|
-
Cử chỉ thông thường của người Việt
-
-
Lỗ Tấn từng viết về những người nhà quê của A Q thái hành dài bằng
đốt ngón tay, trong văn chương Tự lực văn đoàn cũng có những cảnh
hài hước khi muốn chế giễu những người được cho là quê mùa nào đó,
ví dụ cho một anh nông dân nhảy đầm. Từ hoang dă đến con người hiện
đại là quăng thời gian hàng vạn năm, rất nhiều hành vi đă ngưng đọng
lại không bao giờ thay đổi nữa. Đó chính là cử chỉ thông thường của
một dân tộc, không bao giờ đánh giá theo thang giá trị đẹp hay xấu.
-
Cũng giống như tất cả người Việt khác, tôi ít khi để ư đến hành vi
thường ngày của ḿnh, nhưng dần dà cũng có những phân biệt nhất định,
nhất là khi đi sơ tán, tôi thấy người sống ở nông thôn có những cách
hành xử khác với người ở thành thị. Tiếp xúc với những người thuộc
các sắc tộc khác nhau, lại thấy những hành xử khác nữa, rồi gặp
người nước ngoài lại là một cách sống khác. Cái ǵ tạo nên những
phong cách sống, như một số người có đầu óc kỳ thị thường phân biệt
giữa người nhà quê và người thành phố, giữa người da trắng và người
da màu, mà về bản chất nó không phản ánh sự tốt xấu, sang hèn chỉ là
hệ quả của cả hành tŕnh dân tộc.
-
Bà tôi và những cụ già khác thường nhai trầu bỏm bẻm, khi răng yếu
các cụ có chiếc cối nghiền trầu nho nhỏ và ngoáy vào đó suốt ngày.
Tôi thấy một cụ già nhờ nhà sư chùa làng nhai trầu hộ, rồi bà ăn
sau, một hôm nhà sư bận nên nói bà nhờ cô gái này này. Bà cụ bảo: Cô
này miệng hôi tôi không ăn được. Nhà sư: Miệng tôi mới hôi, c̣n
miệng các cô ấy thơm lắm. Bà cụ nói: Các thầy là người tu hành nên
khí chất thơm tho, c̣n các cô ấy có tu ǵ đâu mà thơm hay hôi. Như
vậy cách quan niệm của các cụ già xưa thật khác thường, đạo đức
quyết định tất cả những phẩm chất c̣n lại, mà thực tế th́ không hẳn
như vậy. Dưới cái mũi của con người động vật nói chung rất hôi hám,
nhưng chúng không liên quan ǵ đến giá trị thiện ác cả, và nếu có
th́ động vật rất thiện so với con người. Lỗ Tấn cũng viết một cách
hài hước rằng có lẽ mồ hôi của cô tiểu thư thành thị th́ thơm hơn mồ
hôi của anh công nhân chăng?
-
|
-
Nụ cười thiếu nữ. Bưu ảnh Pháp đầu thế kỷ XX.
|
-
Hay cười, xỉa răng, ngồi xổm là ba hành vi đặc trưng của người Việt,
dù ngày nay đă thay đổi chút ít. Gặp bất cứ ai, dù không quen biết,
người Việt có thói quen hay cười, rồi cả quen nhau rồi, mỗi khi kết
thúc công việc ǵ đó lại cười. Bắt tay cười, mua hàng cười, nói
chuyện cười, xem đám đông cười, thắng lợi cười, thất bại cũng
cười... nghĩa là cười ở bất cứ đâu, với bất cứ ai, trong đó có cả
cười một ḿnh và lẩm bẩm một ḿnh. Cười trở thành một thói quen bắt
đầu cho một giao tiếp, đến nỗi nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cho rằng hay
dân tộc ḿnh c̣n trẻ con. Cái cười này không nhất thiết bộc lộ niềm
vui, nó giống như lời chào thôi, để kết thúc một việc, nhất là khi
gặp gỡ quan lại sai nha xưa để giải quyết hành chính, cười c̣n có
tính nịnh nọt, nhằm lấy ḷng cho được việc. Song trong cuộc sống
thường nhật, không nhất thiết phải cầu cạnh ai người ta vẫn cười,
điều đó cho thấy cười đă trở thành một hành vi vô thức, không nhất
thiết phải có việc hay thái độ ǵ. Cười là sự tự kỷ của người Việt.
-
Xỉa răng chỉ là một việc rất nhỏ sau khi ăn của người Việt, nhưng
được người phương Tây nh́n nhận như một đặc trưng tính cách, như
trên đă dẫn, họ cho rằng người Việt hay ăn cỗ, và ai ăn xong rồi th́
được đánh dấu bằng một cái que cắm vào mồm. Hầu hết người Việt lớn
lên đôi chút là chân răng thường hở, khiến cho khi ăn thức ăn giắt
vào kẽ răng và phải xỉa răng. Tập tục ăn trầu có chất vôi và nhuộm
răng đen làm cho răng chắc khỏe, với những ai giữ được thói quen
truyền thống này th́ có thể giảm xỉa răng. Tuy nhiên trong quá khứ,
thuốc đánh răng và bàn chải chỉ xuất hiện khi người phương Tây sang,
c̣n người Việt cổ chỉ có xúc miệng bằng nước chè, rượu, đánh rằng
bằng than hay múi cau khô. Ngoài bốn mươi, sự lăo hóa bắt đầu và
răng bắt đầu rụng cũng như doăng ra, người ta buộc phải xỉa răng.
Người Việt cổ già tương đối sớm, cũng như lập gia đ́nh sớm. 50 tuổi
là ra đ́nh lên lăo, 60 tuổi là hết ṿng hoa giáp có thể chầu trời,
70 tuổi là rất hiếm. Tục xỉa răng không phổ biến ở người phương Tây
và ngay cả người Trung Hoa, nên được coi là cử chỉ riêng của người
Việt. Xỉa răng sau khi ăn thực ra liên quan đến cách thức nấu nướng
hằng ngày. Chúng ta không rơ thời trung cổ người phương Tây ăn những
tảng thịt nướng to tướng th́ họ sẽ xử lư răng miệng thế nào, nhưng
về sau nhiều các đồ ăn phương Tây chuyển sang hầm nhừ, bộ răng không
quá vất vả. Món ăn Trung Hoa cũng vậy, không nhiều đồ luộc như Việt
Nam. Người Việt ăn nhiều chất sơ và đồ luộc, chất sơ từ rau cỏ, lại
ăn nhanh và không nhai kỹ, lại luôn mồm nói chuyện trong khi ăn, nên
luôn làm cho bộ răng ngứa ngáy. Vả lại đàn ông xỉa răng để nói nốt
câu chuyện tào lao rồi uống trà, đàn bà che miệng xỉa răng lộ vẻ kín
đáo.
-
Bữa cơm gia đ́nh. Bưu ảnh Pháp đầu thế kỷ XX.
-
-
Ngồi khoanh chân xếp bằng như tọa Thiền là tính cách riêng của người
phương Đông. Đầu gối người phương Tây do quá tŕnh sống riêng rất
khó gập được như vậy. Nhưng ngay cả người phương Đông hiện đại không
phải ai cũng ngồi xếp bằng được, bởi thói quen mới ngồi duỗi chân
với bàn ghế cao và bệnh béo ph́, c̣n người xưa ngồi chiếu là phổ
biến. Cái chiếu phổ biến đến mức nó trở thành khái niệm tượng trưng,
xác định vị thế xă hội của con người. Người ta gọi là hộ tịch, tức
là góc chiếu của gia đ́nh và cá nhân nào đó, trong đó hộ là cái cửa
nhà, cái nhà, c̣n tịch là cái chiếu. Người đứng đầu gọi là chủ tịch,
nhưng người khác gọi là tịch viên. Và người có mặt nhưng không có
quyền như những người trong cuộc khác th́ gọi là liệt tịch. Liệt
tịch bao gồm cả con ngựa ta cưỡi đến dự một cuộc khai hội (họp),
nghĩa là chúng có đến cùng với chủ nhưng không được quyền phát biểu.
Ra đ́nh bạn sẽ được ngồi xếp bằng trên một góc chiếu, đó là vị thế
của bạn. Có chiếu trên chiếu dưới phân cấp. Chiếu trên th́ gần bàn
thờ Thánh, càng xa bàn thờ th́ càng là chiếu thấp, thấp nữa là chiếu
ngoài sân đ́nh. Riêng những người làm mơ th́ ngồi chiếu riêng, ăn
mâm riêng được coi là những người hạ đẳng xuất thân từ dân ngụ cư.
Chiếu cao hơn th́ cỗ cũng to hơn, nhiều món hơn. Kẻ thấp sẽ ghen tức
v́ mâm kẻ cao thật nhiều sơn hào hải vị. Mới có câu Bầu dục không
đến bàn thứ tám. Cái văn hóa góc chiếu giữa đ́nh này chưa hề mất đi,
ngày nay nó được thay thế bằng văn hóa phong b́, nghĩa là ăn tiệc sẽ
như nhau, nhưng tiền thưởng theo đẳng cấp.
-
Những
người yoga và những bậc Thiền sư dùng ngay thế ngồi xếp bằng đặc
trưng làm kỹ thuật tu luyện, hoặc bắt chéo cả hai chân lên nhau (gọi
là kiết già toàn phần), hoặc bắt một chân (kiết già bán phần) và đưa
vào đó ư nghĩa mới của sự thanh tĩnh hướng nội. Cái bệ rạc nhất trở
thành cái cao khiết nhất trong nháy mắt trong cùng một cử chỉ, và v́
thế ngồi xếp bằng được coi là một đặc trưng phương Đông về sự an
tĩnh đàng hoàng. Ở Trung Hoa, phổ biến trong thời Tần Hán là cách
ngồi quỳ đầu gối, bàn ghế chưa đóng vai tṛ nhiều, trừ chiếc bàn
thấp để uống rượu đàm đạo. Cách ngồi quỳ đă từ lâu lui vào dĩ văng ở
Trung Quốc th́ vẫn c̣n thịnh hành ở Nhật Bản nhiều thế kỷ sau. Những
người du mục Mông Cổ luôn ngồi tư thế thơng chân trên ḿnh ngựa, khi
xuống đất hoặc ngồi khoanh chân hoặc ngồi cao thơng chân xuống đất.
Tất cả những tư thế trên có nguồn gốc sinh hoạt của nó, mà người
Việt không có. Quỳ lạy được dùng trong tế lễ, yết kiến vua quan,
không thật phổ biến trong sinh hoạt. Đại bộ phận nông dân thích ngồi
xổm, tức là ngồi gập đầu gối, đít kê ḥn gạch hoặc ghế đẩu, hoặc
ngồi không, hoặc ngồi bệt. Ăn và ỉa đều ngồi xổm, riêng ăn th́ là tư
thế thông thường trong chiến tranh, cái dạ dày luôn bị ép lại, cũng
phù hợp với nguồn thức ăn không dồi dào. Và ngồi xổm để đại tiểu
tiện cũng dễ cho con người. Cho đến ngày nay, nông thôn đă xây nhà
vệ sinh hiện đại, nhưng người ta vẫn ngồi chồm hổm trên đó.
-
Mất nhiệt cả ngày vào mùa đông, chịu nóng ẩm vào mùa hè, xương cốt
khí chất người Việt ngày càng lỏng lẻo dù mới qua tuổi ba mươi. Họ
luôn có tư thế so vai rụt cổ, khi ngồi trên ghế tựa, thỉnh thoảng
phải co cả hai chân lên ôm gối. Khoa xem tướng nhận định rằng những
người đầu gối quá tai ( tư thế ngồi xổm ) là tướng bần hàn suốt đời.
Khi viết về người Trung Quốc, người phương Tây nhận xét rằng người
Trung Quốc ít khi nh́n thẳng, hay cúi đầu cụp mắt, hệ quả của hàng
ngàn năm phong kiến nô dịch. Cúi đầu, lom khom, rụt rè...thực ra là
hành vi phổ biến ở người phương Đông b́nh dân xưa. Những tư thế ăn
vào máu con người, vào thời hiện đại, khi không sợ ông vua nữa, th́
họ cũng không tự tin khi đứng trước người phương Tây. Thế rồi h́nh
thành một loại người đứng trước người Tây th́ như nô lệ, đứng trước
người ta lại như thực dân.
-
Dáng
người thấp nhưng đậm, cơ bắp khỏe, người nông dân xưa đi lại luôn có
xu hướng chúi về đằng trước. Dáng đi này chịu ảnh hưởng của việc
liên tục gánh gồng. Gánh nước, gánh thóc, gánh củi, gánh rau cỏ,
gánh phân...từ trẻ con đến người già không ai không phải làm. Đôi
vai trở nên vạm vỡ, cơ ngực cũng nở nang, trừ những thời kỳ đói ăn
dài, người phụ nữ Việt có bộ ngực nở hơn phụ nữ Hoa. Một số làng
thay v́ gánh th́ đội thúng trên đầu, nhất là các bà đồng nát, nhưng
người Việt cũng không thể đội lọ như những người Ấn Độ - Khmer.
Người Việt cũng không quen gùi trên lưng như những sắc tộc miền núi,
mà sở trường là gánh nặng và đi đường xa. Kéo xe, thồ hàng bằng xe
kéo, hoặc bằng xe đạp ( thế kỷ 20 ) cũng là thói quen lao động. Chân
giă gạo, tay xay cối, vai gánh nặng, lội đồng, bơi sông, trèo cây
hái củi...những hành vi thường ngày có tác dụng rèn luyện sức khỏe
và uốn nắn cơ thể có những thói quen ứng xử nhất định, nên khi không
lao động nữa người Việt thích ngả ngốn, tưởng chừng không theo một
tư thế nào nhất định, nhưng thực ra vẫn là ngồi xổm, gác chân lên
bàn hoặc lên ghế, sờ soạng linh tinh, nghiêng bên nọ, ngả bên kia và
thay đổi tư thế liên tục. Họ vừa thiếu lại vừa thừa năng lượng. Khí
hậu nóng ẩm hay thay đổi, nhiều ruồi muỗi, khiến ai nấy luôn tay găi
và quạt. Tất cả những điều này cộng lại cho thấy rất ít người Việt
có khả năng ngồi yên một chỗ năm sáu tiếng, làm nghiên cứu khoa học
kiên tŕ ngày này qua ngày khác, theo đuổi một mục đích duy lư dài
lâu. Trong suốt một ngàn năm phong kiến chỉ có hai người có khả năng
ấy mà trở thành nhà nghiên cứu duy nhất, đó là Lê Quư Đôn và một
người gần được như thế là Phan Huy Chú.
-
Người Việt cổ vốn ít râu và lông trên người, như lông chân, lông
tay, c̣n lông ngực rất hạn hữu. Quá tŕnh lội bùn cày cấy và ṃ cua
bắt ốc, những lỗ chân lông gần như bị bịt hết, lớp da của họ nhẵn
thín như tráng lên đó một lớp màng ni lông nâu bóng, do vậy khả năng
đổ mồ hôi khi trời mưa nắng và nóng do lao động rất chậm, trừ khu
vực đầu. Đặc điểm này giúp cho cơ thể người nông dân tránh bị cảm
nắng khi lội nước dầm dề, nhưng lại thường gây chướng khí trong
bụng. Người Việt do đó hay bị đầy hơi chướng, hay đánh rắm bừa băi,
hay khó tiêu. Cho nên theo truyền thống phần lớn thức ăn đem luộc ít
xào nướng bằng dầu mỡ và các loại ẩm thực đặc sản rất thanh nhẹ, như
bánh gio, bánh cuốn, bánh tẻ. Nếu ăn xong bị đầy bụng, người ta nếu
là đàn ông thường véo bảy cái vào bụng và mỗi lần véo th́ hú lên một
hú, c̣n đàn bà th́ véo chín cái. Trừ tóc và bộ phận sinh dục, th́
bao nhiêu lông sót trên người, người ta có xu hướng vặt bằng sạch,
như lông nách. Bộ tóc được chăm chút hằng ngày, chải bằng lược thưa
và lược bí răng dày. Bẩn th́ gội bằng bồ kết nướng. Cả đàn ông và
đàn bà đều không cắt tóc, cứ để dài, rồi búi tṛn trên đỉnh đầu (gọi
là Nhục kháo). Nhưng ông đồ th́ chau chuốt hơn, mai tóc vắt lên tai,
gọi là mai gọng kính c̣n móng tay có vài người không bao giờ cắt, để
dài tới vài chục phân. Tất cả tóc rụng, móng tay móng chân đều phải
nhặt lại. Móng sừng th́ cho vào cái túi nhỏ, tóc lại thường giắt vào
liếp, có thể dùng đánh gió khi cảm. Khi nào chết người ta gom tóc và
móng sừng để vào áo quan. Đó là một phần của trời đất và mẹ cha cho
ḿnh không được phép vứt bỏ.
-
Người Việt không ưa đàn ông trẻ mà để râu. Râu ria chỉ được phép để
khi ngoài 40 tuổi. Nghề cạo râu, sửa tóc, lấy ráy tai có khá sớm,
riêng môn cắt tóc chỉ thịnh hành khi phong trào Duy tân và Đông kinh
nghĩa thục kêu gọi đổi mới. C̣n nhổ lông trên người và nhổ tóc sâu,
bắt chấy người ta thường làm giúp nhau như bầy khỉ. Dẫu vậy từng
người một, người Việt vẫn tự ngó ngoáy vào cơ thể ḿnh cả ngày.
Ngoáy mũi, ngoáy lỗ tai, găi đầu, nhổ lông nách và ngửi nách, quạt
phành phạch. Nếu có đàn bà con gái đứng quanh th́ cũng tṛng ghẹo,
phát vào mông, véo má, véo tai, nếu là trẻ con người ta hay cắn nhẹ
vào tay và má. Tất cả các hành vi này đều mang tính vô thức, giải
tỏa năng lượng thừa, tạo niềm vui trong cuộc sống thường nhật và gắn
kết cộng đồng. Ai không như vậy lại thường không được ưa lắm.
-
Ở phương Tây nếu không phải người đồng tính người ta rất kị người
cùng giới chung pḥng hoặc chạm vào nhau. Số người đồng tính ở Việt
Nam trong quá khứ không nhiều, trừ những người có căn đồng mà chúng
ta có thể bàn sau, nhưng hiện tượng người cùng giới sống thân mật là
phổ biến. Đây là một tính cách dân tộc và rất lành mạnh không liên
quan ǵ đến đời sống tính dục. Khi bạn bè thân nhau, người ta hay
thích ngủ chung giường và tṛ chuyện suốt đêm. Khi Khổng giáo phát
triển, người ta rất kị việc nam nữ chung sống đặc biệt chưa hôn thú.
Ngay với trẻ con cũng vậy, nếu đi đâu xa phải ngủ tập thể, th́ nam
nằm với nam, nữ nằm với nữ. Trong lối đào tạo Quan họ cổ, trẻ con
lên bảy lên tám tuổi, đến nhà ông trùm bà trùm ( những bậc thầy hát
Quan họ ) học hát và ngủ đêm luôn ở đó, gọi là ngủ bọn, các bé trai
ngủ ở nhà ông trùm, các bé gái ngủ ở nhà bà trùm. Tuy vậy trong giao
tiếp hằng ngày, người Việt không ôm hôn, không bắt tay, chào nhau
th́ cúi đầu, ngả mũ hoặc giơ nón mũ lên cao, đi ra xa th́ vẫy tay.
Con cái lớn không đứng gần và đứng trước cha mẹ, học tṛ luôn đi sau
thầy, vợ đi sau chồng, trước mặt người lạ luôn giữ một khoảng cách,
khoảng cách đó kể cả với chồng. Ở nhà thường nhật hai vợ chồng có
thể ngồi cùng mâm, nhưng nếu có khách đến chơi, th́ vợ và các con
xuống bếp ăn, mâm trên nhà chỉ có ông chủ nhà và khách. Khi chủ nhà
đi vắng, người con cả sẽ ngồi tiếp thay bố, chứ mẹ th́ không. (Lưu ư
rằng những tính cách ứng xử này trong thời chưa ảnh hưởng văn minh
phương Tây, không phải là hiện nay).
-
Có lần dẫn một người bạn nước ngoài đi xem bảo tàng, anh ta thắc mắc
trong các chạm khắc đ́nh làng luôn có h́nh ảnh con người ngửa mặt
lên trời hoặc cúi gằm xuống đất. Tôi đă xem điêu khắc đ́nh làng
nhiều lần nhưng chưa bao giờ nảy ra câu hỏi như vậy, bèn trả lời cho
qua chuyện, cái này cũng giống như điêu khắc Gothic ở phương Tây,
con người luôn chỉ có hai tư thế ngửa mặt lên trời cầu Thiên chúa,
và cúi mặt xuống đất nhẫn nhục. Có lẽ h́nh ảnh con người trong chạm
khắc cổ Việt Nam phản chiếu một vấn đề khác không có tính tôn giáo
như nghệ thuật Gothic. Sự nhẫn nhục, phục tùng là phổ biến trong
tính cách b́nh dân phương Đông cổ, hằng ngày, trong nghệ thuật, và
cả ngày nay cũng chưa hết như vậy. Song ngửa mặt lên trời lại không
phải là hành vi phổ biến, trong nghệ thuật nó chỉ là biểu hiện sự
vui đùa thôi, nó thể hiện sự không coi cái ǵ ra ǵ (nhất thời), sự
chế nhạo, tự tâng bốc và thỏa măn với bản thân ḿnh, sự điên rồ tùy
hứng, bởi không mấy khi hào sảng như vậy.
-
Bái kiến một vị quan. Bưu ảnh Pháp đầu thế kỷ XX.
-
-
Nịnh hót, xun xoe, khúm núm là hành vi hay là phẩm chất, hay đôi khi
là cả hai, th́ cũng rất thông thường ở người Việt. Mặc dù không ai
thích như vậy, nhưng ít ai tránh khỏi v́ đó là một tính cách bản
năng mất rồi. Người phương Tây sang Việt Nam thế kỷ 17, 18 nhận xét
rằng gặp quan lại Việt Nam không thể không có quà biếu. Trao và nhận
quà biếu cũng là một tính cách dân tộc có liên hệ mật thiết với sự
nịnh hót, khúm núm nói trên. Biểu cảm như thế nào c̣n là tùy hoàn
cảnh và con người cụ thể. Hoặc may hai chiếc áo có hai vạt khác nhau
như truyện dân gian về một ông quan. Lúc gặp quan trên th́ mặc áo
vạt trước ngắn, v́ phải cúi ḿnh, lúc gặp dân đen th́ mặc áo vạt sau
ngắn v́ ưỡn bụng vênh vang. Cúi lưng, xoa tay, ngửa mặt đớp lời quan
khách, cười nhạt nhưng niềm nở, mắt hấp háy, chân nam đá chân siêu,
luống cuống làm việc nọ xọ việc kia, bưng chén hai tay, đuổi ruồi
cho ngài, sửa vạt áo cho ngài, xếp lại giày cho ngài, pha trà hảo
hạng, mở chai rượu mới nhăn hiệu Napoleon, ngọt giọng bảo vợ đun lại
nước sôi, gọi con gái xinh đẹp ra chào khách, khen ngài dạo này trẻ
khỏe, hơi gầy, nhưng nom tướng rất phát, ta thán về sự bận bịu của
ngài lo việc dân việc nước... Riêng về đề tài này chỉ liệt kê chắc
được một bài dài năm bảy trang.
-
Phan Cẩm Thượng
Tạp chí Tia Sáng
Thứ sáu, 02/10/2009
|