Chân
Định tứ linh thần
Posted on
05/12/2015
by
Văn Nhân
Bách việt trùng cửu – nguồn
http://báchviệt18.vn/
Nếu ở Nam Định có Thiên Bản lục kỳ kể về 6 sự lạ đất Thiên Bản thì ở
Thái Bình cũng có Chân Định tứ linh từ, hay 4 ngôi đền thiêng của đất
Chân Định. Chân Định là tên cũ của khu vực Kiến Xương, Thái Bình. Tứ
linh từ của Chân Định là nơi thờ “tứ linh thần”, 4 vị thần thiêng trên
đất Thái Bình.
Ngôi đền thiêng đầu tiên được nhắc đến là đền Vua Rộc tại thôn An Điềm,
xã Vũ An của huyện Kiến Xương. Trước kia, đền nằm trong khu rừng nguyên
sinh hiếm hoi của đất Thái Bình, được bao quanh bởi cây cối tươi tốt và
hồ nước mát lạnh, quang cảnh rất bình yên. Theo thần tích của đền thì
đây là nơi thờ 2 vị Đông Hải đại vương và Tây Hải đại vương. Tuy nhiên,
thần tích không cho biết những “đại vương” này là ai, ở thời kỳ nào.
Những nghiên cứu đành “đoán” Đông Hải đại vương là Đoàn Thượng, còn Tây
Hải đại vương thì… không biết…

Đền Vua Rộc ở Vũ An, Kiến Xương.
Câu đối cổ trong đền Vua Rộc chép:
不記何年跡扥南交雙顯聖
相傳此地名髙真定四靈神
Bất ký hà niên, tích thác Nam Giao song hiển thánh
Tương truyền thử địa, danh cao Chân Định tứ linh thần.
Dịch:
Không biết tự năm nào, dấu thác Nam Giao hai hiển thánh
Lưu truyền nơi đất nọ, danh cao Chân Định bốn linh thần.
Vế đối đầu cho biết đền Vua Rộc thờ 2 vị thần đã “hiển thánh” ở Nam Giao
từ thời lâu lắm rồi, không biết năm nào nữa. Vế đối sau cho biết hai vị
thần đó được xếp vào bộ “Tứ linh thần” của Chân Định. Với thông tin này
thì người được thờ ở đây không thể là tướng quân Đoàn Thượng, một nhân
vật khá rõ ràng vào cuối thời nhà Lý ở thế kỷ 13.
Một số tác giả cho biết chữ Lạc có thể phục nguyên âm là Rộc, chỉ ruộng
lúa. Tới nay người Mường vẫn gọi ruộng là rộc. Vua Rộc như vậy có thể là
Vua Lạc hay Lạc Vương, phù hợp với thời Nam Giao mở nước.
Vết tích của 2 vị thần Nam Giao ở đền Vua Rộc có thể được xác định trong
một câu đối khác tại đây:
瑞應金龜神爪依依留井上
威揚木馬健蹄隠隠仰橋邊
Thụy ứng Kim Quy, thần trảo y y lưu tỉnh thượng
Uy dương mộc mã, kiện đề ẩn ẩn ngưỡng kiều biên.
Dịch:
Linh ứng Rùa Vàng, móng thần y nhiên nơi giếng cũ
Oai dương Ngựa Gỗ, vó hùng thấp thoáng chốn cầu biên.
2 vế đối của câu đối này nói tới 2 sự kiện của 2 nhân vật. Vế đối đầu
khá rõ, chỉ chuyện móng Rùa vàng của vua An Dương Vương và chiếc giếng
nơi Trọng Thủy trẫm mình. Vế đối thứ hai nói về một con chiến mã bằng gỗ
xuất chinh nơi biên ải.
Tại Thái Bình, vua An Dương Vương được thờ ở khá nhiều nơi với tên xưng
phong Nam Hải đại vương. Thậm chí như ở làng Thao Bồi (nay thuộc xã
Phương Công, huyện Tiền Hải, Thái Bình) thần tích còn kể về người vợ của
An Dương Vương là bà Trần Thị Chân, còn gọi là Châu Nương hay Thục
Nương. Châu Nương sinh ra Mỵ Châu, nàng công chúa của vua An Dương Vương
trong chuyện tình Mỵ Châu – Trọng Thủy. Sau khi Mỵ Châu mất làng Thao
Bồi lập miếu “Nhị vị mẫu tử” thờ mẹ con Châu Nương, Mỵ Châu…
Nam Hải đại vương An Dương Vương còn thờ ở nhiều nơi khác tại Thái Bình
như ở làng Kênh Xuyên (Đông Xuyên, Tiền Hải), làng Cọi (Vũ Hội, Vũ Thư).
Ở đây An Dương Vương được kể như một vị vua từng có công giúp an định và
phát triển đời sống dân tình vùng ven biển. Như vậy, có thể thấy An
Dương Vương là vị linh thần thứ nhất được thờ tại đền Vua Rộc. Nam Hải
đại vương đã hiển thánh ở Nam Giao cũng hoàn toàn hợp lý.
Ngôi đền thiêng thứ hai của đất Chân Định là đền Sóc Lang đở xã Vũ Vinh,
huyện Vũ Thư. Đền này thờ Mộc đức tinh quân, rất thiêng nhưng cũng không
rõ sự tích ra sao. Chỉ biết có một cây gỗ trôi từ thượng nguồn về, nhân
dân vớt đục thành tượng mà thờ. Nay nếu so sánh với câu đối trong đền
Vua Rộc thì Mộc đức tinh quân phải là Thánh Gióng với con “ngựa gỗ” chốn
“kiều biên”. Cái tên đền “Sóc Lang” hay Sóc vương cũng cho thấy vị linh
thần ở đây là Thánh Gióng đã bay về trời nơi núi Sóc. Nhị vị đại vương ở
đền Vua Rộc là An Dương Vương và Sóc Vương Thánh Gióng, rất phù hợp về
không gian (Nam Giao) và thời gian.

Phương đình trước Chùa Keo Thái Bình.
Ngôi đền thiêng thứ ba của đất Chân Định là đền Lại Trì ở xã Vũ Tây,
huyện Kiến Xương. Theo thần tích và văn bia lưu tại di tích, đây là nơi
thờ Đại pháp thiền sư Không Lộ, họ Dương, húy là Minh Nghiêm, là người
làng Giao Thuỷ, phủ Thanh Hà (tỉnh Nam Định), nối đời làm nghề đánh cá.
Thân mẫu họ Nguyễn, người ở ấp Hán Lý, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang
(tỉnh Hải Dương). Năm 1060 Không Lộ cùng Đạo Hạnh và Giác Hải đã sang
Tây Trúc để tu luyện về đạo Phật. Năm 1061 thời vua Lý Thánh Tông, sư về
nước và dựng chùa Nghiêm Quang (sau đổi tên là Thần Quang Tự) ở làng
Dũng Nghĩa (xã Duy Nhât, Vũ Thư, Thái Bình) để truyền bá đạo Phật, hoằng
dương Phật pháp. Chùa này được biết đến với tên chùa Keo Thái Bình.
Thời đó đạo Phật được nhà Lý coi là quốc giáo. Đức Dương Không Lộ là
người hiểu về đạo Phật sâu sắc, là giáo chủ của cả vùng, ngoài việc
truyền bá đạo phật, nhà sư còn có công lớn trong việc mở mang các công
trình trị thuỷ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, đưa nhân dân lao động
thoát khỏi đói khổ. Ông còn là người am hiểu về y thuật có công chữa
bệnh cho vua Lý Thánh Tông được phong làm quốc sư. Sau Dương Không Lộ
sang Trung Quốc chữa bệnh cho thái tử nhà Tống rồi xin đồng về đúc
chuông, tạc tượng.
Đền Lại Trì là nơi bà Nguyễn Thị, mẹ của Không Lộ đã hóa. Còn Chùa Keo
Thái Bình là nơi Không Lộ trụ trì. Câu đối ở khu thờ thiền sư Không Lộ
tại chùa Keo:
法手濟群方李代特生之聖
靈丹扶九鼎南邦不死之神
Pháp thủ tế quần phương, Lý đại đặc sinh chi thánh
Linh đan phù cửu đỉnh, Nam bang bất tử chi thần.
Dịch:
Làm phép cứu chúng phương, đời Lý riêng sinh là thánh
Thuốc thiêng chữa cửu đỉnh, bang Nam bất tử là thần.
Cửu đỉnh hay 9 chiếc đỉnh, hình tượng chỉ vương quyền, chỉ Vua. Câu đối
nhắc đến chuyện thiền sư Không Lộ đã chữa bệnh cho vua Lý Thánh Tông và
cứu giúp nhân dân trong vùng. Thiền sư Không Lộ do đó đã được phong làm
quốc sư thời Lý (Lý triều quốc sư).
Câu đối trên cũng xác định Không Lộ là một trong những thần bất tử nước
Nam. Khái niệm thần bất tử không giống với linh thần. Ngoài việc là một
linh thần (thần thiêng), thần bất tử phải là người có phép thuật, có khả
năng “bất tử”, tức là khả năng cải tử hoàn sinh, trường sinh bất lão hay
đầu thai chuyển thế. Thường thì đó là những người tu hành đắc đạo thần
tiên.
Trước khi Thánh Mẫu Liễu Hạnh được xếp là một trong Nam Bang tứ bất tử
thì Không Lộ thiền sư và Từ Đạo Hạnh được coi là các thần bất tử. Tuy
nhiên, tư liệu về thánh Không Lộ ở đền Lại Trì trên chép Không Lộ làm
Quốc sư và chữa bệnh cho vua dưới triều Lý Thánh Tông. Trong khi chuyện
Từ Đạo Hạnh đầu thai lại vào thời Lý Thần Tông. Đồng thời thiền sư Không
Lộ ở đây mang họ Dương, không phải họ Nguyễn (Nguyễn Minh Không) như
trong truyện của Từ Đạo Hạnh. Những chi tiết này cho thấy truyền thuyết
về việc hóa thân đầu thai của Từ Đạo Hành thành vua Lý Thần Tông cần
được xem xét thêm cho đúng với sự việc thật sự đã xảy ra.
Ngôi đền thiêng thứ tư của đất Chân Định là đền Đồng Xâm ở xã Hồng Thái,
Kiến Xương. Đền này thờ đức Khai Cơ Triệu Vũ Đế, người đã lập nên nước
Nam Việt thời trước Công nguyên. Đền Đồng Xâm là chứng tích rành rành về
“những nỗi oan” của vua Triệu Đà. Sử sách chép Triệu Đà người Chân Định…
Chân Định đây là đất Kiến Xương, Thái Bình ở Việt Nam, hoàn toàn không
phải ở đâu xa lắc xa lơ tận Hà Bắc, Trung Quốc. Bản thân tên huyện Kiến
Xương cũng có thể liên quan tới công nghiệp của Triệu Vũ Đế vì Kiến
Xương nghĩa là kiến thiết nên nền tảng ban đầu, tương ứng với nghĩa của
danh hiệu Khai Cơ của Triệu Vũ Đế tại đây.
Về thời nhà Triệu, ở Kiến Xương còn có nhiều chuyện lạ. Ở đình Luật Nội
và Luật Ngoại (xã Quang Lịch, Kiến Xương) thờ 2 mẹ con bà Phương Dung và
Thạch Công đã tận trung báo quốc, giúp Triệu Việt Vương đánh giặc Lương
và hy sinh ở quãng sông Lịch Bài tại đây. Điều lạ là bố của Thạch Công
lại là ông Hùng Tuệ Công, dòng dõi vua Hùng, làm phủ doãn Chân Định. Câu
đối ở đình Luật Ngoại:
壹門義烈雄母子
萬古山河趙越王
Nhất môn nghĩa liệt Hùng mẫu tử
Vạn cổ sơn hà Triệu Việt vương.
Dịch:
Một nhà nghĩa liệt mẹ con họ Hùng
Vạn năm sông núi đức vua Triệu Việt.
Từ thời Hùng Vương trước Công nguyên tới thời của Triệu Việt Vương chống
giặc Lương theo sử sách ngày nay có dư 500 năm. Làm sao bố là thời Hùng
mà con lại giúp vua Triệu? Truyền thuyết nhầm lẫn hay chính sử bị sai?

Nghi môn đình Luật Ngoại.
Câu đối khác ở đình Luật Ngoại:
浩氣塞滄溟節烈一門皇趙日
芳名傳國母頡頏天古二徵間
Hạo khí tắc thương minh, tiết liệt nhất môn Hoàng Triệu nhật
Phương danh truyền quốc mẫu, hiệt hàng thiên cổ Nhị Trưng gian.
Dịch:
Khí lớn lấp biển dài, tiết liệt một nhà ngày Hoàng Triệu
Danh thơm truyền quốc mẫu, bay bổng ngàn năm đất Nhị Trưng.
Sử sách đã có sự nhầm lẫn. Triệu Việt Vương không phải vị vua ở thế kỷ
thứ 6. Triệu Việt Vương gần thời Hùng Vương và thời Hai Bà Trưng phải là
vua Triệu của nước Nam Việt. Nước Nam Việt được Triệu Vũ Đế lập từ những
năm 200 trước Công nguyên. Có vậy thì những quan lại, công tướng của
Triệu Việt Vương mới mang họ Hùng được.
Những cái tên Chân Định, Kiến Xương hay cả Thái Bình đều liên quan đến
vị khai cơ Triệu Vũ Đế. “Ai đặt tên cho đất Thái Bình” thì không rõ,
nhưng tên này có chí ít từ thời Triệu Vũ Đế vì Thái Bình chỉ là từ phản
thiết của chữ Bái. Triệu Vũ Đế ở Chân Định là Bái Công đã lãnh đạo nhân
dân Việt khởi nghĩa kháng Tần thắng lợi, lập ra quốc gia Nam Việt độc
lập, xưng đế, là một thiên tử thực sự của thiên hạ.

Gác mái đình Luật Nội.
Thử sắp xếp Chân Định Tứ linh thần theo các phương vị (Tứ trấn):
– Thục An Dương Vương nên xếp ở hướng Tây, vì Thục nghĩa là hướng Tây.
An Dương Vương có danh Tây Hải đại vương trong đền Vua Rộc.
– Sóc Vương Thánh Gióng ở đền Sóc Lang với tên Mộc đức tinh quân xếp ở
hướng Đông vì hành Mộc là hành của phương Đông, ứng với tên Đông Hải đại
vương ở đền Vua Rộc.
– Đồng Xâm Triệu Vũ Đế hợp lý nhất xếp ở hướng Bắc vì công nghiệp “Bắc
tiến” của vị vua này.
– Không Lộ thiền sư ở đền Lại Trì và chùa Keo có thể xếp ở trấn Nam vì
vị thiền sư này gốc Nam Định.
Tứ linh từ, Tứ linh thần, Tứ trấn của đất Chân Định như vậy đã đầy đủ
cả.
Văn Nhân góp thêm ý :
…Những cái tên Chân Định, Kiến Xương hay cả Thái Bình đều liên quan đến
vị khai cơ Triệu Vũ Đế. “Ai đặt tên cho đất Thái Bình” thì không rõ,
nhưng tên này có chí ít từ thời Triệu Vũ Đế vì Thái Bình chỉ là từ phản
thiết của chữ Bái. Triệu Vũ Đế ở Chân Định là Bái Công đã lãnh đạo nhân
dân Việt khởi nghĩa kháng Tần thắng lợi, lập ra quốc gia Nam Việt độc
lập, xưng đế, là một thiên tử thực sự của thiên hạ….
Rất có thể :
Đất Chân định thực ra là đất Trịnh ; theo phép phiên thiết Hán
văn : chân định thiết trịnh .
Đất Trịnh là nơi đứng chân ban đầu của Lí Bôn – Lưu Bang khi mới
được Hạng Vũ chia đất .
Cũng do tên thủ đô Nam Trịnh này mà Lí Bôn – Lưu Bang được Hùng
triều thế phổ gọi là Hùng Trịnh vương – Hưng đức lang .
Đức là tam sao thất bổn của đế , Hưng đức thực ra là Hưng đế …
đế và lang ở đây là thừa 1 chữ .
Vua là Hưng đế nên kinh thành Trường An còn được gọi là Đại
Hưng thành .
Do tên kinh đô là Đại Hưng thành , vua là Hưng đế …rất có thể
thời Lí Bôn – Lưu Bang nước gọi là Đại Hưng .
Khúc quanh lịch sử là chỗ này đây :
Vua họ Lí hay Lê con cháu nhà Hùng biến ra họ Lưu – Liêu dòng
Mongoloid .
Nước Đại Hưng …hô biến …thành Đại Hán của Đại Hãn Mông cổ .
Chuỗi móc xích : Lí Bôn – Lưu Bang – Triệu Vũ đế – Nam Việt đế
– Hùng Trịnh vương Hưng đức lang thông qua mối liên hệ : Bái –
Thái bình và Chân định – Trịnh mà ngày càng hiện ra rõ ràng
hơn .
Bách Việt Trùng Cửu
Nguồn: Dòng Hùng-Việt
Phủ
Tam ở Thái Bình
Trong đạo Tứ phủ thì phủ Tam là Thoải phủ. Các vị
thần trong phủ này đều liên quan tới số Ba – Bát hay Tam – Tám. Mẫu
Thoải là Mẫu đệ Tam, là nàng Ba (thần tích đền Dầm ở thôn Xâm Dương,
Ninh Sở Thường Tín, Hà Nội) hay nàng Quý (Quý là thứ ba trong thứ tự
Mạnh, Trọng, Quý). Vua cha Thoải phủ là Bát Hải. Vị quan của Thoải phủ
là Quan đệ Tam. Rồi ông Hoàng Bơ và cô Bơ thoải phủ (Bơ = Ba).
Đứng đầu Thoải phủ trước hết phải kể đến Vua cha Bát Hải Động Đình,
người được thờ chính tại đền Đồng Bằng (An Lễ, Quỳnh Phụ, Thái Bình).
Bát Hải hoàn toàn không phải nghĩa là 8 cửa biển. Bát hay Ba (số 3 và 8)
đều là 2 con số của Hà thư chỉ phương Đông. Phủ Tam ở Động Đình là biển
Đông. Nơi đây cũng gọi là vùng Đào Động.
Câu đối ở đền Sinh trong quần thể đền Đồng Bằng:
桃江洞口祁千跡
生化神仙萬古傳
Đào giang Động khẩu kỳ thiên tích
Sinh hóa thần tiên vạn cổ truyền.
Dịch:
Sông Đào cửa Động ngàn tích lạ
Sinh hóa thần tiên vạn thủa truyền.
Nơi sông Đào đổ ra cửa Động là đất Thái Bình, tức là nơi sông Hồng (Đào)
đổ ra biển Đông (Động Đình hồ). Trên mảnh đất này do đó lưu dấu rõ ràng
các nhân vật của phủ Tam (Thoải phủ).
Thần tích đền Đồng Bằng mở đầu như sau:
Trên bờ sông Vĩnh, thuộc Đào Hoa Trang, Trấn Sơn Nam, Quận Giao Chỉ có 2
vợ chồng ông Phạm Túc và bà Trần Thị là người Trang An Cố (thuộc Thụy An
– Thái Bình ngày nay) đã lớn tuổi, sống phúc hậu mà không có con. Một
lần, họ ngược dòng đánh cá đến Trang Hoa Đào và tình cờ gặp cô gái nhỏ
bên sông Vĩnh. Ông bà đón cô gái về nuôi tại An Cố, đặt tên là Quý
Nương. Mấy năm sau, khi tròn 18 tuổi, Quý Nương rất xinh đẹp, đoan
trang.
Tiếp đó Quý Nương sinh ra một bọc trứng, nở ra 3 con hoàng xà. Con hoàng
xà lớn sau trở thành Vĩnh Công giúp vua Hùng đánh giặc Thục. Vĩnh Công
được tôn là Vua cha Bát Hải Động Đình, đứng đầu Thoải phủ. Còn 2 con
hoàng xà em được tập hợp trong trận chiến với quân Thục, trở thành 2 vị
quan lớn dưới trướng Vĩnh Công.

Đền An Cố ở Thụy An, Thái Thụy, Thái Bình.
Hiện ở An Cố có đền lớn thờ một vị thần là Nam Hải
đại vương. Vị này có cha là Phạm Xuyến, tên gọi Hải Công. Phạm Hải cũng
giúp vua Hùng đánh Thục, xây dựng làng xóm ở miền ven biển, rồi một ngày
hóa bên bờ biển ở An Cố.
Câu đối ở đền An Cố:
勦蜀冦固皇圖雄貉山河餘正氣
弭天灾安邑宇太平草木囿淳風
Tiễu Thục khấu cố hoàng đồ, Hùng Lạc sơn hà dư chính khí
Nhị thiên tai an ấp vũ, Thái Bình thảo mộc hữu thuần phong.
Dịch:
Trừ giặc Thục, vững hoàng đồ, non nước Lạc Hùng bao chính khí
Ngăn thiên tai, yên thôn ấp, cây cỏ Thái Bình đậm thuần phong.
Phạm Hải và Phạm Vĩnh ở Thái Bình được họ Phạm ghi nhận là những người
họ Phạm đầu tiên được nhắc tới ở Việt Nam. Thực ra Phạm Hải và Phạm Vĩnh
chỉ là một người. Trang An Cố như trong thần tích đền Đồng Bằng là quê
mẹ của Vĩnh Công Bát Hải. Sự tương đồng về tên gọi, sự tích, địa điểm
xác thực nhận định Nam Hải Đại Vương ở An Cố là Vĩnh Công Bát Hải Động
Đình ở đền Đồng Bằng.
Một minh chứng khác là tại đền An Cố gian ngoài cấm cung thờ 4 vị là
Quan đệ nhất, Quan đệ nhị, Quan tuần phủ và Quan thần sát. Đây là chỉ
dẫn trực tiếp cho thấy Phạm Hải liên quan tới Ngũ vị tôn quan của Tứ
phủ. Ngũ vị tôn quan hợp thành Ban công đồng, trong đó có Quan đệ nhất
thượng thiên, Quan đệ nhị giám sát, Quan đệ Tam thoải phủ, Quan đệ Tứ
khâm sai, Quan đệ ngũ tuần tranh. Phạm Hải đứng đầu Ban Công đồng thì
còn ai khác ngoài Vua cha Bát Hải Động Đình, vua cha của các vị quan lớn
Tứ phủ.

Gian thờ Quan đệ nhị ở đền An Cố.
Vị Quan lớn của phủ Tam là Quan đệ Tam với nơi thờ
chính tại đền Lảnh (Yên Lạc, Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam), nơi chân cầu
Yên Lệnh. Quan lớn Lảnh chính là Thổ Lệnh hay Trưởng Lệnh, vị thần Bạch
Hạc Tam Giang trong truyền thuyết (Lĩnh Nam chích quái). Địa danh Yên
Lệnh nghĩa là nơi “yên nghỉ” của Trưởng Lệnh, vì Trưởng Lệnh hóa ở làng
Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên, Hà Nội) gần đó. Tương tự, An Cố rất có
thể là nơi “an nghỉ” của vị thánh Cả (Cổ – Cố) vì đó là nơi Vua cha Bát
Hải đã “hóa”.
Văn chầu Quan đệ Tam bắt đầu như sau:
Trịnh giang biên doành ngân lai láng
Đôi vầng hồng soi rạng Nam minh
Con vua thủy quốc Động Đình
Đệ Tam hoàng tử giáng sinh đền rồng.
“Trinh Giang” là đọc lệch của sông Vĩnh, con sông nơi giáng sinh Vĩnh
Công Bát Hải và 2 em ở Quỳnh Phụ, Thái Bình. Còn “Nam minh” là biển Nam,
ở đây cho thấy Động Đình chính là biển Nam minh hay biển Đông.
Sự tích về Quan Đệ Tam – Trưởng Lệnh hay hiệu thờ
của thần là Trung Thành Phổ Tế Đại Vương ở vùng Phú Xuyên có vài dị bản
khác nhau. Theo các thần tích phổ biến nhất như ở đình Đa Chất thì
Trưởng Lệnh là 1 trong 5 người con của ông Đào Công Bột đã giúp vua Hùng
đánh Thục. Họ Đào ở đây thực ra liên quan đến vùng Đào Động ở Thái Bình.
Còn Bột Hải Công tương đương với Vua cha Bát Hải (Bột là biến âm của
Bát).
Sự tích khác ở đình Cổ Chế (xã Phúc Tiến) thì cho biến Trưởng Lệnh mang
họ Phạm. Họ này cũng là họ của Vua cha Bát Hải (Phạm Vĩnh hay Phạm Hải).
Đặc biệt thần tích của đình Cát Bi (xã Thụy Phú) còn cho biết Trưởng
Lệnh là con của ông Nguyễn Cao Hành và bà Đoan Trang… Sự thể tưởng như
khác biệt, vô lý, nhưng xét kỹ thì:
- Ông Nguyễn Cao Hành là dòng Tản Viên Sơn Thánh vì theo truyền thuyết
về Tản Viên, cha của Sơn Thánh là ông Nguyễn Cao Hành.
- Bà Đoan Trang là Mẫu Thoải (“Quý Nương rất xinh đẹp, đoan trang”), mẹ
của Vĩnh Công ở đền Đồng Bằng.
Đây là chuyện Kinh Dương Vương (Kinh Xuyên) lấy con gái Thần Long Động
Đình trong Truyện Họ Hồng Bàng. Kinh Dương Vương ở đây là Tản Viên Sơn
Thánh, đã “cùng vui với các loài thủy tộc” hay đã kết bạn với Thủy Tinh
và xuống Thủy cung nhận cuốn sách ước trong thần tích về Tản Viên ở vùng
Sơn Tây. Bát Hải Động Đình, vị vua cha của Thủy phủ, do vậy không ai
khác là con của Kinh Dương Vương và Xích Lân Long Nữ, tức là cha Lạc
Long Quân, thủy tổ của người Việt. Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống
biển, rõ ràng là vị vua của miền Thủy phủ – Động Đình.
Sự kết hợp các bộ tộc Nam Giao của Tản Viên (Lạc) và phía Đông của Long
Nữ Động Đình (Long) đã khởi nguồn Việt tộc bởi cha Lạc – Long Quân. Đây
là ý nghĩa của câu chuyện về Bát Hải Động Đình. Với sự giúp đỡ của bên
mẹ (các vị quan lớn Thoải phủ) Lạc Long Quân – Bát Hải Động Đình đã đánh
đuổi dòng tộc hướng Tây (=Thục) để lập nên quốc gia Đào – Hoa – Hạ (Hoa
Đào trang) trong sử Việt.
Câu đối ở đền An Cố:
雄貉山河成萬古
都臺事業定千秋
Hùng Lạc sơn hà thành vạn cổ
Đô đài sự nghiệp định thiên thu.
Dịch:
Núi sông Lạc Hồng thành vạn cổ
Sự nghiệp đô đài định ngàn thu.
Người đã dựng thành non sông Hùng Lạc ngàn thu thì còn ai ngoài cha Lạc
Long Quân?

Tượng Nam Hải đại vương ở đền An Cố.
Cuối cùng, ở đất Thái Bình nơi cửa Động còn truyền
tích về vị Hoàng Bơ Thoải phủ. Hoàng Bơ xuất thế tại làng Kênh Xuyên
(Đông Xuyên, Tiền Hải). Không rõ cái tên Kênh Xuyên này có liên quan gì
tới tên Kinh Xuyên của Kinh Dương Vương trong sự tích Mẫu thoải không.
Đền thờ Hoàng Bơ nay được dựng ở Hưng Long (Tiền Hải), là nơi vị thần
này đã giúp dân hàn gắn con đê biển, ngăn sóng lớn. Nơi Hoàng Bơ đi ra
biển (“hóa”) gọi là An Long, cũng tương tự như những cái tên An Cố của
Phạm Vĩnh và Yên Lệnh của Quan đệ Tam thoải phủ…
Viết thêm:
Theo “Cổ Lôi Ngọc Phả Truyền Thư”, ” Bách Việt
Tộc Phả” thì cụ bà họ Đỗ, tên huý là Ngoạn, còn gọi là công chúa Đoan
Trang. Tục truyền Cụ là con gái cụ Long Đỗ Hải Vương. Cụ sinh ngày mồng
tám tháng tư và hoá (mất) ngày rằm tháng bảy. Cụ thường được gọi theo họ
là Đỗ Quý Thị (tức Quý bà họ Đỗ). Cụ lấy chồng người họ Nguyễn tên là
Nguyễn Minh Khiết tức là Đế Minh. Hai cụ sinh ta Lộc Tục (sau là Kinh
Dương Vương). Họ Nguyễn Vân ở làng Vân Nội vẫn cúng giỗ cụ hằng năm với
bài văn cúng: “Thỉnh tổ tổng khoa – Cúng gia tiên”. Mộ và miếu thờ cụ
ghi trong thư tịch cũ trên đây nay vẫn còn ở Ba La, thị xã Hà Đông.
Do có sự bất hoà với chồng (Đế Minh), Cụ đã đem
con trai là Lộc Tục (khi còn ít tuổi) vào tu động Tiên Phi (thường gọi
là Động Tiên) ở huyện Lạc Thuỷ thuộc tỉnh Hoà Bình ngày nay, cùng với 8
em trai của Cụ giúp cho Lộc Tục Trưởng thành: Cụ theo đạo Bà La môn, đạo
hiệu là Hương Vân Cái Bồ Tát. Tám vị em trai đều là người tài giỏi, hết
lòng giúp cháu (con của chị) cho đến khi Lộc Tục được cha là Đại Minh
giao quyền thay cha trị vì đất nước, lấy hiệu là Kinh Dương Vương (được
tôn là Ngọc Hoàng Thượng Đế), đặt tên là Xích Quỷ. Tám vị mà Lộc Tục gọi
là cậu (em mẹ) sau đều trở thành các vị “Kim Cương”, thường được gọi là
Bát Bộ Kim Cương.
Công chúa Đoan Trang họ Đỗ tên là Quý Thị trong
tộc phả này chính là Mẫu Thoải, hay Quý Nương sinh Hoàng xà ở Thái Bình.
Cụ là con của Long Đỗ Hải Vương, tức là con gái của Thần Long Động Đình.
Tộc phả trên chép hơi nhầm lẫn ở chuyện tiếp
theo. Bà Đoan Trang là mẹ của Lạc Long Quân, ở đây chép là Lộc Tục, sau
thay cha cai quản đất nước. “Sự bất hòa” của bà Đoan Trang với chồng
được nhắc tới là chuyện Mẫu Thoải bị Thảo Mai dèm pha và Kinh Xuyên
ruồng bỏ. 8 em trai của dòng Mẫu Thoải đươc chép là Bát bộ kim cương
trong đạo Phật là các vị quan lớn đã phò giúp Vĩnh Công – Lạc Long Quân
đánh Thục, giành ngôi vị vương quyền.
Bách Việt Trùng Cửu
Chùa
Keo
Hằng năm vào ngày mồng bốn tháng giêng âm lịch, nhân dân làng
Keo xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình lại mở hội xuân ngay ở
ngôi chùa mang tên làng.

|
Gác chuông chùa Keo |
Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng chín âm lịch, chùa
Keo lại mở hội mùa thu. Đây là hội chính, kỷ niệm ngày Thiền sư Không Lộ
(1016-1094), người sáng lập ngôi chùa, qua đời (Ngài qua đời ngày 3
tháng 6 âm lịch). Trong ngày hội, người ta tổ chức lễ rước kiệu, hương
án, long đình, thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trên con sông Trà Lĩnh ngang
trước chùa chảy ra sông Hồng, người đi hội đổ về xem cuộc thi bơi trải,
thi kèn trống, thi bơi thuyền và biểu diễn các điệu múa cổ. Trong chùa
thì có cuộc thi diễn xướng về đề tài lục cúng: hương, đăng, hoa, trà,
quả, thực, thật sinh động.
Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.
Nếu có dịp về thăm chùa Keo, thì du khách hãy đến vào hội mùa thu. Từ
thành phố Nam Định, qua phà Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi
khoảng 10 km là đến chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng
không một bóng núi non, chùa Keo với gác chuông nhưmột hoa sen vươn lên
giữa biển lúa xanh rờn được vun bón bởi phù sa sông Hồng do nước sông
Trà Lĩnh bồi đắp.
Chùa Keo có tên chữ là Thần Quang Tự, được xây dựng từ năm 1630 đến
năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê, nhờ sự vận động của bà Lại
Thị Ngọc, vợ Tuần Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng, và Đông Cung Vương phi Trịnh
Thị Ngọc Thọ.
Nhưng lịch sử của ngôi chùa thì có bề dày đến hơn chín thế kỷ. Theo
sách Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục, năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm
Quang tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng.
Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là
Thần Quang Tự. Theo thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa và
đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa.
Dân làng Keo phải bỏ quê cha đất tổ ra đi: một nửa dời về đông nam hữu
ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc tỉnh
Nam Định); một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông
Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Thái Bình này.
Văn bia và địa bạ chùa Keo còn ghi lại diện tích toàn khu kiến trúc
chùa rộng đến 58.000 m2. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 công
trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Từ cột cờ
bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25 m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá,
khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa chạm
rồng chầu (thế kỷ 16). Sau đó là chùa thờ Phật, gồm ba ngôi nhà nối vào
nhau. Trong cùng là tòa gác chuông, nhà tổ và khu tăng xá.
Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo,
tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời hậu Lê. Được dựng trên một nền
gạch xây vuông vắn, gác chuông cao 11,04 m gồm 3 tầng mái, kết cấu bằng
những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết
với nhau bằng mộng ngậm, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong
dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Tầng một treo khánh đá 1,20 m và chuông
đồng cao 1,30 m, đường kính 1m đúc vào thời Lê Hy Tông (1686); hai tầng
trên treo chuông nhỏ cao 0,62m, đường kính 0,69 m đúc vào năm 1796.

|
Cảnh
chùa Keo |
Đứng soi mình xuống hồ nước phẳng lặng giữa một không gian thoáng
đãng, chùa Keo không chỉ lưu giữ nhiều di vật quý giá mà còn chứa đựng
những điều huyền bí gắn liền với cuộc đời Thiền sư Không Lộ. Theo sách
Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục tập yếu,
Thiền sư Không Lộ vốn họ Dương, sinh ra trong một gia đình ngư phủ, xuất
gia theo Thiền sư Lôi Hà Trạch.
Tương truyền rằng từ khi đắc đạo, Thiền sư Không Lộ có khả năng bay
trên không, đi trên mặt nước và thuần phục được rắn, hổ. Truyền thuyết
còn kể rằng trước khi viên tịch, Ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy
áo đắp lên và khúc gỗ biến thành tượng. Thánh tượng này nay còn lưu giữ
trong hậu cung quanh năm khóa kín cửa.
Cứ 12 năm một lần, làng Keo lại cử ra một người hội chủ và bốn viên
chấp sự để làm lễ trang hoàng tượng Thánh. Những người này phải ăn chay,
mặc quần áo mới, họ rước thánh tượng từ cấm cung ra rồi dùng nước dừa
pha tinh bưởi để tắm và tô son lại cho tượng Thánh. Công việc này phải
làm theo một nghi thức được quy định rất nghiêm ngặt, những người chấp
sự phải tuyệt đối giữ kín những gì đã thấy trong khi trang hoàng tượng
Thánh.
Đến thăm chùa, khách có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương
truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như một bộ tràng hạt bằng ngà,
một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà người ta kể lại
rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm
chén uống nước trong những năm tháng tu hành.
VÕ VĂN TƯỜNG VÀ HUỲNH
NHƯ PHƯƠNG
Post ngày:
12/08/18
Nguồn: Internet