Một tờ
thủ dụ hàng ngộ nghĩnh, xáo trộn văn chương quân sự, lời lẽ ngoại giao với
những luận bàn về y học.
Tháng tám năm Canh Th́n (980) vua nước Tống sai Lư Đa Tốn
đem thư sang dụ hàng vua nước ta là Lê Đại Hành. Cùng với việc gởi tối hậu
thư, chúng cử Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Hắc Thủ Tuấn và Thôi Lương, chia
quân làm bốn hướng sẵn sàng tấn công tiêu diệt quân Nam. Lá thư dụ hàng lời
lẽ ngạo mạn nhưng nội dung lại có nhiều ư rất đặc biệt, ngộ nghĩnh. Đọc
trong đó ta thấy tác giả lá thư toàn đem chuyện thuốc thang, chữa bệnh, châm
cứu ra luận bàn, kết hợp với chuyện chiến tranh, b́nh định.
Tối hậu thư
viết:
“Trung Hoa
đối với Man Di ( cũng như thân người có tứ chi, vận động duỗi co tùy ở tim
ḿnh, cho nên nói tim là chủ.
Nếu ở một
tay, một chân mà mạch máu ngưng đọng, gân cốt không yên th́ phải dùng thuốc
thang để chữa. Chữa mà không công hiệu th́ lại phải châm cứu cho kỳ khỏi,
không phải là không biết thuốc thang th́ đắng miệng mà châm chích th́ rách
da. Phải làm như thế là v́ tổn hại ít mà lợi ích nhiều. Kẻ làm vua thiên hạ
cũng phải làm như vậy chăng? Cho nên Thái Tổ Hoàng Đế ta nhận ngôi do nhà
Chu nhường, đổi tên nước là Tống, văn vật trong sáng, một phen biến đổi theo
xưa, ở ngôi đế vương mà nh́n Man Di mắc bệnh. Cho nên năm thứ nhất, thứ hai
th́ thuốc thang cho các đất Kinh, Thục,Tương, Đàm; năm thứ ba th́ châm cứu
cho các miền Quảng, Việt, Ngô, Sở gân cốt huyết mạch ra dáng trẻ con, có
phần khỏe mạnh.
Không do cơ
trí thần diệu sáng suốt của bậc vương giả mà trù liệu được đến thế ư? Đến
khi ta nối giữ cơ nghiệp lớn, đích thân coi chính sự, cho rằng đất Phần, đất
Tinh là bệnh ở ḷng bệnh, nếu ḷng bệnh chưa chữa khỏi th́ làm sao chữa nổi
tứ chi? V́ thế mới luyện thuốc thang bằng nhân nghĩa, sửa đổi châm cứu bằng
đạo đức, hết sức chữa cho các đất Phần, đất Tinh, chỉ một lần là khỏi bệnh,
chín châu bốn biển đă mạnh lại yên.
Chỉ có Giao Châu của người ở xa cuối trời, thực là ngoài
năm cơi. Nhưng phần thừa của tứ chi ví như ngón tay, ngón chân của thân
người, tuy chỉ một ngón bị đau, bậc thánh nhân lại không nghĩ đến hay sao?
Cho nên phải mở ḷng ngu tối của người để thanh giáo của ta trùm toả, người
có theo chăng? Huống chi từ thời Thành Chu, nước ngươi đă đem chim trĩ trắng
sang dâng, đến thời Viêm Hán dựng cột đồng làm mốc, cho đến thời Lư Đường
vẫn thuộc về nội địa. Cuối thời đường th́ nhiều họa nạn, chưa kịp xử trí.
Nay thánh triều ḷng nhân trùm khắp muôn nước, cơ nghiệp thái b́nh nghĩ cũng
đă thịnh. Lễ phân pḥng đă sắp đặt sẵn, c̣n đợi ngươi đến chúc sức khỏe của
ta. Ngươi đừng ru rú trong bốn góc nhà khiến cho ta buồn phiền phải chém cờ,
bổ sọ làm cỏ nước ngươi, hối sao cho kịp? Dù cho sông nước ngươi có ngọc, ta
vứt xuống suối; núi của ngươi sẵn vàng, ta ném xuống bụi để thấy chẳng phải
ta tham của báu của nước ngươi. Dân của ngươi hay bay nhảy (ư nói sống hoang
dă). C̣n ta th́ có ngựa xe; dân của ngươi th́ uống mũi, c̣n ta th́ có cơm
rượu để thay đổi phong tục của người; dân ngươi th́ bắt tóc c̣n ta th́ có áo
mũ, dân ngươi nói tiếng chim c̣n dân ta th́ có Thi, Thủ để dạy lễ cho dân
ngươi. Cơi nóng chói chang, khói hơi mù mịt, ta toả mây Nghiêu tưới cho mưa
ngọt. Khí biển hầm hập, cháy mày chảy đá, ta găy đàn Thuấn quạt làn gió thơm.
Sao trên trời nước ngươi chẳng ai biết tên ǵ, ta quay cḥm tử vi để ngươi
biết chầu về. Đất ngươi nhiều ma quỷ, ai cũng sợ chúng quấy, ta đă đúc vạt
lớn để yểm trừ, khiến chúng không làm hại. Ra khỏi đảo di của người mà xem
nhà Minh đường, Bích ung chăng? Trút áo quần cỏ lá của ngươi mà mặc áo cổn
hoa thêu h́nh rồng núi chăng?
Ngươi có
theo về hay không, chớ mau chuốc lấy tội. Nay ta đang chỉnh đốn xe cộ, quân
lính, truyền hiệu lệnh chiêng trống. nếu chịu theo giáo hóa, ta sẽ tha tội
cho, nếu trái mệnh ta sẽ sai quân đánh. Theo hay chống, lành hay dữ tự ngươi
xét lấy…” (Trích từ: Đại Việt Sử Kư Toàn Thư của Ngô Sỹ Liên).
Cách đây nhiều
ngh́n năm mà viết được một bức thư dụ hàng như thế kể đám văn thần của vua
Tống cũng là những tay không dở. Trừ những lời lẽ ngạo mạn của kẻ tự coi
ḿnh là “bá quyền nước lớn”, xem đối phương là man mọi; trừ những câu khoa
trương, phách lối như “vứt ngọc xuống suối, ném vàng vào bụi” để tỏ ư không
phải v́ lợi mà chuộng điều khai hoá, nhân nghĩa như “toả mây Nghiêu” ”gảy
đàn Thuấn”, ta thấy tác giả lá thư dụ hàng khi cương lúc nhu, đem việc chiến
tranh ra luận bàn kết hợp với việc mổ xẻ, phân tách về thuật chữa bệnh và
châm cứu, coi nước ta hồi đó nhỏ bé, yếu ớt, ốm đau như một con bệnh. Ai ngờ,
trước những lời đe dọa đó của vua Tống, Lê Đại Hành của ta đă không tỏ ra sợ
hăi mà ngay năm 981, tức là một năm sau khi lên ngôi, đă đáp lại vua Tống
bằng mấy mũi “châm cứu” vô cùng thần hiệu. Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn đă
không chịu hàng mà c̣n đánh tan lực lượng tấn công vô cùng dũng mănh, to lớn
của quân ngoại xâm. Ông sai đóng cọc ngăn sông Bạch Đằng để chặn bước tiến
của tướng giặc Lưu Trường, đánh tan Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng ở Lạng Sơn.
Trần Khâm Tộ ở Tây Kết nghe thủy quân thua trận bèn bỏ chạy, quân ta thừa
thắng tiêu diệt một nửa quân số của địch, bắt sống tướng giặc là Quách Quân
Biện và Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư.
Sau trận này,
vua Tống quở trách bọn tay chân của ḿnh như Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Sọan.
Trừng ốm chết, Soạn bị giết ở Ung Châu, Tôn Toàn Hưng cũng bị giết bêu đầu ở
chợ. Chúng không ngờ cái dân tộc mặc quần áo “cỏ lá”, nói tiếng như chim đă
không thèm mặc “áo cổn hoa thêu h́nh
rồng núi” như chúng mời mọc, dỗ dành đă vùng lên anh dũng chống ngọai
xâm, dành độc lập nối tiếp truyền thống bất khuất tốt đẹp của Lạc Việt.
TIÊU LANG
– TÔ KIỀU NGÂN
( Ư nói dân
Việt là giống mọi rợ, hèn kém phải cầu cai trị, khai hóa. |