|
- Điểm hẹn THONAC
-
Tôi hỏi Pierre, tại sao các địa danh ở vùng này đều chấm dứt
bằng chữ ..“ac”. Pierre giải thích “ac”, viết tắt của chữ la
tinh “acum”, có nghĩa là “nhà”, hay “địa phận”, mỗi địa danh
đều hàm ẩn một ư nghĩa nào đó.
- Thonac là một làng nhỏ, nằm thơ mộng bên con
sông Vézère, độ cao chênh lệch từ 67 mét đến 232
mét, hiện nay có khoảng 250 dân và vài chục nóc
nhà, diện tích 11,62 cây số vuông, tức là rất
thưa dân, trung b́nh có 20 dân cư trên một cây
số vuông. Con đường chính chạy qua làng, uốn
khúc quanh co theo ḍng nước mầu xanh như lá cây
của con sông Vézère. Nếu không để ư, th́ lái xe
chạy ngang qua Thonac mà không kịp biết.
-
- Nhà thờ
Thonac
- Tên làng Thonac xuất hiện lần thứ nhất vào
năm 1382. Hiện nay làng Thonac thuộc về vùng
hành chánh Aquitaine, khu vực Dordogne, tỉnh
Sarlat-la-Canéda, huyện Montignac (so sánh với
các cấp địa giới hành chánh Việt Nam như tỉnh,
huyện, thành phố, quận, làng, xă).
- Trung tâm làng rất nhỏ, c̣n nhiều nét thôn
dă, chỉ có vài quán ăn, tạp hóa, một khách sạn
nhỏ, nhà thờ và nhà hành chánh của làng, đang
được sửa chữa lại, v́ trước kia đây là nhà ở và
làm việc của linh mục cai quản nhà thờ. Trong
gian pḥng lớn của nhà hành chánh làng có một
ṿi nước Fontaine “Saint-Jacques-de-Compostelle”.
- Lúc trông thấy nhà thờ làng từ chỗ đậu xe,
cách đấy mấy trăm thước, tôi ngạc nhiên, v́ kiến
trúc nhà thờ rất lạ, giống như một nhà thờ ở tận
bên Mễ Tây Cơ trong các phim cao bồi bắn súng
cưỡi ngựa. Nhà thờ cũng đang được sửa chữa lại.
Tôi hồi hộp đẩy cánh cửa gỗ nặng nề kêu ken két
bước vào bên trong. Nhà thờ tuy nhỏ, nhưng bầy
biện ngăn nắp, sạch sẽ, không có mùi ẩm mốc như
trong một số nhà thờ bị bỏ phế mà tôi đă vào
thăm.
- Vị Làng Trưởng, ông Serge Richard, được dân
bầu từ năm 2001, không ngại công sức làm đẹp
làng Thonac, lưu chân du khách viếng thăm làng
lâu hơn, để cho làng của ông không chỉ trở nên
“sống động” trong vài tháng hè chính trong năm.
Ông than, mùa đông, không có đến một con mèo
chạy qua đường.
- Năm 2003 làng Thonac được cho phép mang huy
hiệu của gia đ́nh Losse, mà ngày nay đă tuyệt
ḍng, đó là một huy hiệu có chín ngôi sao vàng
trên một nền xanh nước biển dưới một vương niệm
lănh chúa, và hàng chữ : “1382 – Thonacum –
2002”, một khoảng cách thời gian 620 năm.
- Làng Montignac, cách làng Thonac 6 cây số về
phía thượng nguồn, đă có vẻ là một làng du
khách, xinh xắn, đẹp đẽ, có nhiều nhà hàng với
thực đơn hấp dẫn, có cầu cổ bắc ngang sông
Vézère, có một căn nhà cổ xay bột bằng nước sông
và những đường hẻm chật hẹp chỉ một người lọt
qua.
- Thonac cũng là tên một con sông nhỏ, một
trong hai mươi mốt sông phụ của sông Vézère, bắt
nguồn từ làng Bars, dài khoảng 11 cây số, rồi đổ
vào sông Vézère ở làng Thonac.
- Chính ra làng Thonac có điều kiện cơ sở để
phát triển thu nhập kinh tế v́ thung lũng sông
Vézère là một trong những khu vực di tích lịch
sử rất nổi tiếng chứa đựng nhiều hang đá thời
tiền sử, đă được cơ quan UNESCO công nhận là di
sản văn hóa thế giới, thí dụ như động thời tiền
sử Lascaux – của thời đại Magdalénien, cách
chúng ta khoảng 17.000 năm – với những h́nh vẽ
thú vật rất mỹ thuật trên vách và nóc các hang
đá, cách Thonac chỉ có 5 cây số, mà ai có dịp đi
ngang cũng muốn vào xem.
- Sông Vézère dài khoảng 211 cây số, bắt nguồn
từ làng Tourbière de Longéroux ở một độ cao 941
mét tại địa danh Puy Pendu, gần đỉnh núi Mont
Bessou cao 977 mét, trên cao nguyên mang tên
Ngàn Ḅ (Plateau de Millevaches) của rặng núi cổ
Massif central thuộc vùng Corrèze, chảy ngoằn
ngoèo qua hai vùng Limousin và Perigord, tạo ra
một thung lũng rộng khoảng 3.736 cây số vuông,
đem theo lượng nước của hai mốt con sông phụ,
trước khi đổ vào sông Dordogne tại thị trấn
Limeuil.
- Nước sông Vézère sói ṃn vào vách núi hai
bên, tạo thành những hang động lớn, nơi trú ẩn
thiên nhiên cho người tiền sử, kể từ thời đại
Homo Erectus (từ 1,85 triệu năm cho đến khoảng
400.000 năm trước đây) đă biết xử dụng lửa, chế
tạo các vật dụng và vũ khí bằng đá lửa cứng
(silex) và gỗ, săn bắn thú rừng, ăn thịt, trái
cây và các loại củ, rễ cây, lột da thú làm quần
áo. Họ để lại nhiều dấu tích tại nhiều địa danh
hiện nay như Lascaux, Font-de-Gaume, les
Combarelles, Castel-Merle, Laugerie-basse ,
Saint-Cirq, Bernifal, Cap-Blanc, Bara-Bahau.
- Ngang sông Vézère có nhiều cây cầu cổ từ thế
kỷ thứ mười bốn bằng đá cổ. Dọc sông, có nhiều
làng nhỏ với chục nóc nhà, cây cối xanh um vây
phủ chung quanh. C̣n trên sông th́ người thích
chèo thuyền sẽ được toại nguyện, v́ độ nước chảy
đủ mạnh, sông chảy loanh quanh, nhiều ngóc
ngách, qua nhiều làng nhỏ ven sông. Thonac thuộc
về hạ nguồn sông Vézère nên có thể chèo thuyền
suốt năm, nhưng mực nước tốt nhất là từ tháng
mười một cho đến tháng năm.
- Pierre mướn thuyền ở làng Montignac, chèo
xuôi ḍng Vézère ngang qua Thonac xuống làng Les
Eyzies, tôi lái xe dọc sông đến chỗ hẹn, ngồi
bên bờ sông nh́n bóng những gợn mây trắng phản
chiếu trên mặt nước xanh trôi liên tục và nghĩ
mông lung, chờ thuyền Pierre về. Lên lại bờ, anh
ta cười toe toét, ba hoa diễn tả, cái thú chèo
thuyền trên sông, gió mát hiu hiu, tiếng mái
chèo x́ xọt trong nước, núi, thành cổ, lâu đài,
cây cối ngả nghiêng lươn lướt hai bên bờ.
- Chưa hết, tại sao tôi t́m đến Thonac ? Tôi
muốn xem tận mắt ngôi mộ của vua Hàm Nghi trong
nghĩa địa của làng và lâu đài của gia đ́nh vua
Hàm Nghi tại làng Thonac: château de Losse.
- Từ khi t́nh cờ được xem tận mắt nguồn của
một con sông lớn, tôi đứng sững sờ nh́n nước
nguồn dâng lên lặng lẽ từ ḷng đất trong một cái
hố khá tṛn, rộng khoảng bốn sải tay. Thỉnh
thoảng những bọt trắng tṛn như bong bóng sủi
lên mặt nước. Nước nguồn tràn đầy hố, rồi thoát
ra cuồn cuộn thành một con suối nhỏ. Tôi biết
rằng con suối này sẽ trở thành một con sông lớn
trào ra biển cả. Ấn tượng mạnh mẽ ấy, làm cho
tôi rất ham thích đi t́m nguồn sông, nếu có dịp,
nhưng cũng háo hức đi t́m “nguồn” của nhiều sự
việc.
- Đă có vài tác giả viết lẫn lộn lâu đài Losse
với lâu đài Nauche, hay viết lâu đài Losse thành
lâu đài Cosse mà lại ở Cannes, một thành phố lớn
nằm bên bờ biển Địa Trung Hải phía nam nước
Pháp, cũng như viết nhầm lẫn Thonac với Sarlat,
thật ra làng Thonac cách thị trấn Sarlat khoảng
30 cây số, và lâu đài Losse cách lâu đài Nauche
khoảng hơn 100 cây số đường núi. Vợ vua Hàm Nghi
không phải sinh ở Marcelle. Tên của bà là
Marcelle ! Hoặc viết một cách mơ hồ rằng Hoàng
Hậu Nam Phương là “hàng xóm” của vua Hàm Nghi.
Chính v́ những thông tin không chính xác này làm
cho tôi phải đi đến tận nơi, nh́n tận mắt.
- Gia đ́nh đương kim chủ nhân lâu đài Losse,
mua lâu đài Losse vào tháng tư năm 1999, đang
biến lâu đài Losse trở thành một trọng điểm hấp
dẫn du khách, trang trí nội thất bằng những bàn
ghế tủ giả của thời thế kỷ thứ mười sáu và mười
bẩy để gây dựng lại quang cảnh sống của Jean de
Losse, sử dụng lâu đài làm phông cho nhiều phim
về lịch sử hay chuyện thần thoại (Cinderella,
Les Dames Galantes, Jacquou le Croquant), mỗi
năm tiếp đón khoảng 30.000 du khách, có thể họ
không muốn nhắc nhở đến giai đoạn quá khứ có
liên hệ đến một vị Hoàng đế nước Việt Nam bị
chính quyền thực dân đày đi Algerie.
- Chỉ khi dọc theo sông Vézère rời khỏi Thonac
tôi mới có dịp hiểu một phần nào lư do tại sao
vùng khúc sông này có rất nhiều lâu đài cổ.
Không thông thạo chút nào về địa lư, phong thổ,
và chỉ nhận xét theo cảm quan, th́ tôi thấy đây
là một thung lũng rất đẹp, rất xanh tươi, rất
kín đáo, bốn hướng đều có núi vây bọc che chở,
không nằm trên các trục giao thông chính, không
hề bị tàn phá qua hai trận Đại Chiến, nhiều ánh
sáng, có sông nước, có rừng thưa, c̣n nhiều di
tích lịch sử rất xa xưa, làm tôi nhớ những mẩu
chuyện đă đọc về các thầy địa lư phong thổ đi
t́m đất cho Vua.
- Nhưng lư do nào đă đưa gia đ́nh vua Hàm Nghi
về nghĩa trang Thonac ?
- Ngôi mộ vua Hàm Nghi
-
B́nh thường, trong các làng mạc ở Pháp, nghĩa
địa thường nằm trong khuôn viên của nhà thờ. Tôi
đi thẳng đến nhà thờ làng Thonac, quanh một
ṿng: không thấy nghĩa địa đâu cả. Pierre tinh
mắt, chỉ cho tôi xem các dấu vết c̣n sót lại
chung quanh các gốc cây mận đang trổ hoa, nghĩa
địa cũ bây giờ đă trở thành băi đậu xe bên cạnh
nhà thờ.
- Tôi vào khách sạn bên cạnh hỏi thăm, th́
được biết nghĩa địa đă được dời lên một khoảng
đất trên đồi, phía bên kia đường làng chính,
không xa lắm. May mắn hơn nữa, tôi gặp được bà
Christiane Salviat của Nhà Hành Chánh làng mời
vào văn pḥng, dù hôm nay là ngày không tiếp
khách, cho xem bản đồ nghĩa địa.
- Đường từ trung tâm làng lên nghĩa địa chỉ
khoảng 2 cây số. Trời vừa dứt một cơn mưa xuân,
ánh sáng mù mù ảm đạm, thật là hợp t́nh hợp cảnh.
Trước đó, tôi đă phải chạy ra hướng làng
Montignac để t́m mua nhang. Mộ của gia đ́nh vua
Hàm Nghi lớn nhất, dựa một chân tường, hướng về
phía cửa chính. Lâu ngày không ai săn sóc chùi
rửa, nắp đá tảng trên mộ đen thui, rêu xanh mọc
đầy. Cái b́nh hoa duy nhất ở đầu mộ lưng lửng
nước mưa. Không có hoa và cũng không có một chân
nhang. Một b́nh hoa mầu xanh nhỏ bằng ny lông bị
gió thổi nằm nghiêng trên đất. Ở đây toàn là mộ
đạo Thiên Chúa. Trên mộ gia đ́nh vua Hàm Nghi
cũng có chạm một cây Thánh giá lớn. Trong hầm mộ
có năm người yên nghỉ: Vua Hàm Nghi, bà Marcelle
LALOË, Công chúa Nhu May
(*),
Hoàng tử Minh Duc
(*)
và bà Marie Jeanne DELORME.
-
-
- Mộ vua
Hàm Nghi tại nghĩa trang Thonac
|
-
- Bia mộ
vua Hàm Nghi
|
-
Các hàng chữ khắc trên mộ như sau:
- S.M. HAM NGHI, Empereur d'Annam, Hue 1871 -
Alger 1944
S.A.I. La princesse d'Annam, née Marcelle LALOË,
1884 – 1974
Nhu May, Princesse d'Annam, 1905 – 1999
Minh Duc, Prince d'Annam, 1910 – 1990
Marie Jeanne DELORME, 1852 - 1941
- Bà Marie Jeanne Delorme, sinh ngày 5 tháng 6
năm 1852 tại Besseyre, thuộc địa phận Loubaresse
(Cantal), con của Jean Delorme và Francoise
Esbras, qua đời ngày 2 tháng 9 năm 1941 tại lâu
đài Losse. Người làm giấy khai tử cho bà Marie
Jeanne Delorme là công chúa Nhu May, lúc đó 36
tuổi, nghề nghiệp: nhà nông
(2).
Bà Delorme có lẽ được an táng trước nhất trong
hầm mộ, v́ tất cả những nhân vật khác đều qua
đời sau bà. Người làng Thonac cho rằng bà
Delorme là gia nhân của gia đ́nh vua Hàm Nghi,
nhưng thông tin này sẽ c̣n phải kiểm chứng lại
nếu có dịp.
- S.A.I. có nghĩa là Son Altesse Impériale,
danh xưng của vương phi, tước vị của bà Marcelle
LALOË khắc trên mộ là Công Chúa, theo truyền
thống nhà Nguyễn không lập ngôi Hoàng Hậu lúc bà
c̣n sinh thời, và bà cũng không được truy tôn
làm Hoàng Hậu sau khi qua đời, nhưng chữ “La
princesse d'Annam” chỉ rằng bà là chính phi của
vua Hàm Nghi.
- S.M. có nghĩa là Sa Majesté, danh xưng của
vua chúa. Nhưng khắc ghi trên mộ vua Hàm Nghi là
Empereur d'Annam (Hoàng đế An Nam) là không
đúng.
- Vào cuối đời vua Tự Đức, triều đ́nh Huế đă
kư hết hiệp ước này đến hiệp ước khác với Pháp,
mất dần chủ quyền, độc lập, tự do. Các cuộc nổi
dậy chống lại Pháp th́ được sử sách viết là “làm
giặc” như Đề Thám
(3),
hay “nổi loạn” như phong trào Văn Thân ở Nghệ
Tĩnh năm 1874, và bị quan quân triều đ́nh đánh
dẹp.
- Công việc ngoại giao cầu viện trợ Tầu cũng
không xong, v́ trung tá Fournier, đại diện Pháp,
kư với Lư Hồng Chương bản Ḥa ước Thiên Tân ngày
18 tháng 4 năm Giáp Thân (1884), nước Tầu rút
hết quân đóng ở miền Bắc, và công nhận quyền cai
trị của Pháp trên đất Việt Nam.
- Đến khi các quan Nguyễn Văn Tường, Phạm
Thuận Duật và Tôn Thất Phan của triều đ́nh Huế,
kư với Patenôtre và Rheinart, bản Ḥa ước
Patenôtre vào ngày 13 tháng 5 năm 1884 th́ nước
Việt Nam mất hết chủ quyền và bị chia làm ba kỳ,
mỗi kỳ có luật lệ riêng và sự giao thông giữa ba
kỳ bị kiểm soát nghiêm ngặt bằng giấy thông
hành.
- Patenôtre và tướng Courbet c̣n chưa hả dạ,
muốn xóa dấu tích của Tầu đối với Việt Nam, làm
áp lực để tịch thâu cái ấn Việt Nam Quốc Vương
Chi Ấn, bằng bạc ṛng mạ vàng, nặng 5 kí 9, h́nh
vuông, cạnh to từ 10 đến 12 phân, của vua nhà
Thanh phong cho người khai sáng nhà Nguyễn – vua
Gia Long – năm 1804, đem chiếc ấn về Pháp làm
chứng vật chiến thắng. Nhưng Nguyễn văn Tường và
Phạm Thuận Duật, trước sự chứng kiến của
Patenôtre và Courbet, nhất định cho nấu chẩy
chiếc ấn lịch sử này, theo thông tin của
l'Agence Havas viết vào ngày 30 tháng 8 năm
1884, không để cho Patenôtre đem chiếc ấn này về
Pháp.
(4)
- Đối ngoại th́ như thế c̣n đối nội th́ triều
đ́nh Huế rất lủng củng và chia rẽ v́ hai chính
kiến: đánh Pháp hay theo Pháp. Sau giai đoạn bốn
tháng ba vua (Dục Đức – Hiệp Ḥa – Kiến Phúc,
1883 – 1884), hai quan đại thần Nguyễn văn Tường
và Tôn Thất Thuyết chọn Ưng Lịch, mới có 13
tuổi, em của Ưng Đường (là con nuôi thứ hai của
Tự Đức), lên làm vua.
- Nguyễn Phúc Ưng Lịch, tên húy là Nguyễn Phúc
Minh, sinh ngày 3 tháng 8 năm 1871 tại Huế, con
của Thuận Nghi Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hương
Hội (Nguyễn Phúc Cai), đăng quang Hoàng Đế ngày
01 tháng 8 năm 1884 tại Huế, là vị vua thứ tám
của nhà Nguyễn, lấy niên hiệu Hàm Nghi ngày 15
tháng 2 năm 1885, xưng danh Đại Nam Hoàng Đế,
quốc hiệu là Đại Nam.
- Chính quyền thực dân Pháp ép vua Hàm Nghi
phải đổi tước hiệu lại là Hoàng Đế An Nam, hạn
chế tước vị và quyền lực (hư vị) của vua Hàm
Nghi chỉ trên miền Trung (Annam), coi như một
cách chấp nhận chính thức quyền bảo hộ và cai
trị của Pháp trên ba miền của nước Việt (theo
cách thức quản lư hành chánh của chính quyền
Pháp th́ họ áp đặt gọi miền Bắc là Tonkin, miền
Trung là Annam và miền Nam là Cochinchine).
- Thời gian trị v́ của vua Hàm Nghi chưa được
một năm. V́ thái độ hống hách của tướng de
Courcy, đă nhất định đ̣i đi cùng với 500 quân
lính vào cửa chính để yết kiến vua Hàm Nghi mà
Tôn Thất Thuyết tức giận, đem quân tiến đánh đồn
Mang Cá vào nửa đêm về sáng ngày 5 tháng 7 năm
1885.
- Quân Pháp đánh trả lại đến sáng th́ kinh
thành Huế thất thủ, quân Pháp tiến vào nội
thành, chiếm đóng hoàng cung và tịch thu các vũ
khí, báu vật, hơn mười triệu tiền giấy, vàng
thỏi, bạc thỏi.
(5)
- Vua Hàm Nghi được Tôn Thất Tuyết và Nguyễn
văn Tường đưa ra khỏi cung điện, lên đường chống
Pháp, nhưng ngay ngày hôm sau Nguyễn Văn Tường
trở về đầu hàng Pháp, rồi hai tháng sau đó bị
Pháp đưa đi đầy cùng với cả gia đ́nh ở Tahiti.
Hàm Nghi ban Hịch Cần Vương kêu gọi anh hùng các
nơi chống Pháp.
- V́ sự phản bội của Nguyễn Đ́nh T́nh và
Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi bị chính quyền
thực dân Pháp bắt vào tháng 9 năm 1888, rồi bị
đưa lên đường đi đày vào cuối năm 1888.
- Hàm Nghi đến Alger (thủ đô của nước Algerie
tại Bắc Phi) vào đầu năm 1889, rồi bị quản thúc
tại Biệt thự Villa des Pins thuộc làng El Biar,
cách Alger 5 cây số, lúc đó Hàm Nghi mới được 18
tuổi.
- Trong suốt thời gian lưu đày ở Alger, vua
Hàm Nghi chỉ được gọi là Prince d'Annam (Hoàng
tử An Nam) và được lănh một số tiền cấp dưỡng
lúc ban đầu là hai mươi lăm ngàn quan Pháp một
năm, trích từ ngân sách của Việt Nam để sinh
sống
(6).
- Theo khắc ghi trên mộ th́ vua Hàm Nghi mất
năm 1944 tại El Biar, Alger, thọ 73 tuổi, hài
cốt vua Hàm Nghi được cải táng về nghĩa trang
Thonac vào năm 1965. Vua Hàm Nghi được phong
miếu hiệu là Hiến Tổ Chương Hoàng Đế.
- Ngày 4 tháng 11 năm 1904 vua Hàm Nghi, lúc
được 33 tuổi, cưới bà Marcelle Aimée Léonie
LALOË, con gái của ông François Laloë và bà
Suzanne Ving, tại Alger. Bà Suzanne Ving là con
gái của bà Aimée Souham.
- Bà Marcelle Aimée Léonie LALOË sinh ngày 02
tháng 7 năm 1884 và qua đời ngày 05 tháng 9 năm
1974 tại lâu đài Château de Losse trong làng
Thonac, thọ 90 tuổi.
- Vua Hàm Nghi và bà Marcelle Aimée Léonie
LALOË có ba người con: Công chúa Nhu May sinh
năm 1905, Công chúa Nhu Ly
(*)
sinh năm 1908 và Hoàng tử Minh Đức sinh năm
1910. Công chúa Nhu Ly không được an táng trong
hầm mộ gia đ́nh tại làng Thonac.
- Theo sự chỉ dẫn của ông Richard tôi rời
Thonac, trực chỉ hướng Juillac, cách Thonac
khoảng 60,70 cây số về hướng đông bắc, nhưng
không dùng xa lộ mà chọn đường quốc lộ và đường
làng, để dễ t́m hiểu và quan sát phong cảnh hơn.
Đoạn đường từ Thonac đến Juillac xuyên núi,
xuyên rừng, lên cao, xuống dốc, rất đẹp, có
nhiều quang cảnh hùng vĩ.
-
- Mộ Hoàng
Hậu Nam Phương
- Đến làng Chabrignac, cách Juillac chỉ vài
cây số, đă có kinh nghiệm t́m kiếm, tôi và
Pierre lái xe thẳng đến nghĩa địa nằm ở ven
đường chính, trên một mỏm đồi cao nh́n xuống
làng phía dưới, xem từng tấm bia, từng ngôi mộ.
Ngôi mộ của bà Hoàng Hậu Nam Phương, người vợ
chính thức đầu tiên của Bảo Đại, rất dễ nhận ra,
v́ có hai cây tùng trồng hai bên mộ, nay đă cao
và to ph́nh. Ngôi mộ có vẻ mới được trùng tu lại,
sạch sẽ, đơn sơ. Nắp đậy huyệt chỉ là một tấm bê
tông phẳng phiu, có chạm nổi h́nh thánh giá và
một tấm bia ch́m đề hàng chữ “ Sa Majesté Nam
Phuong Impératrice d'Annam 1913 – 1963” . Trên
nắp huyệt dựng một tấm bia khác đề rơ hơn một
chút “ Ici repose l'Impératrice Nam Phuong, née
Jeanne Mariette Nguyen Huu Hao, 14.11.1913 –
15.09.1963”. Thật ra tên của bà là Nguyễn Hữu
thị Lan. Tấm bia cũ, viết chữ Hán nôm, vẫn c̣n
đứng ở đầu mộ.
- Làng Chabrignac rộng khoảng 1.000 mẫu, theo
thống kê năm 2002 th́ có khoảng 444 dân cư. Từ
nghĩa trang xuống làng, chạy ḷng ṿng một quăng
th́ thấy nơi ở cũ của bà Nam Phương, một ngôi
nhà khá to lớn, gọi là Domaine de la Perche, nằm
khuất trong một khu vực có nhiều cây cối xanh
tươi.
- Trở ra đường cái, tôi dừng xe trước một lâu
đài nho nhỏ, đẹp giống như một lâu đài trong
chuyện cổ tích thần thoại Bạch Tuyết và bẩy chú
lùn hay Công chúa ngủ trong rừng, đứng ngắm hồi
lâu. Lâu đài này có bốn tháp h́nh tṛn ở bốn
góc, liên kết với phần giữa thành một khối, xây
từ khoảng thế kỷ thứ XIV, XV, nổi bật trên một
phần đất dọn dẹp rất sạch sẽ, không có cỏ dại
mọc, chứng tỏ là có người ở. Gần đấy, hiện ra
nóc chuông nhà thờ làng Chabrignac, cũng có vẻ
Mễ Tây Cơ giống như nhà thờ làng Thonac. Bên
cạnh nhà thờ, là một căn nhà rất lớn, nằm trên
một khoản vườn rộng, tường cao vây bọc chung
quanh, cổng nhà rất oai nghiêm. Tôi và Pierre
đang đứng tần ngần ngắm nhà thờ, bàn tán với
nhau, th́ một “ông tiên” hiện ra, thấy bộ tướng
chúng tôi không phải là kẻ trộm cướp, ông vui vẻ
tṛ chuyện trao đổi. Hóa ra, trời thương tôi
thật, tôi đă thấy trước mắt lâu đài có bốn tháp
tṛn ấy của ông Tử Tước Vicomte de la Besse,
cháu ngoại của vua Hàm Nghi. Lúc vua Hàm Nghi
qua đời th́ Tử Tước mới có bẩy tuổi.
-
- Lâu
đài Chabrignac
|
-
- Lâu
đài Nauche
|
- Chưa hết mệt, chúng tôi lại đi tiếp tục để
đến thị trấn Vigeois, cách Chabrignac khoảng 30
cây số đường núi. Trên đoạn đường này, tôi đi
ngang qua lâu đài của bà Hầu Tước Marquise de
Pompadour, người t́nh rồi bạn thân của vua Louis
XV tại thị trấn Arnac-Pompadour, một nơi thu hút
khá nhiều du khách.
- Vigeois, nằm trên một độ cao 311 mét, có
khoảng trên 1.200 dân, thuộc vùng hành chánh của
thành phố Brive, cách Chabrignac khoảng 30 cây
số về hướng nam. Lâu đài La Nauche nằm trong địa
phận Simons của thị trấn Vigeois, là chỗ ở của
gia đ́nh Bá tước de La Besse.
- Người con gái thứ hai của vua Hàm Nghi mang
tên Nhu Ly sinh ngày 22 tháng 7 năm 1908, kết
duyên ngày 20 tháng tư năm 1933, với Bá tước
François Barthomivat de La Besse (sinh ngày 3
tháng 2 năm 1905), qua đời ngày 9 tháng 7 năm
2005, thọ 97 tuổi, được an táng riêng rẽ trong
nghiă trang của thị trấn Vigeois, chung trong
hầm mộ với bà Marguerite Aglaé de la Besse
Nauche de Leymarie (1804 – 1867), cũng không
chung một mộ với chồng.
- Bà công chúa Nhu Ly có ba người con, hai gái
một trai, Françoise, Philippe và Anne (tức là ba
cháu ngoại của vua Hàm Nghi).
- Françoise Barthomivat de la Besse kết hôn
với Jacques Matis de Bisschop, có ba người con.
- Philippe Barthomivat, Vicomte de la Besse.
Sinh ngày 25 tháng 2 năm 1937, kết hôn với bà
Jane Boardman, không có hậu duệ.
- Anne Alice Marie Barthomivat de la Besse kết
hôn với ông Guy Dabat, có bốn người con.
- Lâu đài của Công Chúa Nhữ Mây: Château de
Losse
-
Người con gái đầu ḷng của vua Hàm Nghi với bà
Marcelle Aimée Léonie LALOË, mang tên, theo sổ
sách hành chánh của Pháp ghi chép nguyên bản lúc
bà qua đời là: Nhu-May, Suzanne, Henriette UNG
LICH HAM NGHI D'ANNAM, sinh ngày 17 tháng 8 năm
1905 tại El Biar (Algérie), cư trú tại “ La
petite maison de Losse” (căn nhà nhỏ của Losse),
qua đời ngày 01 tháng 11 năm 1999 tại nhà thương
của thị trấn Vigeois (vùng Corrèze), Pháp, thọ
94 tuổi. Bà công chúa Nhu-May, sống độc thân,
không có hậu duệ, lúc sinh thời là nhà nông.
- Theo chữ kư của bà có bỏ dấu tiếng Việt
trong văn tự c̣n được lưu trữ th́ tên của bà là
Nhữ Mây. Một cái tên rất lạ và rất đẹp.
Trong các văn bản chính thức, bà kư tên là
Nhữ Mây d'Annam.
(7)
-
- Lâu đài Losse
- Công chúa Nhữ Mây về Pháp mua lâu đài Losse
vào ngày 6 tháng 8 năm 1930, lúc bà mới có 25
tuổi. Trong văn tự mua bán lâu đài Losse kư với
các người bán là ông Marie Antoine Jules Maurice
Challe, bà Marie Joseph Françoise Elisabeth
Mercier và cô Françoise Marie Beausoleil, th́
địa chỉ của công chúa Nhữ Mây khi ấy là Biệt thự
Gia Long, El Biar, Algérie. Bà mua lâu đài Losse
với giá là bốn trăm năm chục ngàn quan Pháp, trả
làm hai lần, lúc giao lâu đài trả ba trăm ngàn
quan tiền mặt, phần c̣n lại một trăm năm chục
ngàn quan Pháp sẽ được trả trong ṿng ba năm,
với phân lăi là bẩy quan hai chục xu (tức là
7,2%).
- Lâu đài Losse (Château de Losse) được xây
cất sát bờ sông Vézère, khởi đầu xây theo kiểu
một thành tŕ nhỏ kiên cố thời Trung cổ, có hào
nước rộng chung quanh và cầu treo để chống xâm
nhập bằng người và ngựa, nền móng đặt từ thế kỷ
thứ XIV, dần dần đến năm 1576 được sửa sang lại
thành một lâu đài theo phong cách mỹ thuật của
thời Phục Hưng (Renaissance) theo ư của chủ nhân
lâu đài khi ấy là Jean II de Losse.
- Jean de Losse xuất thân gốc Ḥa Lan. Lịch sử ḍng họ
Losse c̣n ghi được từ thế hệ Frénon de Losse, tử trận tại
Montlery vào năm 1465. Sau đó, đến con của Frénon de Losse,
cũng tên là Frénon de Losse, làm quan vơ cho vua Louis XI.
Cháu nội của Frénon de Losse, tên là Pierre de Losse, chết
tại vùng Milan năm 1515 trong một trận chiến dưới quyền vua
Francois 1er. Con của Pierre de Losse là Jean II de Losse,
sau khi đă có nhiều công trạng, được phong làm Tổng Trấn
vùng Périgord và Limousin
(8).
- Truyền thêm được mấy đời con cháu th́ người thừa kế của
ḍng tộc Losse tên là Jean Cirus Marie Adélaïde Timbrune de
Valence, con của bà Louise de Losse, bán lâu đài năm 1807
cho Jacques Maleville, với giá là 500.000 quan. Sau đó, lâu
đài Losse được bán đi bán lại nhiều lần, trải qua nhiều biến
cố. Tới năm 1830 Joseph Mérilhou mua với giá 105.000 quan.
Sau đó, ông Gouyon mua lâu đài Losse với giá 202.000 quan
ngày 06.03.1880, tu sửa lại năm 1884, rồi bán lại cho gia
đ́nh Challe – Mercier vào ngày 20.03.1922 với giá là 290.000
quan. Họ chỉ ở đấy có tám năm rồi bán lại cho công chúa Nhữ
Mây (9).
- Vùng đất thuộc lâu đài Losse rất rộng, khoảng 100 mẫu,
lan tràn trên cả hai làng Thonac và Saint Léon sur Vézère
gọi là “Terre de Losse” (Đất của Losse) gồm có sân rộng, lối
vào, lâu đài, chuồng ngựa, nhà ở, xưởng thợ, kho chứa, vườn,
rừng, đồng cỏ, ruộng nho và các loại bất động sản khác. Lâu
đài Losse thuộc quyền sở hữu của công chúa Nhữ Mây được 46
năm, một thời gian khá dài, th́ bà bán lâu đài năm 1976 (khi
ấy bà được 71 tuổi, hai năm sau khi bà LALOË qua đời), chỉ
giữ lại một ngôi nhà nhỏ trên vùng đất của Losse, gọi là “la
petite maison de Losse” để ở cho đến khi qua đời, năm 1999.
- Cuối cùng, ngôi nhà này cũng được người thừa kế của công
chúa Nhữ Mây bán cho một thương nhân địa ốc ở Antibes.
- Dấu tích c̣n lại chỉ là ngôi mộ của gia đ́nh vua Hàm
Nghi tại Thonac.
- Nghi vấn HÀM NGHI, thật hay giả
-
Theo bài “Lần t́m dấu vết vua Hàm Nghi – Có một Hàm Nghi “Lê
Lai”...đăng trên mạng
(10),
ông Trần Hữu Thành đă t́m ra một khu mộ với ba mươi sáu mộ
trong rừng núi Tà Lơn mà ông tin rằng đây chính là mộ vua
Hàm Nghi thật, chôn cất cùng với các chiến sĩ Cần Vương bảo
vệ vua.
- Trần Trọng Kim ghi lại trong sử rằng: “Tôn Thất Thuyết
thấy thế không chống nổi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm Nghi ở lại
đồn Vé, thuộc huyện Tuyên Hóa (tên cũ là Qui Hợp Châu) tỉnh
Quảng B́nh, rồi cùng với đề đốc Trần Xuân Soạn đi đường
thượng đạo, nói rằng sang cầu cứu bên Tàu. ... (Về sau chết
già ở Thiều Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông). Vua Hàm Nghi bấy
giờ phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con Tôn Thất
Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê
Trực và Nguyễn Phạm Tuân, hết sức giữ ǵn và đem quân đi
đánh phá ở mạn Quảng B́nh và Hà Tĩnh.”
- Sau khi Tôn Thất Thiệp bị bọn phản bội T́nh và Ngọc đâm
chết, vua Hàm Nghi bị chúng bắt giải về nộp cho Pháp, c̣n
Tôn Thất Đạm tự thắt cổ chết, Trần Trọng Kim b́nh luận như
sau: “ Ông Tôn-thất Thuyết làm đại tướng mà cư xử ra một
cách rất hèn nhát không đáng làm người trượng-phu chút nào.
Nhưng hai người con th́ thật là bậc thiếu-niên anh-hùng, có
thể che được cái xấu cho cha vậy.”
- C̣n ông Trần Hữu Thành tin rằng người bị đày sang
Algérie không phải là vua Hàm Nghi thật, chỉ là vua giả, và
ông đưa ra giả thuyết: Tôn Thất Thuyết đă phao tin ḿnh ôm
ấn tín sang Tàu cầu viện rồi cùng vua Hàm Nghi bí mật lánh
vào Nam. Tôn Thất Thiệp cùng một số nghĩa quân hy sinh ở lại
hộ giá vua Hàm Nghi "Lê Lai" để làm kế nghi binh.
- Tôn Thất B́nh kể trong cuốn Triều đại nhà Nguyễn: “...
Bọn Pháp hoang mang không biết là người trước mặt có thật là
vua Hàm Nghi chăng, hay là tên Trương Quang Ngọc phỉnh lừa
...giữa lúc ấy có một cụ già chống gậy đến. Đó là Nguyễn
Thuận, thầy dạy vua Hàm Nghi thuở thiếu thời. Vừa thấy thầy
cũ, vua Hàm Nghi đột nhiên đỡ cụ và vái chào. Bọn Pháp lúc
đó mới tin chắc đó là vua Hàm Nghi....” Sau đó, vua Hàm Nghi
từ chối không muốn gặp lại Hoàng Thái Hậu, đang đau ốm.
- Những nhân vật có thể nhận diện vua Hàm Nghi như Nguyễn
văn Tường, Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính th́ đă bị De
Courcy đem tầu chở đi đày ở Côn Lôn, nhưng cũng c̣n Đề đốc
Lê Trực, người đă ra đầu thú Pháp và được tha cho về quê
sinh sống.
- De Courcy th́ đă bị triệu về Pháp vào cuối năm 1885,
chính phủ Freycinet cử tướng Warnel và Paul Bert sang thay
thế.
- Theo thiển ư, vào thời ấy không có các phương tiện thông
tin bằng h́nh và phim ảnh hiện đại, cũng như các biện pháp
kiểm soát nhân diện hết sức tinh vi như ngày nay, vua chúa
thường ở ngày đêm trong cung cấm, chỉ có thân quyến và các
quan đại thần kề cận mới biết chính xác mặt mũi, vóc giáng,
giọng nói, c̣n th́ ít ai được thấy vua, cho nên khi có biến,
vua dễ đưa ra một người khác làm giả ḿnh. Một người thầy,
có nhiều học tṛ, cho nên chi tiết gặp thầy cũ không phải là
một chi tiết “nhận diện” chính xác. Vua Hàm Nghi lại không
muốn gặp mẹ, trước khi đi đày. Tại sao ?
- Trong thời đại của chúng ta, muốn “nhận diện” ai thật
hay giả, trong trường hợp này, vua Hàm Nghi nào thật, vua
nào giả, không phải là một điều khó khăn, hậu duệ vua chúa
nhà Nguyễn c̣n rất nhiều, hơn nữa, các phương pháp tối tân
để khảo nghiệm về gia truyền, thí dụ như cách khảo nghiệm
theo ADN (Acide désoxyribonucléique), có thể cung cấp một
kết quả chính xác. Hy vọng một ngày nào đó, chúng ta sẽ được
xác nhận vĩnh viễn.
- Về đến nhà, sau một tuần lễ gọi là đi dạo mùa xuân,
trước khi bước xuống xe, tôi nh́n vào đồng hồ trước tay lái,
tôi và Pierre đă đi và về tổng cộng hơn hai ngàn sáu trăm
cây số.
- © Mathilde Tuyết Trần
- Lataule 2007
- Ghi chú và tài liệu tham khảo:
-
(*) : Cách viết
của Pháp, không có dấu tiếng Việt
- và Tạp Chí Nghiên Cứu và Phát Triển của tỉnh Thừa Thiên
– Huế số 1/2007
- (4) Bài La
Signature du Traité du 6 Juin 1884 avec l'Annam et la
destruction du Sceau Chinois 30 aout 1884, trang 75 – 76
trong quyển Les Grands Dossiers de l'ILLUSTRATION
L'INDOCHINE, Edition SEFAG, 1987
- (5) Bài Le
Guet-apens de Hue – 7 novembre 1885 – trang 77-78 trong
quyển Les Grands Dossiers de l'ILLUSTRATION L'INDOCHINE,
Edition SEFAG, 1987
- (6) Triều
đại nhà Nguyễn, Tôn Thất B́nh, nxb Đà nẵng, 2000
- (8) Thonac –
Sylvie Sudrie-Vidal, Octobre 2001 và Le Château de Losse –
M.Segondat, 23 septembre 1979
- (11) Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim
- (12) Các trang trên mạng Internet
|