố: "Ô hay ngài linh thiêng, rước vợ
từ kinh, lim ngài mất ứng."(Sanak jak po ginrơh patrai, tok kamei Ywơn
mưrai kraik po lihik ginrơh). Ngoài ra, người Chàm c̣n dùng tên bà
Bia Ut trong một câu thành ngữ để mỉa mai những phụ nữ béo mập: "Béo
như bà Ut " (Limuk you Bia Ut).(14)
Ngoài việc thần
linh hóa câu chuyện, truyền thuyết trên đây đă phản ảnh một phần sự
thật lịch sử, đó là nước Chiêm Thành, một lần nữa suy yếu hẳn đi sau
cuộc hôn nhân Việt Chiêm năm 1631, nhờ đó, người Việt nhanh chóng vượt
qua Chiêm Thành, xuống đồng bằng sông Cửu Long.
Như thế, hai
công chúa Ngọc Khoa và Ngọc Vạn, tuy không chính thức đem lại đất đai
về cho đất nước như công chúa Huyền Trân, nhưng cả hai đều đă mở đường
cho cuộc Nam tiến, và quả thật khoảng một thế kỷ sau đó, chúa Nguyễn
đă mở rộng biên cương về phía nam như địa h́nh nước Việt ngày nay.
Trong lịch sử,
những chiến công oanh liệt để bảo vệ đất nước và mở nước ở dạng bùng
nổ luôn luôn được ghi nhận đầy đủ, nhưng những cuộc mở nước âm thầm
như việc làm của các bậc nữ lưu trên đây ít được chú ư đến. Thi sĩ
Pierre Corneille (Pháp, 1606-1684), trong kịch phẩm cổ điển Le Cid, đă
viết: „A vaincre sans péril, on triomphe sans gloire“ (Chiến thắng
không gian nguy th́ khải hoàn không vinh dự). Tuy nhiên những cuộc mở
nước êm đềm, không tốn xương máu của dân tộc, th́ chỉ có những bậc nữ
lưu can đảm và anh hùng như trên mới có thể thực hiện.
TRẦN GIA
PHỤNG
CHÚ THÍCH:
1. Nghi lễ vợ hỏa thiêu theo chồng trong Ấn
giáo gọi là trà tỳ (suttee), c̣n thịnh hành ở Ấn Độ cho đến khi người
Anh cai trị và băi bỏ vào năm 1829.
2. Đại Việt sử kư toàn thư [chữ Nho], Hà Nội:
bản dịch Nxb. Khoa học Xă hội, 1993, tập 2, tr. 91.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất
thống chí, bản dịch tập 3 của Viện Sử học, Huế: Nxb. Thuận Hoá tái
bản, 1997, tr. 358.
4. Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, Trần Lê
thời đại [Quyển 2], Nxb. Văn Hữu Á Châu, Sài G̣n, 1959, tt. 272-273.
5. Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc, Nguyễn
Phúc tộc thế phả, Huế: Nx. Thuận Hóa, 1995, tt. 113-114, 126. Trần
Trọng Kim trong VNSL bỏ qua sự kiện nầy. Trong Việt sử xứ Đàng
Trong, Phan Khoang chép việc nầy nhưng không đưa tên công chúa Ngọc
Vạn. Trong phần chú thích, ông viết : "Việc nầy sử ta đều không chép,
có lẽ các sử thần nhà Nguyễn cho là việc không đẹp nên giấu đi chăng?
" Sau đó, Phan Khoang cẩn án rằng: "...Xem Liệt truyện tiền biên, mục
công chúa, thấy chúa Hy Tông có bốn con gái, hai nàng Ngọc Liên và
Ngọc Đảnh th́ có chép rơ sự tích chồng con, c̣n hai nàng Ngọc Vạn,
Ngọc Khoa th́ chép là "khuyết truyện", nghĩa là không rơ tiểu truyện,
tức là không biết chồng con như thế nào. Vậy người gả cho vua Chey
Chetta II phải là Ngọc Vạn hay Ngọc Khoa." (Phan Khoang, Việt sử xứ
Đàng Trong [Sài G̣n], Houston: Nxb. Xuân Thu tái bản không đề năm, gồm
2 quyển thượng và hạ, đánh số trang xuyên suốt từ q. thượng qua q. hạ,
tt. 400-40 Phan Khoang có lư khi viết như vậy. Về khu dinh điền,
sách Thế phả (tr. 113) nói vùng Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay). Sách của
Phan Khoang (trang 40 viết là Prey Kôr tức Sài Côn hay Sài G̣n ngày
nay, nhưng dựa vào lời tấu tŕnh của Nguyễn Cư Trinh năm 1755, nói
rằng người Việt vào Hưng Phước, Đồng Nai (nói chung là Phước Long),
rồi mới đến Sài Côn, vậy Thế phả đúng.
6. Phan Khoang,
"Cuộc
tranh giành ảnh hưởng ở nước Chân Lạp giữa Tiêm La và các chúa Nguyễn"
, đăng trên tập sang Sử Địa, số 14, Sài G̣n: 1969, tr.
78. Phan Khoang dựa vào tài liệu của người Pháp viết như trên. Các
sách trước đây chép rằng Nặc Ông Chân chịu thần phục nên được Hiền
Vương cho đưa về nước tiếp tục cai trị.
7. Thế phả, sđd. tr. 126.
8. Trấn Biên: thường được dùng để đặt tên cho
những dinh vùng biên giới. Khi biên giới được mở rộng, dinh Trấn Biên
xuống đến vùng Biên Ḥa ngày nay. Nguyễn Phúc Vinh: tên thật là Mạc
Cảnh Vinh, con của Mạc Cảnh Huống, có vợ là Nguyễn Phúc Ngọc Liên, con
gái đầu của Săi Vương, nên được đổi qua quốc tính là Nguyễn Phúc.
9. Pierre Bernard Lafont, "On the Relations
Between Champa and Southeast Asia", đăng trong sách Proceedings of the
Seminar on Champa, gồm những bài thuyết tŕnh trong cuộc hội thảo quốc
tế về Chiêm Thành tại đại học Copenhagen (Đan Mạch) ngày 23-5-1987.
Sách nầy nguyên bản bằng Pháp văn, do Hội Nghiên cứu Lịch sử và Văn
hóa Bán đảo Đông Dương, Paris ấn hành năm 1988, đă được giáo sư Huỳnh
Đ́nh Tế dịch sang Anh văn, ấn hành tại California, Nxb. Southeast Asia
Community Resource Center (viết tắt SACRC), 1994, tr. 73.
10. Pô Ro mê là một vị vua anh hùng của Chiêm
Thành, cai trị khá lâu nước nầy trong thời gian 24 năm (1627-165.
"Với những chiến công hiển hách được tô thêm nhiều chi tiết huyền
thoại, Pô Ro mê đă được người dân Chàm thần linh hóa..." (Dohamide và
Dorohiem, Dân tộc Chàm lược sử, Sài G̣n: 1965. tr. 147.)
11. Pierre Bernard Lafont, bđd., sđd. tr. 73.
12. Dohamide và Doroheim, sđd. tr. 149.
13. Ngô Văn Doanh, Tháp cổ Chămpa, Sự thật &
Huyền thoại, Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin, 1994, tt. 187-196.
14. Inrasara, Văn học dân gian Chăm, tục ngữ -
thành ngữ - câu đố, TpHCM: Nxb. Văn hóa Dân tộc, 1995, tr. 201, 230.
[Tác giả Insara có tên Việt là Phú Trạm.]
-