Huế
có điệu hò mái đẩy não nùng. Bình-định có nói vè
buồn thê thảm. Quảng-nam có điệu hát hò khoan dí
dỏm, dễ thương.
Hò mái đẩy hay nói vè, thường thường đã có câu
hát sẵn, người hát chỉ cần giọng tốt thuộc bài
bản là có thể hát hò được. Trái lại, điệu hát hò
khoan Quảng nam là lối hát "kiến tại", câu hát
xướng hay đối, phải do mình đặt ra và hát lên
ngay tại hiện trường, do đo ùngười hát phải sáng
dạ, thông minh, thuộc nhiều điển tích. Một đêm
hát hò khoan như một thi đàn xướng họa của lớp
bình dân. Cũng bởi khó khăn này, cho nên điệu
hát hò khoan thất truyền, kể từ khi xứ Quảng
theo vận nước lâm vào cảnh chiến tranh, những
câu hát nhân nghĩa bình thường ít ai ghi nhớ,
chỉ còn những câu hát dí dỏm, hoặc châm chọc độc
đáo được lưu truyền trong dân gian, để hát trong
các buổi gặt lúa, giã gạo, giã vôi làm nhà v.v...
Tôi gọi là hát Hò Khoan, vì sau mỗi câu hát
thính giả đồng thanh hò phụ "Hố khoan, hố khoan
hợi là Hò Khoan", cái buổi hát có một bên nam và
một bên nữ.,có khi hát nhân nghĩa, trai gái kết
bạn trăm năm, diễn biến đến hồi cần ông mai hoặc
bà mối, thì trong đám người nghe, có lẽ ra tay
giúp đỡ đôi trai gái, hát làm mai. Cái buổi hát
hò khoan sôi động không bao giờ giống nhau. Có
khi hai bên trai gái hát đố, hát xạo, và cũng có
lúc hát tuồng tích. Nói chung tùy theo ngẫu hứng
của buổi hội ngộ. Tham dự một buổi hát hò khoan
mới thấy được tài thông minh độc đáo và dễ
thương của giới bình dân xứ Quảng, bởi hát hò
khoan, câu hát được nghĩ ra trong một thời gian
rất ngắn, người không có tài ứng biến không hát
được, đối phương dứt câu hát, thính giả hò phụ "Hố
khoan hợi là hò khoan", chậm lắm là một hai phút,
phải hát trả lời, nếu bí thì đành bỏ cuộc ra về,
không thể nào để khoảng thời gian trống lặng,
cái khó của điệu hát hò khoan là như vậỵ
Câu hát hò khoan được truyền khẩu trong nhân
gian,nhưng hình như không có ai ghi chép như ca
dao, tục ngữ. Thuở xưa, dân chúng còn tiêu tiền
kẽm, chưa có giấy bạc, đồng tiền hình tròn, lỗ
vuông. Một cô gái kiêu sa cho mình như đồng tiền
quí giá, hát rằng:
Thân em thái thể đồng tiền
Lớn thời ăn sáu nhỏ nguyền ăn ba
Chữ đề thông bữu quốc gia
Dân yêu quan chuộng nghĩ đà sướng chưa ?
Không may cho cô ta, gặp phải chàng trai ngỗ
ngáo, ứng khẩu đáp ngay:
Thân anh thái thể chuổi trôn
Ăn sáu anh cũng xỏ, ăn ba không từ
Đi ra mua bán đời chừ
Đồng sứt đồng mẻ anh không từ đồng mô
Nói ra thì sợ mất lòng cô
Chứ đường ngay tôi xỏ thẳng
Lẽ mô cô giận hờn
Đến nông nỗi này thì cô gái đành ngoe nguẩy bỏ
đi, không quên liếc xéo chàng trai ứng đối hợp
cảnh hợp tình. Lại một cô gái không dám ví mình
như đồng tiền, gặp nhau cô nàng mời ăn uống đàng
hoàng, nhưng có giòng máu Hồ Xuân Hương nên cô
ta hát rằng:
Chàng tới thiếp, thiếp dọn một bát mì
tàu
Hai bên thịt mỡ trắng phau phau
Ở giữa có con tôm sú nhuộm màu ngân ta
Chàng ăn rồi, chàng chẳng muốn ra
Chàng kêu bầy trẻ, pha nước trà bưng lên
Một chàng trai ứng khẩu hát đối:
Thiếp tới chàng chàng dọn một dĩa rau
Hai bên hai củ hành tàu
Ở giữa có con cá tràu nằm ngang
Ăn vô cho thấu bụng nàng
Thực bất tri kỳ vĩ, mới biết của chàng
là ngon
Cái hay của câu hát đối là chữ "thấu", và câu
kết đã ăn không rõ mùi vị ra sao, mà biết ngon.
Một cô gái kênh kiệu hát câu hát sau đây, mà
hình như từ xưa chưa tìm ra được câu hát đáp lễ:
Đất em ở dựa bờ rừng
Tây qua đạt sứ lại có chừng không sai
Đất của em, một đám ngăn hai
Giữa mương nước chảy hai bên thành bờ
Nửa đám em để một tờ đoạn ngôn
Phận chàng là cháu đích tôn
Để làm chi ? Đàng trên lấn xuống, đàng
dưới lấn lên ??
Tức mình đội bộ xuống Sứ mà quỳ
Chữ chàng đứng giữa, thiếp thì hai bên
Câu hát hò khoan của một cô gái xứ Quảng nam
đóng vai gái Huế, không rõ giận người tình thế
nào, mà hát một câu độc, đáo để, không ai đối
được. Kể cả chàng trai cùng các người tài cao
học rộng. Câu hát như sau:
Đất Quảng nam rộng đà ra sức rộng
Đường ra kinh xa đã quá xa
Anh ra làm chi mỗi tháng mỗi ra ?
Anh ra một bữa cực ta ba, bốn ngày
Tiếng Việt giàu ẩn ngữ và súc tích, nếu cô gái
nói ra Huế thì câu hát chẳng có gì là độc, hơn
nữa cô ta trách chàng ra mỗi tháng thì điêu ngoa
vô cùng.
Tương truyền ở Quận Đại Lộc có anh Trần Hàn xấu
trai, mặt thì rỗ, lại thêm chột hết một mắt,
nhưng anh ta hát hay nổi tiếng ở Quảng nam. Cao
nhơn tắt hữu cao nhơn trị, anh xuống làng La Qua
, quận Điện Bàn, gặp một cô gái hát chỉ hai câu,
anh không tài nào đối được, đành bỏ nghề hát,
tuyệt tích gian hồ. Câu hát rằng:
Trần ai gặp lúc cơ hàn
Rổ đan mặt mốt, xuống ngàn đổi khoai.
Cái chữ khó của câu hát là chữ "Rổ" .Đan mặt
mốt, nghĩa trắng là nghèo quá phải đan rổ tre
long mốt để khoai, nghĩa đen lại là mặt rỗ hoa
mè lại đui một mắt (mặt mốt nói lái là một mắt).
Hát hò khoan là lối hát kiến tại, những buổi hội
ngộ để hát, hai bên trai gái tự đặt câu hát,
không bao giờ lặp lại câu hát cũ đã có kẻ hát
rồi, những câu hát "Xạo" nói trên cũng do kẻ hát
người đối trong một thời điểm nào đó, nhưng tâm
lý quần chúng ưa thích, những câu hát châm chọc
nên truyền miệng lưu lại mai sau. Còn những câu
hát gái trai thì ít được lưu truyền, thông
thường kẻ thấp cổ bé miệng, ưa trêu ghẹo bề
trên, như hai câu hát của thân phận đi ở mướn
sau đây:
(Câu một)
Hồi nhỏ tôi ở với cậu với mợ
Mợ cho ăn cơm nguội
Uống nước lạnh, ngủ nhà ngoài
Đêm khuya đau bụng tôi lần tôi vô
Mợ nghe sục sạt, mợ hỏi: đứa mô ?
Thưa rằng, đau bụng con vô kiếm gừng
Dang tay mợ rút mối dây lưng
Độc thời con giải độc, chớ kiếm gừng làm
chi ?
(Câu hai)
Hồi nhỏ tôi ở với cậu với mợ
Cậu ăn rồi cậu bỏ cậu đi
Mợ ở nhà mợ ngủ như Địch Nghi
Quần áo tuột hết giống chi cũng không
còn
Đầy tớ lâu ngày thác thể bà con
Chết thì con chịu chết
Thấy đồ ngon con không từ
Không phải hầu hết câu hát hò khoan là hát
"Xạo", mà còn nhiều câu hát về tuồng cổ, về bổn
phận làm trai với quốc gia, làm con với cha mẹ.