|
Lễ Thần Nông
Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong được mùa và
nghề nông phát đạt.
Trên các quyển lịch cổ hàng năm, người ta thường vẽ một mục đồng dắt một
con
trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề
nông.
Hình
mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tùy theo sự ước đoán của
Khâm thiên giám về mùa màng năm đó sẽ tốt hay xấu.
Năm nào được coi là được mùa, Thần Nông có giày dép chỉnh tề, còn năm nào
mùa màng bị coi là kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày
một chân. Con trâu được đổi màu tùy theo
hành
của mỗi năm, nó có thể có một trong 5 màu vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng
với các hành Thổ, Thủy, Kim, Mộc, Hỏa.
Thời phong kiến, hàng năm đều có tục tế và rước Thần Nông tại triều đình
cũng như ở các địa phương.
Nghi thức lễ tế Thần Nông thời Nguyễn
Lễ tế Thần Nông hàng năm cử hành vào ngày
Lập xuân,
bởi vậy nên lễ tế Thần Nông còn được gọi là tế xuân.
Theo chỉ dụ của vua
Minh
Mạng, hàng năm sau tiết
Đông chí,
tòa Khâm thiên giám phải lo sửa soạn việc tế Thần Nông. Các quan cùng nhau
họp để nặn trâu và tượng Thần Nông.
Trước ngày lập xuân hai ngày, tại gần cửa
Ðông Ba (ngày nay là cửa chính Ðông), các quan Khâm thiên giám cho lập
một cái
Ðài hướng đông. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đưa tới lưu tại
phủ Thừa Thiên để ngày hôm sau các quan trong phủ mới rước từ phủ tới
Ðài. Các quan vận lễ phục, có quân lính mang gươm giáo, tàn lọng, cờ quạt
theo hầu.
Tới Ðài thì một lễ đơn giản được cử hành, ngụ ý trình với
Thổ Công
về sự hiện diện của tượng Thần Nông và trâu. Sau đó, trâu và tượng Thần Nông
lại được khiêng về kho cất. Hôm tế xuân, tượng và trâu lại được rước ra Ðài,
nhưng lần này đi rước là các quan
bộ Lễ và các quan phủ Thừa Thiên. Khi đám rước đi qua cung vua, một viên
thái giám vào tâu để vua biết. Sau đó, đám rước lại tiếp tục đi và khi
đi qua bộ Lễ, một viên quan đánh vào mông trâu ba roi, có ý thôi thúc trâu
phải làm việc.
Tới Ðài, các quan làm lễ tế Thần Nông theo như nghi lễ các cuộc tế khác.
Tế Thần Nông xong, trâu và tượng Thần Nông được quân lính mang đi chôn sau
buổi lễ.
Tại các tỉnh, trong ngày Lập xuân cũng có lễ tế Thần Nông và lễ cũng được
sửa soạn từ sau ngày Ðông chí. Các quan tỉnh phụ trách việc hành lễ. Trâu và
tượng Thần Nông cũng được đem chôn.
Lễ tế Thần Nông của các dân tộc khác
Người
Dao Tuyển, để cảm tạ công ơn và cầu xin cho mùa màng bội thu, nhà nhà
hạnh phúc thì lễ hội ngày
6 tháng 6
âm lịch
là ngày cúng Thần Nông lớn nhất trong năm. Ngoài ra họ còn thờ cúng Thần
Nông vào các ngày
1 tháng 1 âm lịch và
9 tháng 9 âm lịch hàng năm.
Một số vấn đề khác
Có tài liệu cho rằng Hoàng Đế và Thần Nông là một người. Có tài liệu thì
lại cho rằng Phục Hi, Thần Nông và Hoàng Đế là ba người khác nhau (gọi chung
là Tam Hoàng). Thực ra tất cả chỉ đều là
huyền thoại, không có gì đảm bảo là họ là ba người hay chỉ là một hoặc
hai người.
Câu hỏi tại sao
người Việt nhận là con cháu của Thần Nông, một trong những ông vua đầu
tiên của
Trung
Hoa là vấn đề được nhiều người tranh cãi. Một số nhà nghiên cứu hiện
nay, dựa trên các dữ liệu về sử học, thần thoại học, ngôn ngữ học, đã giả
thiết rằng Thần Nông là một vị thần có nguồn gốc từ phương nam (từ
phía nam
sông Dương Tử xuống đến hết
Việt Nam
ngày nay, đó là vùng đất cư trú của cư dân Bách Việt). Sau khi nước Trung
Hoa mở rộng từ phía tây sang phía đông (giai đoạn một), rồi từ phía bắc
xuống phía nam (giai đoạn hai) thì Thần Nông được người Trung Hoa sát nhập
vào văn hóa của họ và được coi là một trong các "ông vua" đầu tiên của họ.
Thực ra trước đó, Thần Nông đã được coi là "ông tổ" của một số bộ tộc Bách
Việt. Và sau này, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa rất mạnh, nhiều người
lầm tưởng người Việt nhận một ông vua Trung Hoa làm ông tổ của mình.
Các dữ liệu ủng hộ giả thuyết trên:
- Thần Nông tức là vị thần về nông nghiệp, vị thần này thường được hình
dung cưỡi trâu để đi lại nên vị thần gắn liền với
văn hóa lúa nước.
- Thần Nông còn có một tên gọi khác là Viêm Đế (vua xứ nóng - vua phương
nam), và được coi là vị thần cai quản phương nam.
- Cách đọc từ Thần Nông là cách đọc của phương nam, người phương bắc sẽ
có xu hướng đọc là Nông Thần.
- Tuy nhiên, điều này bị phản bác rằng từ Thần Nông vẫn hiểu được theo
ngữ pháp phương bắc, và có nghĩa là người nông phu-thần linh.
- Truyền thuyết của một số
dân tộc thiểu số của Việt Nam (ít bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa)
như
dân tộc Mèo cũng coi Thần Nông là ông tổ của nghề trồng lúa nước.
Xem thêm
- Đinh Gia Khánh, Đại cương về tiến trình văn hóa Việt Nam, trong:
Các vùng văn hóa Việt Nam, Chủ biên: Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận, NXB
Văn học Hà Nội, 1995
|