Tục thờ Thành
hoàng
(Trích từ Hanam.gov.vn)
Tục thờ thành hoàng có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ, sau khi du nhập vào
làng xã Việt Nam đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân
Việt, trở nên hết sức đa dạng.
Thành hoàng có thể là một vị thiên thần như Phù đổng Thiên vương, một
thần núi như Tản Viên Sơn thần, một vị nhân thần có công với dân với
nước như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tượng... lại có khi
là các yêu thần, tà thần... với nhiều sự tích hết sức lạ lùng, nhiều khi
có vẻ vô lý. Tuy nhiên các thành hoàng được sắc vua phong (trừ những tà
thần, yêu thần...) luôn luôn tượng trưng cho làng xã mà mình cai quản là
biểu hiện của lịch sử, của đạo đức, phong tục, pháp luật cũng như hy
vọng sống của cả làng. Thành hoàng có sức toả sáng vô hình như một quyền
uy siêu việt, khiến cho làng quê trở thành một hệ thống chặt chẽ.
Theo tục lệ xưa, các đời vua thường phong các vị thành hoàng thành ba
bậc: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, tuỳ theo sự tích
và công trạng của các vị thần đối với nước với dân, với làng xã. Các vị
thần cũng được xét đưa từ thứ vị nọ lên thứ vị kia, nếu trong thời gian
cai quản các vị này đã phù hộ, giúp đỡ được nhiều cho đời sống vật chất
và tâm linh của dân chúng. Việc thăng phong các vị thành hoàng căn cứ
vào sớ tâu của làng xã về công trạng của các vị thần. Sớ này phải nộp về
triều đình trong một thời gian quy định. Mỗi lần thăng phong triều đình
đều gửi sắc vua ban rất linh đình và cất nó trong hòm sắc thờ ở hậu cung
đình làng.
Thành hoàng cũng được gọi là phúc thần, tức vị thần ban phúc cho dân
làng, thường mỗi làng thờ một thành hoàng, xong cũng có khi một làng thờ
hai, ba hoặc hai ba làng thờ một vị. Thành hoàng có thể là nam thần hay
nữ thần, tuỳ sự tích mỗi làng.
Đình làng là nơi thờ phụng thành hoàng và trở thành một biểu tượng
văn hoá tâm linh của mỗi người dân quê Việt. Làng nào cũng có đình, có
khi mỗi thôn lại có một đình riêng. Đình để thờ thành hoàng nhưng đồng
thời cũng trở thành nơi hội họp của chức sắc trong làng, hay là nơi sinh
hoạt của cộng đồng làng xã. Mọi hoạt động này đều xảy ra ở đình với sự
chứng kiến của thành hoàng.
Trong tâm thức người dân quê Việt, Đức thành hoàng là vị thần tối
linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ,
phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp
tục sinh sôi nhưng thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích
không thể phủ nhận được của một làng qua những cơn chìm nổi.
Có thể cho rằng, thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã
không chỉ về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật
chất của dân làng. Cho nên sự thờ phụng thành hoàng xét cho cùng là sự
thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng.
Chính sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng
đoàn kết, nếp sống cộng cảm hoà đồng, đất nề quê thói được bảo tồn. Vì
lẽ đó, các hương chức cũng như các gia đình trong làng, mỗi khi muốn mở
hội hoặc tổ chức việc gì đều phải có lễ cúng thành hoàng để xin phép
trước. Có lẽ, sự ngưỡng mộ thành hoàng cũng chẳng kém gì sự ngưỡng mộ tổ
tiên.
Ngày nay, lễ hội làng đang phát triển mạnh mẽ và nở rộ ở khắp nơi.
Tục thờ cúng thành hoàng, diễn lại thần tích, rước xách, tế lễ đang được
phục hồi, vì có như vậy mới ghi nhớ được công lao của các vị tiền bối
với nước, với làng. |