| 
         | 
    
     
	
	Cù Lao 
	Phố 
	Bác sĩ Trần Nguơn Phiêu 
	 
	 
	Trong lịch sử mở rộng bờ cỏi đất nước Việt Nam, cuộc Nam Tiến đă thật sự 
	thành công khi vùng đất Đồng Nai-Gia Định đă được tiền nhân gia công củng cố 
	phát triển. Từ nơi đây, một đầu cầu vững chắc đă được h́nh thành, để từ đó 
	bung ra khai thác toàn vùng đồng bằng Sông Cữu. 
	Vùng đất miền Nam đă thành h́nh trong lịch sử Việt Nam chỉ vào khoảng 400 
	năm, kể từ thế kỷ XVII. Trước thế kỷ thứ VI, đây là một vùng đất hoang vu 
	thuộc Vương quốc Phù Nam. Trường Viển Đông Bác Cổ, sau cuộc khám phá các di 
	tích ở Óc Eo, vùng núi Ba Thê (Châu Đốc) năm 1944 đă gọi thời này là nền văn 
	minh Óc Eo. Sau thế kỷ thứ VI, sắc tộc Kambuja từ miền Bắc tràn xuống đă phá 
	tan vương quốc Phù Nam và thành lập vương quốc Chân Lạp. Vương quốc Chân Lạp 
	đă nổi tiếng v́ sự nghiệp xây dựng một kỳ công kiến trúc: đền đài Angkor vào 
	thế kỷ XII! Vương quốc Chân Lạp đă suy yếu v́ những cuộc tranh dành nội bộ 
	cộng với sự lấn chiếm của lân quốc Xiêm. Họ đă phải ba lần dời đô, từ bỏ 
	Angkor để qua Oudong và sau cùng dừng lại ở Phnom Penh.  
	Năm 1620, với ư định t́m đồng minh liên kết để chống trả vương quốc Xiêm, 
	vua Chey Chetta II đă đến đất Thuận Hóa, xin cầu hôn cưới công chúa Nguyễn 
	Ngọc Vạn, con của chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên. Công chúa Ngọc Vạn đă trở 
	thành Hoàng hậu Ang Cuv hay Sam Đát đất Chân Lạp. Chuyện cưới gả này cũng là 
	dịp để Chúa Nguyễn có thêm được tiềm lực tài nguyên trong cuộc phân tranh 
	với chúa Trịnh ở Bắc. Cuộc Nam Tiến đă thực sự khởi tiếp để kết thúc ở miền 
	Nam nhờ ở sự kết hôn của công chúa Ngọc Vạn. Việc này cũng có thể coi như sự 
	lập lại của lịch sử trước kia, khi nhà Trần gả công chúa Huyền Trân về vương 
	quốc Chàm để lấy đất hai châu Ô, Rí! 
	Tháp tùng công chúa Ngọc Vạn là một số tùy tùng thân tín theo để phục vụ. 
	Lịch sữ ghi nhận công chúa Ngọc Vạn, nay là hoàng hậu Sam Đát đă xử sự rất 
	khéo và rất được ḷng hoàng tộc Chey Chetta. Sau cuộc hành quân năm Mậu Tuất 
	(1658) của chúa Nguyễn Phước Nguyên vào Môi Xuy (Bà Rịa), vua Nặc Ông Chân 
	mới chịu thuần phục Chúa Nguyễn và đồng ư cho người Việt đến sinh sống trên 
	đất ḿnh. Chúa Nguyễn lại khuyến khích dân Thuận Quảng di vào đất Chân Lạp 
	khẩn hoang, lập ấp, biến miền đất hoang phế, ít ỏi dân cư này càng ngày càng 
	thêm trù phú. 
	Năm 1679, một sự kiện mới lại làm cho cuộc Nam Tiến đợt này thêm phần đột 
	khởi: cuộc di dân của hơn ba ngàn quan binh Trung Hoa, gốc Quảng Đông- Phước 
	Kiến, trung thành với Minh triều, không chấp nhận sống dưới triều Mản Thanh. 
	Xuôi về Nam trên 50 chiến thuyền, họ đă đến xin chúa Nguyễn Phúc Tần chấp 
	nhận cho nơi cư trú. Chúa Nguyễn ưng thuận cho họ đến khai khẩn đất miền 
	Nam. Nhóm di dân này đă chia làm hai: một nhóm do tướng Trần Thượng Xuyên, 
	Trần An B́nh hướng dẫn đă chọn vùng Đồng Nai- Gia Định để khai khẩn. Nhóm 
	thứ hai do Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến chỉ huy đă tiến xa hơn, chọn vùng Mỹ 
	Tho- Cao Lănh làm đất dung thân. 
	Trần Thượng Xuyên và các bộ hạ đă chọn vùng Cù Lao Phố để thành lập và phát 
	triển thành Nông Nại Đại Phố, một thương cảng sầm uất, tấp nập thương thuyền 
	buôn bán với người nước ngoài như Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn Độ, Mă Lai, Nam 
	Dương... Là một cấp chỉ huy có tầm nh́n xa, Trần Thượng Xuyên đă thấy vùng 
	đất này có nhiều tiềm năng về nông nghiệp và thương nghiệp v́ thuận lợi giao 
	thông thủy bộ. Ông đă huy động sức người và của cải để thương cảng Nông Nại 
	Đại Phố thành một trung tâm thương mại danh tiếng vào bật nhất ở phương Nam 
	vào thời bấy giờ. Khúc sông Đồng Nai, vùng Cù Lao Phố từ đó, đă được biết 
	với danh xưng mới: Sông Phố.  
	Cù Lao Phố mang nhiều tên gọi khác nhau. Ngoài tên Nông Nại Đại Phố, c̣n có 
	các tên: Đông Phố, Giản Phố, Cù Châu, Bải Rồng. Đối với người dân đất Đồng 
	Nai hiện nay, Cù lao Phố là một địa danh quen thuộc, mọi người đều biết. Đây 
	là một ḥn đảo phù sa, nằm gọn giữa hai cánh tay sông Đồng Nai. Quốc lộ số 1 
	ngày trước cũng như đường xe lửa xuyên Việt đều băng qua cù lao này qua hai 
	chiếc cầu: Cầu Gành bốn nhịp về phía Nam và Cầu Rạch Cát về hướng Bắc. 
	Sách Đại Nam Nhất Thống Chí đă ghi nhận cảnh phồn thịnh của Cù Lao Phố ngày 
	trước như một nơi hưng thịnh, thu hút nhiều cư dân đến từ miền Trung. Nhà 
	mái ngói, tường vôi, lầu cao, quán rộng. San sát bên bờ sông là các nhà gổ 
	hai từng, nối liền năm dậm. Ngoài việc xây cất nhà cửa, chợ búa, phát triển 
	các nghề trồng trọt, thủ công nghiệp, Trần Thượng Xuyên c̣n cho xây ba loại 
	đường rộng, bằng phẳng, đến nay vẫn c̣n. Con đường giữa theo chiều dài cù 
	lao lót đá ong đỏ, dài độ 4 km, từ chùa Đại Giác đến bến đ̣ Kho. Đường thứ 
	hai, xây ngang cù lao, lót đá trắng chặt con đường giữa cạnh chợ Hiệp Ḥa đi 
	đến bến đ̣ Tân Vạn. Con đường thứ ba, lót đá xanh bao quanh cù lao th́ h́nh 
	như đă biến mất dạng, nay chỉ c̣n vài dấu tích. 
	Trần Thượng Xuyên ngoài biệt tài tổ chức khai khẩn vùng đất hoang vu thành 
	một thương cảng phồn thịnh, lại cũng là một dũng tướng đă giúp Chúa Nguyễn 
	trong nhiều trận đánh dẹp Cao Miên, mở rộng biên cương miền Nam. Năm 1690, 
	ông đă cùng với Mai Vạn Long đánh bại và bắt được Nặc Ông Chân, chiếm Nam 
	Vang, G̣ Bích, Cầu Nam. Năm 1700, ông đă giúp Nguyễn Hữu Cảnh tiến đánh vua 
	Chân Lạp lần thứ hai. Sau cuộc hành quân này, biên cương Đàng Trong đă được 
	mở rộng thêm từ Biên Trấn, Phiên Trấn đến tận Định Tường, Long Hồ và An 
	Giang. Năm 1715 ông cùng với Nguyễn Cửu Phú đánh Nặc Ông Thâm và chiếm được 
	thành La Bích. Chúa Nguyễn đă ban cho ông danh hiệu "Nguyễn vi vương, Trần 
	vi tướng, đại đại công thần bất tuyệt". Năm 1720, Trần Thượng Xuyên qua đời, 
	được phong Thượng đẳng thần, được tôn thờ ở đ́nh Tân Lân, xây bên bờ sông 
	Đồng Nai, cạnh chợ Biên Ḥa. Hằng năm dân chúng vùng này vẫn lấy ngày ông 
	mất tức 23 tháng 10 âm lịch để làm ngày giổ Đức Ông.  
	Trong các công thần nhà Nguyễn có công khai khẩn mở mang bờ cỏi miền Nam, 
	phải nhắc đến Nguyễn Hữu Cảnh. Năm 1698, Chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh 
	kinh lược phương Nam. Viên Thống suất này đă chọn Cù Lao Phố làm nơi đặt 
	tổng hành dinh. Tại bản doanh này, ông đă thiết lập cơ sở hành chánh, ổn 
	định đời sống dân chúng bằng cách tổ chức phủ, huyện, tổng, xă, thôn của các 
	vùng Phước Long, Biên Trấn. Việc quy định khai khẩn ruộng đất, lập sổ bộ 
	đinh, điền, thuế má đă giúp cho Chúa Nguyễn có thêm nguồn lợi thu thập. Ông 
	đă có sáng kiến khuyến khích dân chúng các miền Quảng Nam, Quảng Ngăi vào 
	khai khẩn ruộng đất, lập vườn tược, thành lập nhiều làng mạc trù phú. Những 
	nghề thủ công đă phát triển mạnh như đúc đồng, làm đồ gốm, đồ mộc, nấu 
	đường.v.v..., những loại hàng hóa được các thương thuyền ngoại quốc ưa 
	chuộng, thu mua xuất cảng. 
	Tháng 7 năm 1699, Nặc Thu, vua Chân Lạp chống chúa Nguyễn. Nguyễn Hữu Cảnh 
	đă được cử đi đánh dẹp, khiến Nặc Thu phải xin hàng phục vào tháng 4 năm 
	1700. Sau khi chiến thắng, trên đường rút về, khi đóng quân ở cồn Cây Sao (về 
	sau được gọi là Cù lao Ông Chưởng, An Giang), ông lâm trọng bịnh và đă mất 
	khi về đến Rạch Gầm. Linh cữu được đưa về bản doanh Cù Lao Phố và an táng ở 
	thôn B́nh Hoành, nay được đổi tên thành thôn B́nh Kính. Đền thờ Nguyễn Hữu 
	Cảnh, được dân địa phương gọi là Đ́nh B́nh Kính, nằm gần Quốc lộ 1, giữa Cầu 
	Gành và Cầu Rạch Cát, mặt tiền day xuống ḍng Đồng Nai. Hằng năm, ngày 16 
	tháng 5 âm lịch là ngày giổ được long trọng tổ chức để ghi ơn của một công 
	thần khai quốc. Danh ông đă được dân gian miền Nam đời đời ghi nhớ qua câu 
	hát ru em: 
	Bao phen quạ nói với diều: 
	Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá, tôm 
	 
	Việc Trần Thượng Xuyên cầm binh giúp Chúa Nguyễn lại trở thành một tai họa 
	khi xăy ra cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Trong khoảng những năm 
	1776- 1779, Cù Lao Phố đă bị tàn phá trong các cuộc giao tranh. Nhà cửa, 
	tiệm buôn, phố xá, kho chứa hàng đều bị thiêu đốt. Đường xá bị đào bới, các 
	cơ sở thủ công tan tành. Dân chúng bị tàn sát, thây lấp hết gịng sông quanh 
	cù lao, nước đỏ ngào v́ máu. Đến cả tháng sau, những người sống sót không ai 
	dám dùng nước ở sông v́ ô nhiểm! Cả một vùng thương cảng sầm uất đă thành 
	chiến địa tan hoang. Những người Hoa c̣n sống sót đă bồng bế nhau lánh nạn 
	về Bến Nghé và là những người đă gầy dựng lại sự nghiệp, thành lập vùng Chợ 
	Lớn về sau này!  
	Trong quá tŕnh di dân vào Đàng Trong, về mặt tín ngưởng, phải nhắc đến sự 
	kiện về ba nhà sư, đệ tử của Tổ sư Nguyên Thiều ( người gốc Quảng Đông): 
	Thành Nhạc, Thành Đẳng và Thành Chí. Ba nhà sư này đă khởi công sáng lập ba 
	ngôi chùa nay vẫn c̣n nổi danh ở Đồng Nai. Sư Thành Nhạc cùng các đệ tử đă 
	lập chùa Long Thiền ở xă Bửu Ḥa, ven sông Đồng Nai. Sư Thành Đẳng đă chọn 
	Cù Lao Phố để dựng chùa Đại Giác và sư Thành Chí đă lên vùng núi đá Bửu Long 
	xây dựng chùa Bửu Phong. 
	Chùa Đại Giác khi được dựng lên, chỉ là một ngôi chùa nhỏ, cột cây, vách ván, 
	lợp ngói âm dương. Trong cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, vào năm 
	1779, công chúa thứ ba của Nguyễn Ánh là Nguyễn Thị Ngọc Ánh trong cơn binh 
	lửa, đă có lần đến ẩn náo tại chùa Đại Giác. Khi Gia Long lên ngôi, nhớ đến 
	ơn ngày trước, vua đă ban chiếu cho trùng tu năm 1802. Đến năm 1820, vua 
	Minh Mạng cũng tiếp tục cho sửa rộng lớn hơn. Công chúa Ngọc Ánh đă cúng 
	dường một bức hoành phi sơn son thếp vàng có khắc ba chữ "Đại Giác Tự". Bên 
	trái khắc "Minh Mạng nguyên niên, mạnh đông cốc nhật", bên phải khắc "Tiên 
	triều Hoàng nữ đệ tam công chúa Nguyễn Thị Ngọc Ánh phụng cúng". Tấm hoành 
	phi này đến ngày nay vẫn được treo trước chánh điện. Qua nhiều đợt trùng tu 
	về sau này, chùa mới có thêm lầu chuông và lầu trống. V́ thế, tuy chùa có 
	tiếng là "cổ tự" nhưng nay lại có kiến trúc hoàn toàn mới. 
	Chùa Đại Giác, chùa Bữu Phong và chùa Long Thiền là ba ngôi chùa chứng tích 
	cho bước Nam Tiến của nửa đầu thế kỷ thứ XVII. Ba nhà sư : Thành Đẳng, Thành 
	Chí, Thành Nhạc thuộc ḍng Lâm Tế của tổ Nguyên Thiều đă có công đức thành 
	lập ba trung tâm Phật giáo đầu tiên ở đất Đồng Nai. Việc hoằng dương giáo 
	pháp đă được truyền đi các tỉnh miền Nam từ ba trung tâm sơ khời này. 
	Nhắc đến các đền, chùa ở Cù Lao Phố, không thể không kể đến một ngôi chùa 
	đặc biệt, nằm cách bên phía tay phải chùa Đại Giác khoảng một trăm thước. 
	Chùa có tên là chùa Chúc Đảo, nay được mang tên là chùa Chúc Thọ; nôm na lại 
	có tên gọi chùa Sau nhưng dân gian vẫn thường gọi là chùa Thủ Huồng. Người 
	sáng lập chùa là một nhân vật có thật, tên Vơ Thủ Hoàng. Có lẽ v́ dân chúng 
	Đàng Trong không dám phạm húy đến tên chúa Nguyễn Hoàng nên tên Thủ Hoàng 
	được gọi trại thành Thủ Huồng? Vơ Thủ Hoàng là một thư lại ở đất Đồng Nai 
	vào đầu thời Chúa Nguyễn. Nhờ xử dụng các thủ đoạn xảo trá, Thủ Huồng đă 
	lươn lẹo chiếm đoạt được nhiều tài sản của dân chúng, cho vay nặng lăi v.v...nên 
	đă trở thành bá hộ. Có nhiều huyền thoại được truyền tụng trong dân gian 
	nhưng đại để câu chuyện là Thủ Huồng đă có dịp gặp được một người đi thiếp 
	xuống địa ngục (có chuyện lại kể là chính ông đă được dịp đó) và thấy ở dưới 
	đang có sẳn một gông lớn dành cho Thủ Huồng! Thủ Huồng đă ăn năn hối cải, 
	đem của bố thí cho người nghèo, bán ruộng vườn để cúng dường chùa chiền, 
	giúp đở thôn xóm. Ông đă dùng gia sản dựng lên chùa Chúc Đảo ở Cù Lao Phố, 
	thiết lập một chiếc bè lớn có đầy đủ nồi niêu, gạo, mắm cho ghe thuyền lỡ độ 
	đường ngược nước có chỗ nghỉ ngơi ở ngă ba sông Đồng Nai và sông Sài G̣n. 
	Ngă ba có chiếc bè của Thủ Huồng đến nay vẫn c̣n được gọi là Ngă ba Nhà Bè, 
	một địa danh đă đi vào lịch sử với câu ḥ: 
	Nhà Bè nước chảy chia hai: 
	Ai về Gia Định, Đồng Nai th́ về... 
	Bên ḍng sông Đồng Nai, gần cầu Gành, c̣n một di tích lịch sử được dựng lên 
	từ thuở Trần Thượng Xuyên. Đó là đền thờ Quan Thánh, một vị thần mà các cộng 
	đồng Trung Hoa rất tôn sùng. Dân chúng Cù Lao Phố gọi nơi đây là Chùa Ông và 
	thường đến lễ bái. Đền có tiếng rất linh thiêng với những tượng rất cổ. Tuy 
	xa xôi nhưng hằng năm, rất nhiều người Hoa từ Chợ Lớn- Sài G̣n vẫn thành 
	kính đem lễ vật lên dâng cúng và đồng thời cũng t́m được dịp để sống những 
	phút thư thả trong cảnh trí rất đẹp của đền xây cạnh bờ sông Đồng Nai. Ngày 
	Mùng Ba Tết năm 1975, tác giả bài này đă đến viếng đền và theo thông lệ cổ 
	truyền, đă cầu xin một quẻ đầu năm. Trong xâm, Quan Thánh cho biết "Trong 
	năm có nạn lớn, đi về hướng Đông sẽ thoát". Cũng v́ lẽ đó nên khi miền Nam 
	bị lấn chiếm, tác giả đă theo lời Ông chỉ bảo, chọn đường biển Đông qua Mỹ 
	thay v́ trở qua đất Pháp là nơi đă có một thời du học! 
	Di tích lịch sử văn hóa Đồng Nai- Gia Định đến nay c̣n biết được chính xác, 
	phần lớn phải nhờ đến công tŕnh biên soạn của một danh nhân khác của thời 
	lập quốc, một nhân vật đă được người dân Biên Ḥa tôn kính: Trịnh Hoài Đức. 
	Ông gốc người Minh hương, sanh năm 1765 ở B́nh Trước, Biên Ḥa, đă từng thọ 
	giáo với Vơ Trường Toản. Ông đă được vua Gia Long trọng dụng sau khi thi đổ 
	ở Huế, đảm nhận việc dạy Đông cung Cảnh, được cử làm thượng thư hai bộ Lại 
	và Binh, nhiều lần làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Ngoài các tập thơ Cẩn Trai 
	thi tập và Bắc Sứ thi tập, ông đă viết bộ địa chí gồm sáu quyển, biên khảo 
	rất công phu về lịch sử, địa dư, phong tục, nền hành chánh...miền Nam: bộ 
	Gia Định Thành Thông Chí. Tài liệu này đă được phiên dịch ra Pháp ngử và 
	xuất bản năm 1863 ở Paris. Đây là một công tŕnh biên khảo vô giá cho những 
	sử gia muốn nghiên cứu về miền Nam. Trịnh Hoài Đức mất năm Ất Dậu thời Minh 
	Mạng, thọ 60 tuổi. Mộ đến nay vẫn c̣n ở xă B́nh Trước (Biên Ḥa) và được tôn 
	thờ ở chùa Gia Thạnh (Chợ Lớn), chùa của người Minh hương, thờ vua Gia Long 
	và các công thần người Minh.  
	 
	Cù Lao Phố, một địa danh đă một thời nổi tiếng với tên Nông Nại Đại Phố, tóm 
	lại phải được coi như một nơi xuất phát quan trọng trong việc hoàn thành 
	cuộc Nam Tiến. Mặc dầu vùng này vẫn được biết như một vùng đất mới, dân cư 
	thưa thớt khi Chúa Nguyễn cho người vào khai thác, nhưng theo các nghiên cứu 
	khảo cổ, người tiền sử đă hiện diện trên vùng đất Đồng Nai cả ngàn năm về 
	trước. Để tự bảo vệ với thú dử, người tiền sử thường t́m nơi trú ẩn ở các 
	hang động, các cù lao trên sông. Trên các cù lao như cù lao Rùa, cù lao Gáo 
	...dọc sông Đồng Nai, các dụng cụ bằng đá mài như búa, dao vẫn thường được 
	t́m thấy. 
	Năm 1927, một kỷ sư Pháp tên Jean Bouc_ đă phát hiện một ngôi mộ đá khi mở 
	con đường số 2 từ Long Khánh đến Bà Rịa, cách ngă ba Tân Phong độ 3 km. 
	Trường Viễn Đông Bác Cổ đă được thông báo. Việc khai quật đă được giao cho 
	Jean Bouc_ và chủ đồn điền cao su tên W. Bazé. Lực lượng lao động được xử 
	dụng phần lớn là các tội phạm nên việc làm đă không đúng với các nguyên tắc 
	khai quật. Tuy nhiên, J. Bouc_ là một kỷ sư nên đă ghi chú cẩn thận các chi 
	tiết đào bới. Đây là một ngôi mộ, được gọi là Mộ cổ Hàng G̣n, bằng đá hoa 
	cương được mài dũa, dài 4,20 m, ngang 2,70 m, cao 1,60 m. Sáu tấm đá được 
	mài dũa ở mặt ngoài đă được ghép thành một hộp vuông dài, được giữ chặt nhờ 
	hệ thống rănh 10 cm đục trong đá, sâu 4 đến 5 cm. Hai bên mộ c̣n có hai hàng 
	trụ đá hoa cương và sa thạch cao 7,50 m. Trên đầu các trụ đều được khoét lơm, 
	h́nh yên ngựa. Các nhà khảo cổ danh tiếng trên thế giới như H. Parmentier đă 
	quan tâm đến quan sát. Các nhà khoa học đă khẳng định, đây là mộ cổ loại 
	h́nh dolmen, nhưng so với kiến trúc Mégalithique ở Đông Nam Á, thường có 
	h́nh thức thô sơ, th́ mộ Cự Thạch Hàng G̣n của những người Việt cổ lại là 
	một thành tựu độc đáo về kỷ thuật và nghệ thuật.  
	Một phát hiện khảo cổ quan trọng khác đă chứng minh sự hiện diện của người 
	cổ Việt ở miền Nam từ nhiều ngàn năm trước. Đó là việc t́m được một nhạc khí 
	độc đáo: đàn đá. Năm 1949, một bộ đàn đá đầu tiên được t́m thấy ở buôn Ndút 
	Lieng Krak ở cao nguyên Daklat. Giáo sư G. Condominas, chuyên khảo về nhân 
	chủng học và Giáo sư âm nhạc André Schaseffner đă công bố về phát hiện khảo 
	cổ này ở Paris ngày 6 - 6- 1950. Bộ đàn đá này hiện đă được bảo tồn ở Bảo 
	tàng viện Louvres. Nhà nghiên cứu nhạc Trần Văn Khê đă có lần xin được quan 
	sát bộ đàn đá này ở Louvres nhưng chỉ được xem h́nh chụp và nghe tiếng nhạc 
	qua băng ghi âm mà thôi! Đến năm 1970, một bộ đàn đá thứ hai được phát hiện 
	ở làng Bù Dơ, tỉnh Lâm Đồng. Có lẽ v́ chánh quyền Việt trong thời chiến, 
	không chú trọng nhiều về các di tích lịch sử nên một người Mỹ đă đem bộ đàn 
	đá này về tặng cho viện Bảo tàng Los Angeles lưu giữ! 
	Đến ngày 13 tháng 12 năm 1979, nhân một cuộc khai quật khảo cổ ở B́nh Da, 
	thành phố Biên Ḥa, t́nh cờ, một bộ đàn đá đủ 47 thanh đă được phát hiện khi 
	đào sâu đến độ 65 cm! Có thể coi đây là một ngày trọng đại về lịch sử khảo 
	cổ, chứng minh vùng Đồng Nai cũng như vùng Nam Tây Nguyên đều thuộc một vùng 
	văn hóa đặc thù, văn hóa đàn đá, khác với vùng văn hóa trống đồng ở lưu vực 
	sông Hồng và sông Mă ở miền Bắc. Những mẩu tro, xương cạnh bộ đàn đá B́nh Da 
	đă được gởi sang thử nghiệm ở Đức và phản ứng phóng xạ carbone C 14 đă xác 
	định niên đại đàn đá Việt Nam ở độ 3180 năm. Vài năm sau 1979, di tích đàn 
	đá cũng đă được phát hiện nhưng không trọn vẹn ở G̣ Me, cách xa B́nh Da độ 3 
	km về hướng Tây. 
	Sông Đồng Nai là một con sông nước rất trong, so với nước đục phù sa của 
	sông Cữu Long. Ngày thường mặt sông trông rất hiền ḥa nhưng mỗi năm đến mùa 
	nước đổ, sông trôi cuồn cuộn, cuốn cành khô củi mục từ trên rừng xuống, 
	thường gây lụt lội bất ngờ. V́ vậy nên mỗi năm, mặt đất thường được phủ lên 
	bằng lớp đất mới. Tác giả bài này đă lớn lên ở ấp Phước Lư, một ấp nhỏ bên 
	bờ Rạch Cát là con rạch bao quanh Cù Lao Phố về mặt Bắc. Nhà vườn ở cạnh di 
	tích chân cầu Rạch Cát ngày xưa, nay chỉ c̣n lại hai vệ cầu rất dày, xây 
	bằng đá xanh. Bên kia bờ sông, ở Cù Lao Phố cũng c̣n di tích hai vệ cầu đối 
	diện. Năm 1945, nhân dịp cần phải đào mương rộng chung quanh vườn để đem 
	nước tưới đất, các người giúp việc đào đă cuốc gặp vô số móng sắt đóng chân 
	ngựa, bàn đạp và phụ tùng yên, cương thắng ngựa, các lưởi giáo, mác bằng kim 
	khí đă hư hao, rỉ sét.... Đây là bải chiến trường ngày xưa nên các di vật 
	trên đă được gom thành nhiều đống, đem bán lại cho những người thâu mua sắt 
	vụn!  
	Cù Lao Phố là một vị trí có thể được người tiền sử chọn làm nơi di trú. Hi 
	vọng trong tương lai sẽ có những cuộc khảo cổ, khai quật trong ḷng đất 
	nhiều phát hiện mới. Trần Thượng Xuyên. khi đến đất Nông Nại đă chọn n_ nơi 
	đây làm chổ dừng chân v́ ông là một danh tướng dũng lược có tầm nh́n ước 
	đoán xa. Nông Nại Đại Phố do ông thành lập đă có một thời vang tiếng ở 
	phương Nam. Sau khi bị đổ nát trong cuộc chiến Nguyễn Ánh - Nguyễn Huệ, 
	những người có óc kinh doanh lớn đă di chuyển để lập thành vùng Chợ Lớn trù 
	phú, nhưng một số người b́nh dân vẫn bám trụ gầy dựng lại đời sống ở miền 
	đất cù lao dễ sinh sống này. Một cộng đồng mới lại được củng cố thành lập, 
	một cộng đồng có sắc thái riêng biệt, được người vùng Đồng Nai chú trọng. Cù 
	lao Phố được tiếng là một nơi rất an cư, dân chúng sống kỷ luật, một ḷng 
	một dạ. Trộm cướp đă tránh không dám ḍm ngó đến nơi nầy v́ họ đă biết: theo 
	tiền lệ, khi được tin có gian phi xâm nhập, cả làng đều thức dậy đốt đuốc 
	giữ khắp mặt sông. kiểm soát hai đầu cầu Gành và cầu Rạch Cát. Nếu kẻ trộm 
	cướp bị bắt được với đầy đủ tang chứng, dân làng sẽ họp lại để quyết định 
	kết tội: cột đá vào kẻ gian phi và đem ra giữa Cầu Gành, xô xuống sông Đồng 
	Nai! Theo một vài bô lảo thuật lại, thời Pháp chiếm đóng, nghe được tin có 
	kẻ cướp đă bị dân làng Hiệp Ḥa xử như thế, viên tỉnh trưởng đă phái một 
	cảnh sát Pháp đến làng điều tra. Gặp t́nh trạng cả làng đồng ḷng cùng nhau 
	kéo đến trụ sở làng phản đối, bảo rằng "không nghe ǵ. không thấy ǵ, không 
	biết ǵ cả", viên cảnh sát đă ớn, trở về tường thuật lại với tỉnh trưởng và 
	ông này cũng chấp nhận "không nghe ǵ, không thấy ǵ, không biết ǵ" cho 
	xong chuyện. 
	Khoảng hơn sáu mươi năm về trước, người dân vùng Cù Lao Phố, cũng như phần 
	lớn các nơi khác ở miền Nam, rất ít gia đ́nh có sắm được đồng hồ để theo dỏi 
	giờ giấc. Buổi sáng tin sương, khi bắt đầu nghe tiếng gà gáy, những người 
	buôn bán phải thức sớm để chuẩn bị gánh hàng ra các chợ, những thợ rừng chèo 
	ghe đi đốn củi ở rừng Vĩnh Cữu, những công nhân làm ở nhà máy cưa Tân Mai, 
	các công, tư chức phải ra ga đón chuyến xe sớm đi làm việc ở Sài G̣n...người 
	người thường cố nằm thêm để chờ nghe được hồi chuông công phu khuya của chùa 
	Đại Giác. Đến khi đó họ mới thật sự thức dậy chuẩn bị cho một ngày lao động 
	mới. Trong không khí êm ả buổi sáng, tiếng chuông chùa cổ chầm chậm ngân dài 
	trên sóng nước ḍng Sông Phố, như để thức tỉnh ḷng người. Đến buổi tối, 
	tiếng động vang rền của đoàn xe lửa cuối cùng trong ngày, chuyến tốc hành 
	xuyên Việt, khởi hành từ Sài G̣n khi vượt qua hai cầu sắt Cù Lao Phố vào lúc 
	9 giờ đêm là một báo hiệu để nhà nhà tắt đèn đi nghỉ.  
	Từ ngày mở xa lộ Sài G̣n- Biên Ḥa, khúc Quốc lộ 1 xuyên qua Cù Lao Phố 
	không c̣n được xe cộ chiếu cố như trước. Sự di chuyển qua hai cầu Gành và 
	Rạch Cát đă thưa vắng trở lại. Dân chúng đă t́m lại được nhịp sống b́nh thản 
	ngày trước, chỉ trừ việc hai chiếc cầu vẫn được canh gác nghiêm nhặt, ghe 
	thuyền không được phép di chuyển trên sông ban đêm. Không biết hiện nay, 
	cảnh nghiêm cấm c̣n duy tŕ không, v́ nay đất nước đă thanh b́nh ? 
	Ước mong sao thế hệ trẻ ngày nay của Cù Lao Phố cũng được hưởng lại cái thú 
	thả thuyền trên Sông Phố vào các dịp sáng trăng hoặc đêm đêm hẹn ḥ ra hóng 
	mát chuyện tṛ, thề non hẹn biển trên Cầu Gành bốn nhịp! 
	 
	 
	Trần Nguơn Phiêu 
	(Viết tặng Giáo sư Trần Thượng Thủ,  
	hậu duệ đời thứ XII của Trần Thượng Xuyên,  
	nhân ngày giổ Đức Ông: 23 tháng 10 âm lịch, năm Giáp Thân, 2004)  |