Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Trận Ngọc Hồi - Đầm Mực (31 - 1 - 1789)

Trong chiến dịch Thăng Long, đầu xuân Kỷ Dậu (1789), trận Ngọc Hồi -Đầm Mực có một vị trí to lớn. Đây là một trận then chốt quyết định, trận quyết chiến lớn giữa quân đội Tây Sơn do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy với quân xâm lược Măn Thanh ở cửa ngơ phía nam Thăng Long.

Cuối năm 1788, 29 vạn quân Thanh do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh, theo sự dẫn đường của bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống, đă tràn vào nước ta, chiếm được kinh thành Thăng Long và cả vùng đồng bằng Bắc hà. Lúc đó quân Tây Sơn đồn trú ở phía Bắc do Đại tư mă Ngô Văn Sở chỉ huy có khoảng 1 vạn, do t́nh thế bất lợi, đă theo kế của Ngô Th́ Nhậm, tạm rút về pḥng giữ ở Tam Điệp và Biện Sơn.

Tự măn với thắng lợi bước đầu, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh tạm thời dừng tiến công, cho quân nghỉ ngơi ăn tết Nguyên Đán ở Thăng Long, sai người về báo tin thắng trận, xin thêm lương thảo, vũ khí và quân số, để mồng 6 tháng Giêng sẽ tiến binh "vào tận sào huyệt bắt sống Nguyễn Huệ". Tuy dừng lại tạm thời, nhưng Tôn Sĩ Nghị cũng thận trọng chia quân đóng giữ các ngả theo đội h́nh tiến công lớn, để pḥng bị quân Tây Sơn tiến công bất ngờ.

Quân Thanh tạm ngừng tiến công và đóng theo năm cụm lớn sau đây: cụm thứ nhất là đạo quân chủ lực do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy, đóng doanh trại trên băi cát hai bên bờ sông Hồng, khoảng Bồ Đề, ở giữa có cầu phao qua lại. Cụm thứ hai do phó tướng Đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi gần với trục đường thiên lư, phía nam Thăng Long. Cụm thứ ba là quân Điền Châu và Triều Châu do tri phủ Sầm Nghi Đống chỉ huy, đóng ở Khương Thượng (Đống Đa - Hà Nội). Cụm thứ tư là quân Vân Quư do Đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy, đóng ở Sơn Tây (Hà Tây). Cụm thứ 5 là quân Khâm Châu theo đường biển tiến vào đóng ở Hải Dương. Đại bản doanh Tôn Sĩ Nghị đóng ở cung Tây long.

Sau khi nhận được tin từ Bắc Hà cấp báo về quân Thanh đă chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lúc đó ở Phú Xuân (Huế) đă nhanh chóng làm lễ đăng quang, lập ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Quang Trung và lập tức hạ lệnh xuất quân. Quân Tây Sơn do Quang Trung - Nguyễn Huệ thống lĩnh theo hai đường thủy bộ tiến ra Bắc. Sau 25 ngày (tức 15 tháng 1 năm 1789), đại quân tập kết tại Tam Điệp - Biện Sơn. Tại đây, Quang Trung đă quyết định mở cuộc phản công chiến lược và vạch kế hoạch tác chiến, nhằm nhanh chóng đánh tan quân Thanh, giải phóng Thăng Long và cả nước.

Tổng số quân Tây Sơn lúc đó khoảng 10 vạn. Quân địch ngoài 29 vạn quân xâm lược c̣n có khoảng 2 vạn quân "cần vương" của bù nh́n Lê Chiêu Thống mới tập hợp. So sánh lực lượng có sự chênh lệch lớn, nhưng nhận thấy quân địch có nhiều yếu điểm và sơ hở, Quang Trung khẳng định quyết tâm chiến lược, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc tiến công. Ông đă cho quân ăn Tết trước và tuyên bố trước ba quân: "Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đă có tính sẵn. Chẳng qua mười ngày, có thể đuổi được người Thanh". Ông hẹn, sẽ giải phóng Thăng Long trước ngày mồng 6 tháng Giêng, để ngày mồng 7 mở tiệc lớn ăn mừng thắng lợi.

Quang Trung chia quân thành 5 đạo theo nhiều hướng cùng một lúc tiến công tiêu diệt quân Thanh. Hai đạo tiến công cụm quân địch ở phía nam Thăng Long, tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, một đạo do Đô đốc Long (có tài liệu nói là Đặng Tiến Đông) chỉ huy, tiến theo hướng tây nam, tiêu diệt cụm quân Điền Châu và Triều Châu của tướng Sầm Nghi Đống; một đạo do Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy vượt biển tiêu diệt cụm quân giặc ở Hải Dương và "sẵn sàng tiếp ứng phía đông", uy hiếp sườn đông đạo quân Tôn Sĩ Nghị và một đạo do Đô đốc Lộc chỉ huy, đánh vào sông Lục Đầu chẹn đường rút lui của giặc.

Trong kế hoạch của Quang Trung, hệ thống đồn trại của quân Thanh đóng giữ ở Ngọc Hồi là mục tiêu chủ yếu. Chủ lực Tây Sơn sẽ tiến công chính diện và mănh liệt, tiêu diệt cụm quân Hứa Thế Hanh, mở toang cửa ngơ phía nam Thăng Long. Đây là hướng tiến công chủ yếu và trận Ngọc Hồi sẽ là một trận then chốt quyết định của chiến dịch đại phá quân Thanh.

Hệ thống đồn trại Ngọc Hồi chiếm giữ một vị trí trọng yếu trong đội h́nh quân Thanh. Từ khi được tin Quang Trung đang tuyển quân ở Nghệ An và Thanh Hóa chuẩn bị tiến ra Bắc, Tôn Sĩ Nghị mới lo lắng tăng cường pḥng thủ xung quanh Thăng Long, chủ yếu là mặt nam. Hắn ra lệnh "đề pḥng trước cho quân đi đóng giữ các nơi trên khắp bốn ngả đường". Đặc biệt ở phía nam Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị sai lập thêm nhiều đồn lũy mới, tạo thành một hệ thống pḥng thủ dài gần 80 km từ Gián Khẩu, tiếp theo đó là các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Văn Điển. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập chép: Trên hướng này "từ cửa Thăng Long đến Hà Hồi thuộc Thượng Phúc, người Thanh đóng liền đồn lũy, bắc súng đại bác, phía ngoài đồn th́ đặt ngầm địa lôi, pḥng bị rất vững". Đề đốc Hứa Thế Hanh là phó tướng của Tôn Sĩ Nghị được giao trọng trách trực tiếp chỉ huy mặt trận phía nam, phụ trách hệ thống pḥng thủ chủ yếu này.

Đồn Ngọc Hồi của quân Thanh được xây dựng trên cánh đồng phía nam cách Thăng Long khoảng 14 km. Tại đây, quân Thanh đắp nhiều lũy đất để pḥng vệ. Di tích đồn lũy hiện nay không c̣n, nhưng c̣n được ghi nhớ trong kư ức của nhân dân địa phương và để lại dấu ấn trong một số tên đất ở vùng này như "đồng đồn", "nền đồn", "cây đa đồn" v.v… "Nền đồn" là di tích của nền nhà của viên tướng chỉ huy và "Đồng đồn" là nơi xưa kia có đồn lũy của quân Thanh. Ở gần đấy có "cây da đồn", nơi tập hợp của giặc. Đồn Ngọc Hồi chiếm lĩnh một địa h́nh tương đối cao, khống chế đường thiên lư, ngăn chặn quân Tây Sơn từ Tam Điệp ra; là một đồn lũy kiên cố được Tôn Sĩ Nghị đặc biệt chú ư. Nó là vị trí then chốt trong hệ thống pḥng thủ tạm thời của địch ở phía nam Thăng Long.

Hướng nam là hướng pḥng vệ chủ yếu của đạo quân này. Ở đây có cửa lũy phía nam là nơi quân địch canh pḥng, bảo vệ cẩn mật nhất. Trên chiến lũy có nhiều đại bác. Phía ngoài được bố trí một băi chướng ngại khá phức tạp và nguy hiểm. Chúng cắm chông sắt, làm cạm bẫy và đặt địa lôi. Băi chướng ngại bao quanh đồn, nhưng tập trung chủ yếu vào hướng nam. Trong chiến lũy, địch lập nhiều doanh trại và sở chỉ huy.

Số quân Thanh đóng ở Ngọc Hồi có khoảng 3 - 4 vạn. Đây là một bộ phận quan trọng trong đạo quân chủ lực tinh nhuệ của Tôn Sĩ Nghị, gồm nhiều đội kỵ binh người Măn của đạo kỵ binh Lưỡng Quảng, những đội hỏa pháo, hai đạo bộ binh chính quy của Tổng binh Thượng Duy Thăng và Tổng binh Trương Triều Long. Quân lính được trang bị tốt, ngoài vũ khí bạch binh như gươm đao, giáo mộc, cung tên… c̣n rất nhiều hỏa khí lợi hại như địa lôi, súng tay, đại bác và ống phun hỏa mù. Để chống hỏa hổ của Tây Sơn, quân Thanh c̣n được phân phát những tấm lá chắn bằng da trâu sống.

Đạo quân chủ lực này của địch gồm số quân lính Quảng Đông và Quảng Tây - lực lượng tin cậy nhất của Tôn Sĩ Nghị, dưới sự chỉ huy của phó tướng Hứa Thế Hanh. Trong bộ chỉ huy đạo quân này c̣n có Tổng binh Thượng Duy Thăng và Phó tướng Khánh Thành đốc suất quân lính Quảng Tây; các tổng binh Trương Triều Long và Lư Hóa Long đốc suất binh lính Quảng Đông. Trương Triều Long là tướng chỉ huy tiên phong và Thượng Duy Thăng là tướng chỉ huy quân tả dực của Tôn Sĩ Nghị. Trong số năm tướng lĩnh cao cấp nhất của đạo quân chủ lực, Tôn Sĩ Nghị đă cử ba tướng về đồn Ngọc Hồi và mặt trận nam Thăng Long, đó là Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long và Thượng Duy Thăng. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của Tôn Sĩ Nghị đối với mặt trận này mà ở đó đồn Ngọc Hồi giữ vai tṛ quyết định nhất.

Đồn Ngọc Hồi là nơi tập trung nhiều quân tinh nhuệ và tướng giỏi của giặc. Với vị trí then chốt của nó, nhiệm vụ của cứ điểm này là chi viện cho các đồn khác ở phía nam khi bị tiến công, chặn đứng và đánh tan cuộc tiến công của quân Tây Sơn từ phía nam tiến ra Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị tin rằng, quân Tây Sơn sau khi đă phải đột phá qua nhiều đồn lũy từ Gián khẩu đến Hà Hồi, th́ khó có đủ sức vượt qua được Ngọc Hồi.

Để đánh trận Ngọc Hồi, Quang Trung quyết định sử dụng một lực lượng lớn gồm hai đạo quân. Đạo thứ nhất là đạo quân chủ lực do Quang Trung đích thân chỉ huy và một đạo quân nữa do Đại đô đốc Bảo chỉ huy. Đạo quân của Quang Trung đảm nhận hướng tiến công chủ yếu, là lực lượng chủ lực tinh nhuệ, bảo đảm cơ động nhanh, tiến công mạnh, đột kích khỏe, bao gồm cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh, được trang bị nhiều hỏa hổ và đại bác. Đại tư mă Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân và những tướng Tây Sơn đă quen thuộc chiến trường Bắc Hà, chỉ huy quân tiên phong. Hám Hổ hầu tức Chiêu Viễn tướng quân là người từng chiêu tập hàng vạn tân binh Thanh Nghệ, đốc suất hậu quân. Nhiệm vụ của cả đạo quân này là tiến công chính diện, đánh thắng vào hệ thống pḥng thủ của địch ở nam Thăng Long, mặt trận chủ yếu của quân giặc. Đạo quân do Đại đô đốc Bảo chỉ huy gồm kỵ binh và tượng binh, trong đó có đội voi chiến mạnh, theo đường qua Sơn Minh (Ứng Ḥa, Hà Tây) tiến ra Đại Áng (Thường Tín) ở phía tây nam đồn Ngọc Hồi; có nhiệm vụ "tiếp ứng cho cánh hữu", sắn sàng phối hợp với đạo quân chủ lực của Nguyễn Huệ để đối phó kịp thời với mọi t́nh huống và chủ yếu là bất ngờ từ phía tây tham dự vào trận quyết chiến tiêu diệt đồn Ngọc Hồi giành toàn thắng.

***

Đêm 30 tháng Chạp Mậu Thân (25 - 1 - 1789) cả 5 đạo quân Tây Sơn nhận lệnh tiến công. Vào lúc giao thừa, đạo quân chủ lực của Quang Trung vượt sông Gián Khẩu, mở màn chiến dịch đại phá quân Thanh. Tiền quân Ngô Văn Sở và Phạm Văn Lân bất ngờ tiến công tiêu diệt các vị trí tiền tiêu của giặc ở Gián Khẩu. Các vị trí này do quân của Lê Chiêu Thống đóng giữ. Quân địch hoảng sợ, nhanh chóng tan vỡ và bỏ chạy từ đầu. Quân Tây Sơn thừa thắng tiến lên, tiêu diệt luôn các đồn lũy quân Thanh ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết và Nhật Tảo. Những toán quân Thanh do thám "từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt" (1). Quân Tây Sơn đuổi đến Phú Xuyên (Hà Tây), th́ bắt gọn được toàn bộ tàn quân và bọn lính do thám của địch "không một tên nào chạy thoát" (2).

Toàn bộ đồn lũy của địch từ Gián Khẩu đến Phú Xuyên đều bị hạ mà quân Thanh ở đồn Hà Hồi không hay biết ǵ. Nửa đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu (28 - 1 - 1789) quân Tây Sơn đă tiến đến Thường Tín, bí mật bao vây đồn Hà Hồi (cách Thăng Long khoảng 20 km). Quang Trung cho quân vây chặt rồi bắc loa gọi hàng. Khắp bốn mặt đồn, "tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người" (3). Quân Thanh đóng trong đồn đang ngủ bỗng nghe tiếng quân hô "ai nấy rụng rời, sợ hăi, liền xin ra hàng" (4). Chỉ một bộ phận quân chủ lực, nhưng với hành động bí mật, bất ngờ, kết hợp bao vây uy hiếp dữ dội, quân Tây Sơn chỉ trong chốc lát, không tốn một chiến sĩ, một mũi tên ḥn đạn, đă tiêu diệt trọng một vị trí quan trọng của quân Thanh ở sát con đường thiên lư từ Nam ra.

Quang Trung tạm đóng quân trên cánh đồng Cung ở phía nam Hà Hồi để chuẩn bị cho cuộc tiến công quyết định vào đồn Ngọc Hồi, nơi chủ lực quân Thanh đang đóng giữ. Cũng trong thời gian đó, theo kế hoạch hiệp đồng, đạo quân của đại đô đốc Bảo cũng tập kết tại Đại Áng (xă Hưng Thanh, Thường Tín, Hà Tây), phía tây nam Ngọc Hồi. Đạo quân này đi theo con đường núi ra Vân Đ́nh (Ứng Ḥa, Hà Tây) rồi băng qua nhiều làng xă đến Đại Áng, đóng trên cánh đồng Rền. Lúc đó, trước mặt quân Tây Sơn là một hệ thống đồn lũy pḥng thủ khá kiên cố, có công sự khá vững chắc bảo vệ, có binh lực đông và hỏa lực rất mạnh. Quân Thanh cũng vừa được tăng cường quân số, sẵn sàng chống lại cuộc tiến công của quân Tây Sơn.

Bấy giờ, trong thế trận chung của cả chiến dịch, lực lượng quân Tây Sơn chỉ bằng một phần ba quân địch, nhưng chỉ riêng ở Ngọc Hồi th́ quân Tây Sơn đông hơn hẳn địch. Tuy tại Tam Điệp, Quang Trung đă có kế hoạch tác chiến cho cả chiến dịch, trong đó có cả kế hoạch tiêu diệt đồn Ngọc Hồi; nhưng sau khi diệt đồn Hạ Hồi, Quang Trung cần phải t́m hiểu kỹ hơn về địch và phải vạch ra một kế hoạch chi tiết cho trận quyết chiến ở Ngọc Hồi. Quyết tâm chiến đấu của Nguyễn Huệ thể hiện trong kế hoạch sau đây:

- Toàn bộ lực lượng tượng binh, đại bộ phận bộ binh, kỵ binh và hỏa pháo sẽ được huy động vào cuộc tiến công vào Ngọc Hồi, trong đó đại bộ phận đạo quân chủ lực do Quang Trung đích thân chỉ huy mở cuộc tiến công chính diện vào mặt nam Ngọc Hồi. Nhiệm vụ của cánh quân này là phá tan cứ điểm Ngọc Hồi và tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch ở đây.

- Một bộ phận quân chủ lực được bí mật bố trí sẵn ở phía đông bắc Ngọc Hồi nhằm ngăn chặn quân địch rút theo đường thiên lư và đê sông Hồng về Thăng Long, buộc quân Thanh phải chạy về hướng tây đến Đầm Mực.

- Đầm Mực (làng Quỳnh Đô) được chọn làm điểm quyết chiến tiêu diệt quân Thanh tháo chạy trên hướng này. Đạo quân Đại đô đốc Bảo được lệnh bày sẵn một thế trận bao vây, tiêu diệt toàn bộ tàn quân địch tại đây, quyết không cho chúng sống sót chạy về Thăng Long.

Lúc đó, quân Thanh ở Ngọc Hồi biết rằng "sớm muộn thế nào cũng bị quân Tây Sơn đánh tới", v́ vậy những cuộc "yến tiệc vui mừng" ngày Tết đă chấm dứt và chúng được lệnh chuyển sang sẵn sàng chiến đấu, đối phó với quân Tây Sơn từ Hà Hồi lên. Tinh thần quân Thanh trở nên hết sức căng thẳng, hoang mang và nơm nớp lo sợ.

Ngày mồng 5 Tết (30 - 1 - 1789), lúc trời chưa sáng, quân Tây Sơn bất ngờ tiến công. Từ nơi tập kết phía nam Hà Hồi, đạo quân chủ lực bí mật xuất phát vào khoảng nửa đêm. Quân lính Tây Sơn đầu chít khăn, giương cao cờ đỏ, nhanh chóng tiêu diệt đồn B́nh Vọng (xă Bạch Đằng, Thường Tín), tiến thẳng đến Ngọc Hồi.

Đội tượng binh Tây Sơn gồm hơn một trăm voi chiến xông trận. Mỗi con voi lúc đó đă chở cả người và vũ khí. Ngoài cung nỏ, giáo, lao, tượng binh c̣n được trang bị nhiều thứ hỏa khí như súng tay, hỏa hổ và đặc biệt có đại bác đặt trên ḿnh voi. Biết rằng, quân Tây Sơn có lợi thế về tượng binh, trước khi tiến quân sang xâm lược nước ta, quân Thanh đă nghiên cứu cách pḥng chống. Trong 8 điều Quân luật mà Tôn Sĩ Nghị ban hành có điều thứ tư nói rằng: "Người Nam đánh trận hay dùng sức voi. Voi không phải là vật nội địa từng tập quen nên hễ gặp phải, trước tiên quân ta thế nào cũng phải tránh chạy. Không biết rằng, sức voi tuy khỏe, chung quy cũng là thân máu thịt, không thể đương được với súng ống của ta. Nếu thấy voi ra trận, xa th́ bắn súng, gần th́ dùng cung và lao, làm cho nó bị đạn mà chạy trở lại, giày xéo lẫn nhau, quân ta nhân cơ hội ấy mà tiến lên chém giết, thế nào cũng thắng trận, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa" (5)

Tại đồn Ngọc Hồi, quân Thanh bố trí một băi chướng ngại vật, trong đó có chông sắt và địa lôi, nhằm ngăn cản không cho tượng binh Tây Sơn tiến sát vào chiến lũy. Khi voi chiến của Nguyễn Huệ xuất trận, quân Thanh trông thấy rất hoảng sợ. Đề đốc Hứa Thế Hanh truyền lệnh: "Dạy voi đánh trận là lối cũ của người Nam man. Mưu mẹo chống chế, úy phủ (tức Tôn Sĩ Nghị) đă có công văn nói rơ rồi" (6); hắn trấn tĩnh bộ binh và ra lệnh cho đội kỵ binh tinh nhuệ nghênh chiến. Tuy nhiên, vừa trông thấy voi, ngựa quân Thanh đă "sợ hăi, hí lên, té chạy, lồng lộn quay về, chà đạp lẫn nhau" (7). Đội kỵ binh tinh nhuệ của Hứa Thế Hanh bị rối loạn, bỏ chạy vào trong lũy cố thủ.

Quang Trung cưỡi voi trực tiếp đốc chiến, ra lệnh thừa thắng đuổi theo. Quân địch dựa vào chiến lũy, dùng đại bác và cung nỏ bắn ra rất dữ dội để cản đường tiến của đoàn tượng binh Tây Sơn. Hỏa lực của địch "bắn ra như mưa" (8). Theo lệnh của Quang Trung đội voi chiến chia thành hai cánh, tạo thành hai gọng ḱm, đánh cả phía tả và phía hữu, tạo điều kiện cho bộ binh và kỵ binh xông lên. Bộ binh đă được huấn luyện từ trước, trong đó có đội cảm tử gồm 600 người, chia làm 20 toán. Mỗi toán 10 người giắt dao găm bên hông, khiêng một tấm mộc lớn bằng gỗ phía ngoài quấn rơm ướt và 20 chiến sĩ cầm vũ khí tiến theo sau. Tất cả các toán cảm tử quân dàn hàng ngang theo thế trận chữ "nhất" phía trước có 20 tấm mộc kết liền với nhau tạo thành một bức tường di động, cứ thế xông thẳng vào trận địa quân Thanh.

Được những tấm mộc lớn che chở tên đạn, đội quân cảm tử tiến gần đến chiến lũy. Quân Thanh sử dụng hỏa đồng (súng phun khói lửa), lợi dụng chiều gió phun khói vào quân Tây Sơn. Trong chốc lát "khói lửa mù trời, cách gan tấc không trông thấy ǵ" (9)

Nhưng những chiến binh cảm tử Tây Sơn vô cùng dũng cảm, giữ vững đội h́nh, áp sát chiến lũy. Khi đến chiến lũy, quân Tây Sơn liền bỏ các tấm mộc xuống, xông lên phá cửa lũy, chặt rào rồi lao vào bên trong doanh trại quân Thanh. Sử nhà Thanh chép: "Quân tiên phong của giặc (tức quân Tây Sơn) xông thẳng vào đại doanh của ta" (10), "giặc dùng những bó rơm to lớn để che đỡ mà lăn xả vào… kẻ trước ngă, người sau nối, hết thảy đều trổ sức liều chết mà chiến đấu" (11). Quân Thanh chống trả quyết liệt, hy vọng đẩy quân Tây Sơn ra ngoài, bảo vệ chiến lũy. Nhưng đội quân xung kích của Tây Sơn đă phá được cửa lũy mở đường cho bộ binh và kỵ binh tiến vào. Bộ binh, kỵ binh, tượng binh Tây Sơn ào ạt tiến lên, xông vào cửa lũy đă mở. Từ hai phía tả và hữu, đội tượng binh cũng đồng thời ập tới. Quân Tây Sơn "lùa voi, xông pha tên đạn, nhổ rào lũy tiến vào". Từ trên ḿnh voi, quân ta dùng đại bác và hỏa hổ đốt phá đồn lũy doanh trại đối phương và thiêu cháy rất nhiều quân địch. Thế xung trận của quân Tây Sơn như triều dâng băo cuốn. Sách An Nam quân doanh kỷ yếu cũng chép: "Quân giặc (tức quân Tây Sơn) họp lại đông như kiến cỏ, thế ào ào giống như nước thủy triều dâng lên".

Quân Thanh khiếp sợ trước sức mạnh của quân Tây Sơn, nhất là trước uy lực của đoàn voi chiến. Sử nhà Thanh chép: "Quân giặc đều dùng voi chở đại bác xông ra trận", "trên lưng mỗi con voi có 3, 4 tên quân giặc chít khăn đỏ, ngồi ném hỏa cầu lưu hoàng ra khắp mọi nơi, đốt cháy cả người nữa" (12). Đó là hỏa hổ - một thứ vũ khí lợi hại của quân Tây Sơn mà quân giặc đă biết và pḥng bị. Trong điều thứ 5, Quân luật của quân Thanh có nói: "Quân Nam không có sở trường ǵ khác, toan dùng thứ ống phun lửa làm lợi khí gọi là hỏa hổ. Khi hai bên giáp nhau, trước hết họ dùng thứ đó đốt cháy quần áo quân ta, buộc quân ta phải lui". Tôn Sĩ Nghị cũng đă cho chế hàng trăm chiếc lá chắn bằng da trâu sống và ra lệnh: "Nếu gặp hỏa hổ của người Nam phun lửa th́ quân ta một tay cầm lá chắn đỡ lửa, một tay cầm dao chém bừa, chắc rằng chúng sẽ bỏ chạy tan tác". Mặc dầu vậy, quân Thanh vẫn bị bất ngờ trước tinh thần chiến đấu ngoan cường, mưu trí và sự lợi hại hỏa khí của quân Tây Sơn.

Quân ta tràn vào trong đồn lũy và doanh trại giặc như những ḍng thác đổ, không một sức mạnh nào ngăn cản được. Quân Thanh không chống đỡ nổi, bỏ chạy tán loạn, chúng "giày xéo lên nhau mà chết" hoặc số chạy được ra ngoài th́ vướng phải địa lôi, rơi xuống cạm bẫy do chúng bố trí, "chết và bị thương rất nhiều". Nhiều trận ác chiến diễn ra ở quanh Ngọc Hồi, nhưng đó chỉ là những cố gắng trong tuyệt vọng của địch. Quân địch càng co cụm lại càng bị tiêu diệt nhiều. Sở chỉ huy của Hứa Thế Hanh bị tiêu diệt. Nhiều doanh trại bị đốt cháy. Ngọc Hồi ch́m trong khói lửa mịt mù. Sách Hoàng Lê nhất thống chí chép rằng: "Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết… Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung; thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại" (13).

Đồn Ngọc Hồi cứ điểm kiên cố và mạnh nhất của quân Thanh ở mặt trận phía nam Thăng Long, bị phá vỡ. Một bộ phận lớn quân Thanh bị giết và bị bắt. Trong đám loạn quân, đề đốc Hứa Thế Hanh - viên phó tướng của Tôn Sĩ Nghị cùng với Tổng binh Thượng Duy Thăng đă phải bỏ mạng.

Tuy vậy, số quân Thoát Hoan chết ở đồn Ngọc Hồi vẫn c̣n khá nhiều. Tồng binh Lương Triều Long dẫn một toán lớn tàn binh chạy về Thăng Long. Nhưng mới chạy được một quăng, chưa kịp hoàn hồn, bọn chúng đă thấy phía trước mặt xuất hiện cờ Tây Sơn và nổi lên tiếng trống, tiếng reo ḥ dậy đất. Không ngờ trên đường thiên lư và bờ đê sông Tô Lịch về Thăng Long đă có quân Tây Sơn chốt giữ. Đây là lực lượng nghi binh đă được Quang Trung cử đến chốt sẵn phía đông bắc Ngọc Hồi khoảng 3 km; mục đích là hư trương Thanh Thế, uy hiếp tinh thần vốn đă hoang mang cực độ của quân Thanh, buộc chúng phải chạy theo hướng tây về Quỳnh Đô - Văn Điển, nơi Đại đô đốc Bảo đang chờ chúng.

Tàn quân Thanh chạy băng qua cánh đồng Lưu Phái, Quỳnh Đô. Chúng qua cầu Vĩnh (c̣n gọi là cầu Viềng) định t́m đường về Thăng Long. Nhưng th́nh ĺnh, trước mặt chúng xuất hiện cả một đoàn voi chiến lớn cùng với vô số quân Tây Sơn đứng chặn kín mọi ngả đường. Đây là đạo quân do Đại đô đốc Bảo chỉ huy, "tiếp ứng cho cánh hữu" theo kế hoạch của Quang Trung đă bố trí sẵn một thế trận đón lơng địch.

Bấy giờ hai ngả đường dọc theo bờ sông phải Tô Lịch, ngả phía bắc và phía nam đều bị chận đánh. Sau lưng quân Thanh, quân chủ lực và lực lượng quân nghi binh đang truy đuổi ráo riết. Không c̣n con đường nào khác, quân Thanh phải chạy vào khu vực Đầm Mực ở phía tây. Tại Đầm Mực, đạo quân Đại đô đốc Bảo đă giăng sẵn một mẻ lưới để bổ vây và tiêu diệt bọn tàn binh quân giặc. Quân địch đă bị dồn vào đường cùng. Từ ba mặt quân ta khép chặt ṿng vây, dồn ép chúng vào cánh đồng Đầm Mực lầy lội và um tùm. Quân giặc tuy c̣n đông đến vài vạn nhưng chỉ c̣n là một khối người rối loạn, kiệt sức và tinh thần hết sức hoảng loạn. Sách Hoàng Lê nhất thống chí chép: Quân Thanh "hết hồn hết vía, trốn vội xuống Đầm Mực làng Quỳnh Đô" và "quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người" (14). Tượng binh Tây Sơn như những chiến xa trong chiến tranh hiện đại, vừa bao vây chặn đường, vừa xông vào giày xéo. Bộ binh và kỵ binh Tây Sơn cũng thả sức tung hoành, chém giết quân địch. Quân Thanh số th́ bị giết, bị voi giày, bị ngập ch́m trong lầy bùn, số th́ bị bắt làm tù binh. Bọn tàn quân giặc chạy thoát ở Ngọc Hồi , đến đây phần lớn bị tiêu diệt trong đó có cả tổng binh Trương Triều Long. Một số tên lẩn trốn vào các làng xóm xung quanh cũng bị nhân dân giết chết hoặc bắt nộp cho quân Tây Sơn.

Như vậy, chỉ trong sáng ngày mồng 5 tháng Giêng Kỷ Dậu, quân Tây Sơn đă đánh tan cụm quân giặc ở Ngọc Hồi, tiêu diệt toàn bộ khoảng 3 - 4 vạn tên giặc ở Ngọc Hồi và Đầm Mực. Cả một hệ thống đồn trại giặc, một cứ điểm then chốt nhất của quân Thanh ở phía nam Thăng Long đă nhanh chóng bị san phẳng. Đạo quân chủ lực của Quang Trung và đạo quân của Đại đô đốc Bảo đă hoàn thành hết sức vẻ vang nhiệm vụ nặng nề của hướng tiến công chủ yếu, trong đó trận Ngọc Hồi - Đầm Mực là trận quyết chiến, trận then chốt có ư nghĩa quyết định.

***

Trước ngày diễn ra trận Ngọc Hồi - Đầm Mực bọn tướng Thanh tuy có lo pḥng bị nhưng cũng vẫn hết sức chủ quan, coi thường quân Tây Sơn. Khi nghe tin báo cấp về việc Nguyễn Huệ đă mở cuộc tiến công. Tôn Sĩ Nghị c̣n huênh hoang đối với giặc (tức quân Tây Sơn) không có ǵ đáng lo ngại" (15); và đề đốc Hứa Thế Hanh, viên tướng chỉ huy toàn bộ mặt trận phía nam Thăng Long th́ tuyên bố: "Đợi đến sáng mai, hội quân lại đánh, hăy xem ta quét sạch quân Nam" (16). Thế nhưng nào ngờ toàn bộ quân Thanh ở đây đă nhanh chóng bị tiêu diệt trong ṿng một buổi sáng. Tin sét đánh đó làm cho Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh ở Thăng Long hết sức hốt hoảng. Chúng nói với nhau: "Thật là tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên" (17). Bản thân Tôn Sĩ Nghị hết sức kinh ngạc trước lối đánh thần tốc của quân Tây Sơn. Sau khi biết các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi bị hạ hắn "rút kiếm chém xuống đất nói rằng: Sao mà thần đến thế".

Cùng lúc trên hướng tiến công chủ yếu diễn ra trận quyết chiến Ngọc Hồi - Đầm Mực, một cánh quân khác do Đô đốc Long (Đặng Tiến Đông) chỉ huy đă bất ngờ mở cuộc tiến công từ phía tây nam Thăng Long, tập kích, tiêu diệt đạo quân Sầm Nghi Đống ở Khương Thượng và Nam Đồng (Đống Đa). Cuộc chiến ở Ngọc Hồi đă thu hút sự chú ư của địch, càng tạo thêm yếu tố bất ngờ cho trận Đống Đa. Chiến thắng Ngọc Hồi - Đầm Mực và chiến thắng Đống Đa đă đặt Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh ở Thăng Long vào một t́nh thế hoàn toàn bị bất ngờ, bị động, không kịp tổ chức chống cự, không thể nào sử dụng được lực lượng chủ lực; chúng buộc phải tháo chạy tán loạn và bị tiêu diệt. Thắng lợi của trận quyết chiến Ngọc Hồi - Đầm Mực đă góp phần to lớn vào sự toàn thắng của chiến dịch Thăng Long 1789.

Chiến thắng Ngọc Hồi - Đầm Mực chứng tỏ nghệ thuật quân sự tài giỏi của quân đội Tây Sơn mà người tiêu biểu là Quang Trung - Nguyễn Huệ. "Hành quân cốt ở thần tốc", Quang Trung đă nói như vậy khi giải thích về nguyên nhân thắng lợi ở Ngọc Hồi. Trong khi chuẩn bị và tiến hành trận quyết chiến này, khi giải quyết mối tương tác giữa các yếu tố lực lượng, không gian và thời gian để thực hiện đánh tiêu diệt, Quang Trung đặc biệt quan tâm đến nhân tố thời gian, đến tính cơ động, đến tốc độ, đến hiệu quả của tính bất ngờ, đến nghệ thuật biến thời gian thành lực lượng. "Sao mà thần đến thế !" - câu nói thốt lên từ viên chủ tướng giặc đă thể hiện đầy đủ tính tốc quyết trong nghệ thuật quân sự của Quang Trung. Hứa Thế Hanh định "đợi đến sáng mai… ta sẽ quét sạch quân Nam"; thế nhưng Nguyễn Huệ đă đi trước địch. Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh đều không có thời gian cần thiết để thực hiện ư định của ḿnh.

Mục đích của trận đánh là tiêu diệt toàn bộ tập đoàn Hứa Thế Hanh ở Ngọc Hồi. Để đạt mục đích đó, Quang Trung đă vận dụng những biện pháp quân sự thích hợp. Ông đă sử dụng phối hợp hai mũi tiến công bằng cả chính binh và kỳ binh. Mũi chính binh đánh chính diện do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, trong đó có cả Tư mă Ngô Văn Sở và Nội hầu Phan Văn Lân; mũi kỳ binh tức mũi vu hồi chiến thuật từ cánh hữu do Đại đô đốc Bảo đảm nhiệm. Sử dụng hai đạo quân đánh vào hướng chủ yếu, Nguyễn Huệ đă tạo được thế uy hiếp ở cả trước mặt và cạnh sườn, để bao vây và tiến công, tiêu diệt địch. Nghệ thuật cơ động tiếp cận và dàn thế trận ở Ngọc Hồi đă tạo yếu tố bất ngờ lớn đối với địch. Các mũi tiến công đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau, nhưng đă chi viện lẫn nhau, hiệp đồng đúng theo kế hoạch dự kiến; đó là sự phối hợp chiến thuật tuyệt đẹp trong một trận đánh.

Một điểm đặc sắc trong nghệ thuật quân sự Quang Trung là khả năng đột kích, công đồn, đánh tiêu diệt lớn, đánh tan ră nhanh chóng những đạo quân, những tập đoàn lực lượng chủ chốt của địch. Biểu hiện ở đánh các đồn Gián Khẩu, Nhật Tảo, Phú Xuyên, Thanh Liêm, Hà Hồi và nhất là đồn Ngọc Hồi, cứ điểm quan trọng và mạnh nhất của địch trong một thời gian rất ngắn. Thắng lợi to lớn trên hướng tiến công chủ yếu này đă đưa đến việc uy hiếp lớn mặt nam thành Thăng Long. Điều này có ư nghĩa lớn v́ nó là tiền đề không thể thiếu trong mưu lược của Quang Trung, là tạo điều kiện cho cánh quân Đô đốc Long (Đặng Tiến Đông) đánh vào đồn Khương Thượng. Lối đánh tiêu diệt của Quang Trung là nhằm đánh cả vào thể xác và tinh thần đối phương, khiến chúng phải sụp đổ nhanh chóng.

Yếu tố bất ngờ trong quá tŕnh thực hành chiến dịch nói chung và ở chiến trận Ngọc Hồi - Đầm Mực nói riêng được vận dụng và phát huy hiệu quả lớn. Khi dùng binh, Quang Trung đă hành động ngoài dự đoán của Tôn Sĩ Nghị. Bên cạnh việc chọn hướng tiến công và bố trí thế trận, nghệ thuật giành thời cơ của Quang Trung thật táo bạo, không theo một quy luật thông thường như sự hiểu biết của các tướng giặc. Chẳng hạn, ta mở cuộc tiến công vào đêm 30 Tết, đă hành động mau chóng để trận đánh quyết định diễn ra và kết thúc vào sáng mồng 5 Tết, tức là trước một ngày theo dự kiến xuất quân của Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh. Hành quân trên một tuyến dài đến gần 90 km, vừa vẫn bảo đảm được bí mật, bất ngờ mà tốc độ lại nhanh chóng th́ quả là một điều hiếm thấy. V́ thế, quân Tây Sơn đă áp sát Ngọc Hồi mà quân Thanh vẫn không hay biết ǵ. Trận Ngọc Hồi - Đầm Mực diễn ra hết sức quyết liệt giữa hai đạo quân chủ lực của ta và địch nhưng cũng giải quyết nhanh chóng trong một buổi sáng. Đó là kết quả của hành động quân sự nhanh chóng, bất ngờ của quân Tây Sơn.

Trong trận Ngọc Hồi - Đầm Mực, Quang Trung đă sử dụng phối hợp nhiều loại quân, nhiều binh chủng, trong đó có cả tượng binh, kỵ binh, pháo binh và bộ binh. Ở Ngọc Hồi, địch xây dựng trận địa thành tuyến chiến lũy khá kiên cố. Muốn chọc thùng tuyến trận địa này phải áp dụng một phương pháp tác chiến mới, bất ngờ với địch, Nguyễn Huệ dùng chiến thuật tung đội sâu, có sự hiệp đồng nhiều loại quân, trong đó tượng binh là lực lượng đột kích mạnh. Cả hỏa khí và bạch khí; cả đại bác, hỏa hổ, súng tay và các loại cung tên, đao kiếm đă được sử dụng và phát huy tác dụng mạnh mẽ trong chiến đấu. Cách sử dụng pháo binh của Nguyễn Huệ ở đây cũng là một điều bất ngờ lớn đối với địch. Quân Thanh biết Tây Sơn có thế lợi ở voi chiến nên đă đề ra cách pḥng và chống voi. Nhưng sự thật đến Ngọc Hồi, quân ta đă sử dụng pháo - voi, đặt đại bác và hỏa hổ trên lưng voi chiến, pháo di chuyển nhanh hơn, tính động cơ tốt hơn, tăng thêm uy thế hỏa lực đối với địch. Bởi vậy, khi bất ngờ trông thấy voi chở đại bác xông trận, quân Thanh vội bỏ chạy tán loạn v́ khiếp nhược, không chống cự nổi. Các mũi tiến công, các binh chủng của quân Tây Sơn hoạt động ăn khớp và đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trong trận quyết chiến này, sự hiệp đồng đă đạt đến mức độ chuẩn xác, có hiệu quả chiến đấu lớn, thể hiện tính kế hoạch, tính thống nhất và khoc học trong nghệ thuật chỉ huy của Nguyễn Huệ. Chiến thắng Ngọc Hồi - Đầm Mực chứng tỏ cách đánh tài giỏi tuyệt vời của Quang Trung - Nguyễn Huệ và các tướng lĩnh Tây Sơn .

Chiến thắng Ngọc Hồi - Đầm Mực là chiến công lớn của các chiến binh Tây Sơn, những người lính trưởng thành từ nghĩa quân đă vượt qua bao khó khăn, gian khổ chiến đấu ngoan cường, không biết mệt mỏi. Đặc biệt, trong trận Ngọc Hồi - Đầm Mực, binh sĩ Tây Sơn đă chiến đấu với tinh thần dũng mănh vô song, với khí thế áp đảo quân thù. Chính kẻ thù cũng phải công nhận sức tiến công của quân Tây Sơn "như nước thủy triều dâng lên". Tinh thần và khí thế đó là kết quả của quá tŕnh rèn luyện, được sự cổ vũ của phong trào nông dân và phong trào dân tộc lúc ấy, dưới sự chỉ đạo của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.

Chiến thắng Ngọc Hồi - Đầm Mực cũng là chiến thắng của nhân dân trong vùng nam Thăng Long. Quân Tây Sơn thực hành trận quyết chiến vào những ngày Tết cổ truyền của dân. Nhân dân đă mang lương thực, nhất là các thứ quà tết như bánh chưng, rượu, thịt… tiếp tế cho quân đội. Ngoài những kho lương thực được chuẩn bị trước, lực lượng hậu cần tại chỗ của nhân dân giữ vai tṛ quan trọng bảo đảm cho quân Tây Sơn có thể vận động nhanh chóng và chiến đấu liên tục. Riêng vùng Ngọc Hồi, nhân dân đă đón tiếp những người anh hùng vừa giải phóng quê hương ḿnh một cách rất nồng nhiệt. Nhân dân bày quà bánh bên đường để khao thưởng quân sĩ và hoan nghênh Quang Trung với tấm biẻn mang bốn chữ "Hậu lai kỳ tô" (vua đến dân được sống lại). Quang Trung cảm động nhận lấy quà của nhân dân và tặng lại bốn chữ "Hiếu nghĩa khả phong" (tấm ḷng chuộng nghĩa đáng khen). Nhân dân vùng Hà Hồi - Ngọc Hồi - Đầm Mực rất nhiệt t́nh tham gia chiến đấu, họ c̣n đem cả rơm rạ, những tấm ván cửa, ván nằm và tự lấy những tấm ván cửa đ́nh, cửa chùa trong làng ủng hộ nghĩa quân đánh giặc. Nhân dân c̣n bày cách này cách khác hoặc trực tiếp tham gia vào trận đánh. Khi đạo quân của Đại đô đốc Bảo đến tập kết ở Đại Áng, lập tức nhân dân địa phương bao gồm cả già trẻ hăng hái nhập ngũ. Nhân dân địa phương lưu truyền và tự hào về "đội quân đầu bạc" của các cụ già có mặt trong trận Đầm Mực. Khi giặc trốn vào làng, nhân dân đă lùng sục bắt nộp cho quân đội Tây Sơn.

Thắng lợi của chiến dịch Thăng Long 1789 trong đó tiêu biểu là trận Ngọc Hồi - Đầm Mực là một vũ công hiển hách rất đáng tự hào của dân tộc ta. Chiến công đó thể hiện tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời của quân đội Tây Sơn, sự tham gia nhiệt t́nh của nhân dân địa phương và nhất là chứng tỏ nhà nghệ thuật quân sự tài giỏi của Quang Trung - Nguyễn Huệ và các tướng lĩnh Tây Sơn.

------
(1) (2) (3) (4) Hoàng Lê Nhất thống chí, Nxb Văn học, Hà Nội, 1984, tr. 360, 363.
(5) Hoàng Lê Nhất thống chí, Sđd, tr. 333 - 334.
(6) Lê Trọng Hàm, Minh đô sử, Sách chữ Hán, Tập 19, q. 44.
(7) Việt sử thông giám cương mục, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1993, tr. 846.
(8) Việt sử thông giám cương mục, Tập 1, Sđd, tr. 846.
(9) Hoàng Lê Nhất thống chí, Sđd, tr. 363.
(10) An Nam quân doanh kỷ yếu, bản chữ Hán.
(11) Việt sử thông giám cương mục, Tập 2.
(12) Ngụy Nguyên, Thánh vũ kư, bản chữ Hán, q. 36
(13) (14) Hoàng Lê Nhất thống chí, Sđd, tr. 364.
(15) Nguyễn Thu, Lê Quư kỷ sự.
(16) Minh đô sử, Sđd, q. 44
(17) Hoàng Lê Nhất thống chí, Sđd, tr. 365.

In trong "20 trận đánh trong lịch sử dân tộc".- H., 2003.- Tr. 314 - 336


 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18