Bắc
Ninh là một tỉnh nằm trong vùng đồng bằng và trung du bắc bộ.
Phía bắc giáp bắc giang, phía đông và đông nam giáp hải
dương, phía tây giáp hà nội, phái nam giáp hưng yên. Đây là
tỉnh có diện tích nhỏ nhất nước 807,6 km² với dân số 941.389
người (1/4/1999). Tỉnh lỵ bắc ninh cách hà nội hơn 30 km, có
quốc lộ 1a chạy qua, có nhiều sông lớn, vì vậy hệ thống giao
thông đường bộ, đường sắt và đường sông đều thuận lợi. Địa
hình chủ yếu là đồng bằng, có một số ngọn núi đã đi vào thơ
ca (núi Thiên Thai). Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23,40C,
rất thích hợp cho du lịch.
Kinh bắc là vùng đất đạo phật sớm thâm nhập ngay từ những
thế kỷ đầu công nguyên. Đến đời nhà lý, phật giáo đã đạt đến
độ cực thịnh. Nhiều chùa, tháo đã được xây dựng ở đất kinh
bắc và đã trở thành danh thắng, di tích lịch sử văn hoá, là
nơi tham quan vãn cảnh của khách thập phương.
Bắc ninh là một vùng đất cổ đồng thời là một trong những
chiếc nôi của nền văn minh Việt Nam. Chính vùng đất này đã
sinh ra những điệu hát dân ca quan họ đặc sắc, tiêu biểu cho
loại hình dân ca trữ tình bắc bộ, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bắc ninh còn là một trong những địa phương có nhiều lễ hội.
Mỗi lễ hội đều gắn với nét đẹp văn hoá truyền thống và những
trang sử hào hùng của dân tộc. Mỗi độ xuân về, người kinh
bắc lại rộn ràng trẩy hội.
Dưới các triều đại phong kiến trước đây, tỉnh Bắc Ninh được
gọi là Kinh Bắc mà lịch sử đã để lại những di sản văn hoá
truyền thống phong phú về mặt vật thể và phi vật thể với hệ
thống thành quách ở thị xã Bắc Ninh, phòng tuyến sông Cầu (sông
Như Nguyệt) nổi tiếng thời Lý chống lại các thế lực ngoại
bang phương Bắc, hệ thống các đền chùa, miếu mạo ở các vùng
Từ Sơn, Bắc Ninh - Thị Cầu, Dâu Keo ... và đặc biệt là hát
dân ca quan họ nổi tiếng cùng các lễ hội mang đậm bản sắc
dân tộc như hội Lim, Đình Bảng ...
- Từ năm 1822 xứ Kinh Bắc được nhà Nguyễn đổi tên gọi thành
tỉnh Bắc Ninh, sau 2 năm trấn thành Bắc Ninh, thuộc thị xã
Bắc Ninh ngày nay, được xây dựng lại bằng đá ong và hiện
diện vị thế của mình bằng cột cờ cao 17m.
- Dưới thời Pháp thuộc vào năm 1931 thị trấn Bắc Ninh được
đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Thị xã Bắc Ninh được tổ chức
thành một cứ điểm trọng yếu về quân sự của Bắc Kỳ và là một
trung tâm chính trị, kinh tế vùng.
- Năm 1938 thị xã Bắc Ninh được xếp vào thành phố thứ 5 của
xứ Bắc Kỳ sau các đô thị: thành phố Hà Nội, thành phố Hải
Phòng, thành phố Nam Định và thị xã Hải Dương.
- Sau hoà bình lập lại năm 1954, tỉnh Bắc Ninh nói chung và
thị xã Bắc Ninh nói riêng tiếp tục duy trì sự phát triển
kinh tế suốt quá trình xây dựng chính quyền nhân dân và chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc
- Vào năm 1963 tỉnh Bắc Ninh được sát nhập với tỉnh Bắc
Giang thành tỉnh Hà Bắc. Mặc dù không còn vị trí tỉnh lỵ như
trước đây (lúc đó Bắc Giang trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới
sát nhập), nhưng thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh
tế - xã hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong mối quan hệ
giao lưu với thủ đô Hà Nội.
- Đến năm 1996 tỉnh Hà Bắc lại được chia lại thành hai tỉnh
Bắc Ninh và Bắc Giang theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX,
kỳ họp thứ 10 (ngày 15 - 11 - 1996). Từ đó thị xã Bắc Ninh
lại trở thành thị xã của tỉnh Bắc Ninh mới.
Từ đó đến nay Bắc Ninh đã phát triển không ngừng bộ mặt đô
thị hoá của tỉnh mà tiêu biểu là việc xây dựng mới:
Khu vực hành chính và các khu dân cư mới ở thị xã Bắc Ninh.
Cải tạo và phát triển mạnh bộ mặt trung tâm của các thị trấn
huyện lỵ, nhất là thị trấn Từ Sơn.
Đang hình thành và phát triển một số khu công nghiệp tập
trung quan trọng như khu công nghiệp Từ Sơn, Quế Võ.
Hệ thống kỹ thuật hạ tầng được cải tạo và nâng cấp đáng kể
nhất là QL 1A, QL 1B, QL 18, QL 38, và 11 tuyến tỉnh lộ với
tổng chiều dải trên 350 km. Các hệ thống hạ tầng kỹ thuật
cấp nước, cấp điện cũng được đầu tư đáng kể.
Hệ thống di tích lịch sử văn hoá lâu đời của xứ Kinh Bắc xưa
nhất loạt đã được khôi phục, bảo tồn và phát triển có hiệu
quả thu hút khách du lịch thập phương.
Ngoài ra với hàng trăm ngành nghề khác nhau của tỉnh Bắc
Ninh cũng được khuyến khích phát triển tạo điều kiện cho sự
hình thành và phát triển nhiều thi tứ trên sông Dân, ở Đông
Hồ, Đình Bảng, Đa Hội, Tương Giang, Phù Khê, Nội Duệ...
Nơi sinh thành dân tộc và nên tảng văn hiến Việt Nam
Bắc Ninh ? Kinh Bắc xưa là vùng đất phía bắc của kinh thành
Thăng Long ? Đông Đô ? Hà Nội ngày nay, là vùng đất trung
tâm của châu thố sông Hồng. Bắc Ninh còn là nơi gặp gỡ, giao
hội của các mạch giao thông thuỷ, bộ tạo cho xứ Bắc sớm trở
thành trung tâm kinh tế - văn hoá với một vị trí đặc biệt
trong lịch sử dân tộc và văn hoá Việt Nam.
Qua các kết quả nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu khảo cổ
học ở Bắc Ninh cho thấy, đây là địa bàn cư trú của người
Việt cổ, đồng thời là bộ phận cốt lõi của quốc gia Văn Lang
? Âu Lạc.
Từ mấy nghìn năm trước người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở
ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông
Tiêu Vương,... sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp kết
hợp làm nghệ thủ công. Hàng loạt di vật như trống đồng, dao
găm, rìu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp,... bằng đồng với
những hoa văn độc đáo được tìm thấy ở các di tích Lăng Ngâm,
Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai,... mảnh khuôn đúc trống đồng
trong thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo
trong nghề đúc đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm,...
Cũng trên mảnh đất này, những giá trị tinh thần, tư tưởng
được phản ánh qua các huyền thoại ?ông Đùng, bà Đùng?, ?ông
khổng lồ cắn nát núi, hút sạch rừng, băng ngang lũ?, về Kinh
Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dương
Vương, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ và thành cổ Loa,... Cùng với
huyền thoại truyền thuyết là đậm đặc các di tích tiêu biểu
như lăng mộ Kinh Dương Vương, các đền thờ Lạc Long Quân ? Âu
Cơ, đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ở Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên
Du,...đều được lưu giữ trong lòng đất lòng người vùng quê xứ
Bắc - Bắc Ninh. Đây chính là sự minh chứng hùng hồn cho sự
phong phú đa dạng và tiêu biểu hơn bất cứ đị a phương nào
trên mảnh đất Việt ngàn năm văn hiến.
Trung tâm chống xâm lược và chống đồng hoá, bảo tồn phát
triển văn hoá dân tộc.
Khu di tích Luy Lâu rộng hàng trăm hécta với hệ thống các
công trình thành luỹ, đền chùa, phố xá, chợ, bến, kho tàng,
dinh thự, các khu sản xuất gạch ngói, các làng nông nghiệp,
làng thợ, làng buôn, khu môn địa,... còn là khu di tích thời
Bắc thuộc lớn nhất Việt Nam hiện nay.
Thủ phủ Luy Lâu (tức Long Biên) là nơi ghi dấu những chiến
tích hào hùng chống quân xâm lược phương Bắc. Cho đến ngày
nay, hệ thống các đền thờ tướng lĩnh ở đây và những lễ hội
mừng chiến thắng mùa xuân vẫn được duy trì và tổ chức hàng
năm ở trung tâm Luy Lâu càng khẳng định Bắc Ninh xưa là
trung tâm của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Không những thế, qua các tài liệu thư tịch và di khảo cổ còn
cho thấy Luy Lâu đã từng là đô thị lớn, là trung tâm thương
mại mang tính quốc tế: ?Trên đất Giao Chỉ, trong suốt thời
kỳ dài từ cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ IX-X, Luy Lâu không
nhường vai trò đô thị lớn nhất cho bất cứ nơi nào?. Xung
quanh Luy Lâu là các làng nông nghiệp, làng thủ công, làng
buôn bán phát triển mạnh mẽ. Luy Lâu là một đô thị mang tính
buôn bán quốc tế, các hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá ở
Luy Lâu thời Bắc thuộc rất nhộn nhịp và sầm uất.
Cùng với quá trình giao lưu, hội nhập và trao đổi kinh tế là
quá trình tiếp xúc, hội nhập văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo
giữa Việt Nam và các nước trong khu vực mà trung tâm cũng
vẫn là Luy Lâu. Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán
Đường đã được truyền bá liên tục vào nước ta. Bắc Ninh với
trung tân Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn
hoá Hán ở Việt Nam.
Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa
nhất của người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm
đặc ở đây với trung tâm là chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật,
tài liệu như tượng pháp , bia ký, bản khắc ?Cổ Châu Pháp Vân
vật bán hanh? và lễ hội chùa Dâu - lễ hội Phật giáo lớn nhất
trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ
Pháp, rước nước đã chứng tỏ Luy Lâu là tổ đình của Phật giáo
Việt Nam.
Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã nhận xét: ?Xứ Bắc với đô
thị cổ Long Biên ? Luy Lâu là không gian điển hình đan xen,
hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh văn hoá Việt
Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á và Trung Á, văn hoá Nho
Lão (Trung Hoa ? Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá
Kinh Việt.
Vùng đất tiêu biểu của nền văn hiến và nhân cách Việt Nam.
Bước vào kỷ nguyên Đại Việt, Bắc Ninh trở thành phên dậu
phía Bắc của kinh thành Đông Đô ? Thăng Long ? Hà Nội. Nơi
đây tiếp tục giữ vai trò quan trọng đặc biệt trong công cuộc
bảo vệ đất nước và phát triển văn hoá Việt Nam.
Miền quê ?địa linh? này là đất phatsb tích nhà Lý - triều
đại khai mở ra nền văn minh Đại Việt gắn liền với tên tuổi
của những nhân vật lịc sử - văn hoá kiệt xuất như: Lý Công
Uẩn, Lý Nhân Tông, Nguyên Phi Ỷ Lan, Lê Văn Thịnh. Đây là
nơi vang vọng bài thơ ?Nam quốc sơn hà? - bản tuyên ngôn độc
lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra nơi đây cũng là vùng quê trù phú, kinh tế phát
triển, là vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ. Ít nơi nào có nhiều
làng nghề nổi tiếng như tỉnh Bắc Ninh: gốm sứ (Phù Lãng, Thổ
Hà), gò đúc đồng (Đại Bái), rèn sắt (Đa Hội), chạm khắc (Phù
Khê, Kim Thiều), sơn mài (Đình Bảng), ?mộc Choã, ngoã
Viềng?, cày bừa (Đông Xuất), giấy dó (Đống Cao), tranh điệp
(Đông Hồ), dệt lụa (Tam Sơn, Cẩm Giàng),...
Người Bắc Ninh không chỉ giỏi làm ruộng mà còn khéo tay,
tinh xảo, hoạt bát trong giao thương, buôn bán và nhất là
lại thông minh hiếu học. Ngoa truyền dân gian về đất này quả
là có cơ sở: ?Một giỏ sinh đồ, một bồ tiến sỹ, một bị trạng
nguyên, một thuyền bảng nhãn?. Đây là quê hương của vị Trạng
nguyên Lê Văn Thịnh - vị trạng nguyên khai khoa mở đầu cho
lịch sử khoa cử Việt Nam. Có vùng như huyện Đông Ngàn thông
minh hơn người (dốt Đông Ngàn hơn người ngoan thiên hạ), có
làng như Tam Sơn - địa phương duy nhất cả nước có đủ tam
khôi với 22 vị đại khoa (tiến sỹ) trong đó có hai trạng
nguyên.
Nơi đây còn nổi tiếng với trung tâm phật giáo và những ngôi
chùa có quy mô to lớn, cổ kính, kiến trusc tạo tác rất công
phu, tài nghệ như chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa
Bút Tháp, chùa Tiêu Sơn, Cổ Pháp,... Đây là những danh lam
cổ tự nổi tiếng, ngày nay đã trở thành những di sản kiến
trúc tiêu biểu của dân tộc ta.
Nơi đây còn được mệnh danh là vương quốc của lễ hội, chủ yếu
là hội chùa, hội đền. Trong đó có những lễ hội lớn, nổi
tiếng cả vùng và cả nước như hội Gióng (9-4), hội Dâu (8-4),
hội đền Đô, hội Lim, hội Chùa Phật Tích...
Về ăn mặc dân Kinh Bắc ưa sang trọng nhưng nền nã: nam khăn
xếp, áo the, ô lục soạn; nữ áo mớ ba, mớ bảy, nón quai thao.
Xứ bắc có nhiều làng nghề nghệ thuật như làng tranh Đông Hồ,
làng hát ca trù Thanh Tương, làng rối nước Đồng Kỵ, Bùi Xá,
Đa Hội, Tam Lư, Tấn Bảo,...và đặc biệt hơn cả là hệ thống 49
làng chơi quan họ, một lối chơi, một sin hoạt văn hoá tinh
tường, độc đáo, đạt tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc mà
chỉ người Bắc Ninh mới có.
Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đấu tranh vì độc lập tự do
và chủ nghĩa xã hội, những giá trị của nền văn hoá Kinh Bắc
vẫn được giữ gìn và phát huy. Bắc Ninh nổi tiếng là vùng quê
sớm có phong trào cách mạng, nơi sớm ra đời các tổ chức tiền
thân của Đảng, mảnh đất sinh thành và nuôi dưỡng các vị tiền
bối xuất sắc của Đảng như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng
Quốc Việt. Nơi đây cũng là quê hương của nhiều bậc tài danh
trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, nghệ thuật. Vì từ xưa
đến nay Bắc Ninh vẫn luôn xứng danh là miền đất trù phú,
kinh tế phát triển, là quê hương của thi ca, mảnh đất mà văn
hoá nghệ thuật phát triển đến đỉnh cao của dân tộc Việt Nam.
--------------------------------------------------------------------------------
KINH BẮC BẮC
NINH:
Về
mặt văn hoá, có thể nói vùng kinh bắc là tượng trưng cả dân
tộc. Cả vùng bên kia sông hồng ôm lấy sông Đuống, sông
thương, sông cầu, sông tiêu thương, núi thiên thai, rừng
báng che rợp tám ngôi mộ các đời vua nhà Lý, những cánh đồng
xanh biếc ngô khoai. Hàng năm ngôi đình, chùa, miếu, am rêu
phong thấp thoáng. Ở vùng đất thiêng này, những địa chỉ như
thổ hà, đồng ky, yên phong, tiên sơn, việt yên, bắc ninh,
đình bảng, phù lưu… cứ vang lên những nốt nhạc tuyệt vời qua
nhiều thế kỷ. Gắn liền với những di tích văn hoá lịch sử là
những hội làng, hội xuân , hội mùa, hội mùa, hội chợ, hội
bắt chạch trong chum và những cuộc thi bắt chim, thi cờ
tướng, thi hát chèo, thi nấu cơm, thi đánh đu, đánh vật,
chọi gà…Ở đây, người ta ra một tuyên ngôn từ rất lâu “ có
nam có nữ mới nên xuân”.
Kinh bắc là xuất xứ của nhiều huyền thoại, chuyện kể: Trương
Chi – Mỵ Nương , tự uyên, bà chúa kè, bà chúa kho, bà Nguyễn
Thị Huyền có hai con gái là Ngọc Hân và Ngọc Bình, Ỷ Lan phu
nhân , mẹ Hồ Xuân Hương, mẹ thi hào Nguyễn Du, hàn thuyên,
nguyễn gia thiều, ca bá quát… là những người con của vùng
đất này. Nơi đây cung cấp nhiều cung phi, mỹ nữ nhất cho
vương triều phong kiến. Là mảnh đất văn học, kinh bắc chiếm
nhiều bia tiến sĩ nhất so với bất kì nơi nào trong cả nước.
Cũng là mảnh đất văn học, kinh bắc có 49 làng quan họ nổi
tiếng, ôm ấp trong mình hơn 200 lan điệu chính thức làm
nguồn sống vô tận về tinh thần cho cảm hứng âm nhạc dân tộc
qua những cánh hoa, hương bướm và dáng vẻ của mình. Những
bài ca Quan Họ đã và đang được hoan nghênh nhiệt nhiệt ở
trong nước cũng như ở nước ngoài. Người ta bảo làn gió ở
Kinh Bắc ngọt ngào, đầy gợi cảm đã làm say lòng người qua
nhiều thế hệ. Ngay cả khi cuộc sống khó khăn, nó luôn luôn
vút cao những nhịp điệu cao cả, yêu đời vẫn được đảm bảo
trọn vẹn chất uy nghi và trang nhã. Nhiều lớp người ra đi,
những nốt nhạc lại bám trụ và trú ngụ vào những lớp người kế
tiếp để ngân nga và phát triển thành những điều vĩnh cửu
ngay trong đời sống phù du. Chúng làm cho những hối ức xa
xưa hàng thế kỷ và những nghi thức thấn điệu được thức dậy
trong lòng người. Nhạc ngân lên, ngực căng phồng tâm hồn đâm
hồn kết trái như cây cối, làm cho thể xác và tâm hồn quyện
vào nhau.
Nổi bật trong tranh khắc gỗ Việt Nam, kếp nạp đậm đặc màu
sắc giá trị dân tộc, làm đại biểu cho tranh dân gian Việt
Nam để tham gia kho tàng tranh thế giới là loại tranh Đông
Hồ Kinh Bắc. Đông Hồ còn làm hàng mã, làm những đồ nghệ
thuật bằng giấy, làm pháo. Đó là cả một làng nghệ thuật.
Người làng Đông Hồ vẽ tranh có đề thơ kèm. Họ hiếu học, giao
du rộng, lịch sự, rất sành về ẩm thực, tranh Đông Hồ có mặt
khắp nước, lại còn ra nước ngoài, góp vào các sưu tập tranh
quốc tế và có mặt trong nhiều bảo tàng quan trọng trên thế
giới. Kinh Bắc, mảnh đất huy hoàng đầy văn hoá. Có nhà học
giả đã nói “văn hoá Kinh Bắc được coi gần như một thứ tôn
giáo, một thứ văn hoá của sinh tồn cao cấp…”Kinh Bắc là quê
hương của tiếng hát Quan Họ, của tranh Đông Hồ, của trầu têm
cánh phượng, của bánh phu thê… là cái nôi của nghệ thuật ẩm
thực cổ truyền, của hội làng đình, đám, của kiến trúc hoành
tráng… vì vậy cũng có những người nước ngoài đến khảo sát
Kinh Bắc, vội vàng mua hương đốt lên để tỏ lòng ngưỡng mộ
quê hương của trai thanh gái lịch, của áo mớ ba mớ bảy, của
nón quai thao, của khát vọng trai gái yêu nhau cởi áo trao
nhau… mảnh đất Kinh Bắc là mảnh đất đời thường mà huyền
thoại. Nó là lá Diêu Bông, tìm mãi không thấy hết vẻ đẹp dạt
dào vô tận của nó. Nó cũng là vẻ đẹp chỉ có trong lý tưởng
mà người ta không nhìn thấy hết. Người Kinh Bắc có đi đầu
non cuối biển thì trong họ vẫn vang vọng mãi câu:
“Quê hương vi vút gọi
Diêu Bông hời Diêu Bông”
Quê hương của 8 triều Vua Lý - Tỉnh Bắc Ninh
Ðình Bảng, Tiên Sơn, Bắc Ninh - vùng kinh bắc (xưa là Hương
Diên Uẩn- Châu Cổ Pháp) mới thực sự là vùng đất được coi là
"địa linh nhân kiệt" đích thực. Lý Công Uẩn - một ông vua
anh minh, văn võ song toàn, đã dựng nghiệp nhà Lý, trị vì
đất nước qua 8 triều vua với gần 216 năm (1009- 1225), đặt
tên nước là Ðại Việt, lập nên kinh đô Thăng Long. Qua gần
100 năm Thăng Long xưa và Hà Nội hôm nay đã trở thành một
thủ đô anh hùng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, "thành phố vì hoà bình" duy nhất ở vùng Ðông Nam
châu á, do tổ chức UNESCO thế giới phong tặng.
Ðình Bảng - Tiên Sơn - Bắc Ninh, vùng văn hoá đã nổi tiếng
là nơi có phong cảnh đẹp từ xưa, cách thủ đô Hà Nội và thị
xã Bắc Ninh chừng gần 20km, trên đường quốc lộ 1A. Khu vực
đền Ðô được xây dựng từ thời Lý Công Uẩn (thế kỷ XI). Ðền Ðô
thờ 8 vị vua nhà Lý. Ông vua đầu tiên là Lý Công Uẩn (tức Lý
Thái Tổ 1009 - 1028). Sau đó là các triều vua tiếp theo: Lý
Thái Tông (1028- 1054); Lý Thánh Tông (1054 - 1072); Lý Nhân
Tông (1072 - 1128); Lý Thần Tông (1128 - 1138); Lý Anh Tông
(1138 - 1175); Lý Cao Tông (1175 - 1210); Lý Huệ Tông (1210
- 1224).
Lý Thái Tổ lập ra triều Lý, quyết định rời kinh đô từ Hoa Lư
ra Thăng Long vào mùa thu năm Tuất- 1010. Lý Thánh Tông (đời
vua thứ ba của triều Lý) - đặt ra quốc hiệu Việt Nam là Ðại
Việt (có ý ngang hàng với nhà nước Ðại Tống - Trung Quốc).
Năm 1070 lập ra Văn Miếu Quốc Tử Giám - trường Ðại học đầu
tiên ở Việt Nam, một trong số ít quốc gia có trường Ðại học
sớm nhất thế giới. Lý Nhân Tông (đời vua thứ tư) của nhà Lý,
một vị vua xuất chúng. Ðặc biệt là cả 8 triều vua đều mất và
mai táng ở Thọ Lăng, Thiên Ðức, hương Cổ Pháp, cách đền Ðô
không xa.
Khu di tích đền Ðô có diện tích 31.250 m2, với trên 20 hạng
mục công trình gồm: đền thờ, nhà tiền tế, phương đình, nhà
bia, nhà để kiệu, nhà để ngựa thờ, cửa rồng, thuỷ đình, văn
chỉ, võ chỉ... Nhà thuỷ đình đền Ðô xưa đã được ngân hàng
Ðông Dương thời thuộc Pháp chọn làm hình ảnh tiêu biểu in
trên tờ giấy bạc 5 đồng, nhưng cũng chính nhà thuỷ đinh ấy
lại bị thực dân Pháp phá huỷ hoàn toàn cùng với quần thể
kiến trúc đền Ðô vào năm 1952 trong một trận càn quét "đốt
sạch, phá sạch"!
Ðến thăm quê hương nhà Lý ta còn được chiêm ngưỡng phong
cảnh đồng quê tiêu biểu vùng kinh Bắc, thăm các di tích lịch
sử- văn hoá như Chùa Cổ Pháp, chùa Kim Ðài là một trung tâm
Phật giáo cực thịnh vào thế kỷ VIII và đình làng Ðình Bảng-
một tác phẩm kiến trúc độc đáo được xây dựng đầu thế kỷ
XVIII; tháp Lý Khánh Văn tưởng niệm người cha nuôi của vua
Lý Thái Tổ; thăm Thọ lăng Thiên Ðức, một khu lăng khiêm tốn
giản dị- nơi yên nghỉ của các đời vua nhà Lý...
Lễ hội đền Ðô được tổ chức rất trọng thể vào ngày 15 tháng 3
âm lịch hàng năm, đúng ngày Lý Công Uẩn đăng quang (15/3)
năm Tuất- 1010). Lễ hội đền Ðô là một lễ hội truyền thống có
từ lâu đời và trở thành phong tục đẹp được nhân dân Ðình
Bảng gìn giữ. Lễ hội đền Ðô được nhân dân cả nước hưởng ứng,
nhiều khách nước ngoài cũng đến dự và để lại những ấn tượng
tốt đẹp.
Ðình Bảng còn là quê hương của truyền thống Cách mạng. Hội
nghị Trung ương, Hội nghị Thường vụ Ban chấp hành Trung ương
cũng từng họp tại làng Ðình Bảng- một trong những nơi họp bí
mật, cận kề với cơ quan đầu não của thực dân Pháp để quyết
định vận mệnh của đất nước vào năm 1945. Sau khi nhà nước
Việt Nam độc lập (9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 4 lần về
thăm quê hương nhà Lý.
Ðình Bảng- Tiên Sơn- Bắc Ninh, quê hương của các vị vua
triều Lý lại là một vùng quê trù phú, có truyền thống cách
mạng sẽ là một điểm đến lý tưởng cho du khách mỗi khi tới
Thủ đô.
--------------------------------------------------------------------------------
HÁT QUAN HỌ BẮC
NINH:
Hát Quan H
ọ
trong dịp hội chùa Lim là nét độc đáo không riêng của Bắc
Ninh. Đó là những tốp ca hát chuyên về làn điệu dân ca. Tốp
nam kết nghĩa với tốp nữ, cư ngụ ở những địa phương gần hoặc
xa. Đây là việc trao dồi tài năng, phát triển văn hoá. Muốn
kết nghĩa họ dùng trầu cau, mời ăn trước để bàn bạc về phong
cách hát. Sau đó trình diện với vị trưởng lão của làng, làm
lễ kết nghĩa trước sân đình, ăn uống rồi hát đối đáp.
Buổi hát giữa địa phương này với địa phương kia diễn ra ở
quanh chùa đình, có thể chọn bối cảnh thơ mộng của bãi cỏ,
sườn đồi, bờ ruộng, khu vực có cây cổ thụ…. Vào đầu tháng
Giêng âm lịch, tiết trời thuận lợi, rãnh việc đồng áng chào
đón dịp tái sinh của vạn vật muôn loài, vận hội tốt cho năm
mới.
Những đoạn kết nghĩa để thi tài về dân ca vẫn tuân hành quy
tắc: Trước tiên, phần hát nghi lễ để hỏi thăm tình hình sinh
kế, hoàn cảnh cha mẹ, chúc mừng họ hàng, làng xóm…. Kế đến
là hát giao duyên, với nội dung trêu chọc thân mật nhưng
không dung tục trong lời lẽ. Thêm nguyên tắc “ Nam tòng nữ”,
trai tìm nơi kết nghĩa trước nhưng khi bắt đầu hát, thì bên
gái cất tiếng trước để bên trai trả lời sau.
--------------------------------------------------------------------------------
HỘI LIM BẮC NINH:
Lim là tên
một
quả đồi ở xã Tân Tương, huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh. Nơi
đây khi xưa là một cánh rừng Lim. Rừng Lim bây giờ không còn
nữa, nhưng tên Lim đã biến thành tên riêng thì vẫn còn gắn
liền với lời ca Quan họ, điệu hát dân gian. Nhìn từ xa, đồi
Lim giống như một cái yên ngựa nằm dọc theo hướng Đông Bắc.
Xa hơn về phương Nam là đỉnh núi chè cao ngất, những nương
chè bát ngát xanh ngắt một màu. Sông Tiêu Thương — con sông
đã lắng nghe tiếng sáo tuyệt vời của chàng Trương Chi năm
xưa, nay đã bị lấp dần, chỉ còn như một cái hồ dài uốn mình
ôm lấy đồi ở phía Tây. Mặt sông như mặt gương soi bóng đồi
Lim thơ mộng. Trên đỉnh đồi có một ngôi chùa cổ kính cũng
mang tên gọi chùa Lim.
Từ xưa, cứ đến ngày 13 tháng giêng là người ta mở hội Quan
họ của hơn 50 làng nằm rải rác trong các huyện Yên Phong,
Tiên Sơn, Việt Yên, thị xã Bắc Ninh… đồi Lim là trung tâm
của hội. Hội Lim có sức hấp dẫn đặc biệt đối với người dân
Kinh Bắc. Những ngày hội Lim mở thật vui, khách tứ phương
với quần áo đầy đủ màu sắc đổ về như nước chảy. Đồi Lim chật
ních người đi trẩy hội mùa xuân. Đủ mọi trò chơi vui tươi
hấp dẫn như : đấu vật, chọi gà, đánh đu, rước kiệu…. Đặc
biệt là những đám hát quan họ đối đáp nhau một cách rộn rã,
nên thơ. Lim chính là quê hương của Quan Họ những bài hát “
Cây trúc xinh…”, “Trèo lên quán dốc…”. “ Tình bằng có cái
trống cơm…”, “ Người ơi, người ở đừng về…”…cho đến nay vẫn
chiếm được cảm tình của mọi người bởi âm điệu du dương, đằm
thắm của nó.
--------------------------------------------------------------------------------
TRẬN QUYẾT CHIẾN TRÊN SÔNG NHƯ NGUYỆT
(3-1077) BẮC NINH:
Cánh th
ủy
binh bị giam chân ở Vĩnh An, đại quân của Quách Quỳ và Triệu
Tiết vì thế mà không có phương tiện để vượt sông Cầu. Chúng
chia quân ra làm hai khối, đóng ở hai vị trí khách nhau trên
bờ Bắc sông. Quân Quách Quỳ đóng ở Việt Yên, đối diện với
Thị Cầu, còn quân của Triệu Tiết đóng ở Hiệp Hoà. Tuy một
mảng trong kế hoạch hợp đồng tác chiến giữa thủy binh và bộ
binh đã bị bẻ gãy, nhưng nhìn chung lực lượng giặc chưa bị
tiêu hao và xét về tinh thần chiến đấu, chúng vẫn còn rất
hung hăng. Quách Quỳ ra lệnh Vương Tiến bắc cầu phao và chỉ
định Miêu Lý làm tướng tiên phong, dẫn khoảng vài ngàn quân
tiến sang bờ Nam. Đây là đợt tấn công lần thứ nhất. Quân
Miêu Lý không đông, nhưng đây là đội tiên phong và rất thiện
chiến. Lực lượng tinh nhuệ ấy của Miêu Lý tấn công quyết
liệt vào chiến tuyến sông Cầu, thậm chí đã vượt được chiến
tuyến và tìm được đường đánh thẳng về Thăng Long. Tình thế
trở nên rất khó khăn và ác liệt. Trong hoàn cảnh vô cùng khó
khăn ấy, Lý Thường Kiệt đã động viên quân sĩ một cách thiên
tài bằng bài thơ “ Nam Quốc Sơn Hà” bất diệt, có giá trị như
một bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước nhà:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tai thiên thư
Như hà nghịch lỗ tai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Tương truyền, nhân đêm tối trời, Lý Thường Kiệt đã cho người
vào đền thờ Trương Hát ở gần chiến tuyến để đọc to bài thơ
ấy lên. Lời thơ hùng hồn lại được đọc lên dõng dạc ở chốn
tôn nghiêm, khiến cho quân sĩ nghe cứ tưởng là lời thần linh
của núi sông. Bài thơ tuyệt vời ấy đã có tác dụng động viên
mạnh mẽ tinh thần của quân sĩ Đại Việt. Chớp lấy cơ hội đó,
Lý Thường Kiệt liền chấn chỉnh đội ngũ và cho quân tiến công
rất quyết liệt vào lực lượng của Miêu Lý. Miêu Lý bị đánh
đại bại tại Yên Phụ, đội quân tiên phong do y chỉ huy bị
tiêu diệt gần hết. Miêu Lý buộc phải dẫn tan quân chạy về
nhưng đến bến Như Nguyệt thì cầu phao đã bị quân ta chặt
đứt. Cùng đường y liều chết bơi qua sông. Đám tàn binh ấy
lại bị nước sông Cầu nhận chìm thêm một ít nữa. Kế hoạch bắt
cầu phao vượt sông bị thất bại thảm hại.
Quách Quỳ và Triệu Tiết tìm cách vượt sông lần thứ 2 để
quyết chiến với đại binh Lý Thường Kiệt. Lần này chúng huy
động lực lượng lớn hơn và vượt sông bằng bè. Mỗi chuyến bè
chở được 500 quân. Quách Quỳ và Triệu Tiết hy vọng rằng, nếu
dồn dập đưa nhiều chuyến bè sang thì chúng có thể phá vỡ
phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Bè không phải là một phương tiện chiến đấu tốt. Dùng bè để
chở lính trong trường hợp này chẳng qua chỉ là biện pháp tạm
thời, nhằm khắc phục khó khăn do các thủy quân không đến
được như kế hoạch đã định mà thôi. Bè sang chậm đã thế mỗi
chuyến chỉ chở được 500 quân, nên ở trận giáp chiến thứ 2
này, quân đội của Lý Thường Kiệt cứ thế lần lượt tiêu diệt
địch một cách ung dung. Cuộc tấn công lần thứ 2 của quân
tống bị đập tan. Chủ lực địch hoàn toàn bị bất lực trước
chiến tuyến sông Như Nguyệt. Trong lúc đó, các cánh quân
thuỷ bộ của Lý Thường Kiệt chẳng những được bảo toàn mà còn
đang đứng rất vững ở vị trí chiến đấu của mình. Hy vọng vượt
sông cuối cùng của Quách Quỳ và Triệu Tiết là chờ đợi các
thủy quân. Nhưng các thủy quân không thể nào đến được, thậm
chí mãi cho đến triều đình nhà Tống gọi về chúng mới hay là
quân Tống đã bị đại bại.
Quách Quỳ và Triệu Tiết nhận định rất đúng rằng, trong hoàn
cảnh cụ thể đó, mọi cố gắng vượt sông để đánh phá phòng
tuyến sông Như Nguyệt đều chỉ là phiêu lưu. Và đã cho ra
lệnh “ Ai bàn đến đánh sẽ bị chém đầu”.
Giặc từ thế công chuyển sang thế chủ, ý đồ đánh nhanh thắng
nhanh bị phá sản hoàn toàn. Trong lúc đó nhân dân ta ở các
vùng bị tạm chiếm lại nổi dậy tiêu hao dần sinh lực của
chúng. Thời cơ đánh trận quyết định đã xuất hiện. Tuy trong
tình thế túng quẫn, tiến thoái lưỡng nan nhưng Quách Quỳ và
Triệu Tiết vẫn tìm cách nhử cho quân ta sang bờ bắc để dễ bề
tiêu diệt. Lần thứ 2, Quách Quỳ và Triệu Tiết đã nhận định
rất đúng rằng: thế nào quân đội Lý Thường Kiệt cũng sẽ tổ
chức vượt sông để tấn công. Điều mà Quách Quỳ và Triệu Tiết
không thể biết được chỉ là thời điểm, địa điểm và phương
thức tổ chức vượt sông như thế nào mà thôi. Sau 2 tháng chờ
đợi cuộc tấn công của quâ đội ta, giặc bị dồn vào một tình
thế hết sức khốn quẫn và căng thẳng. Đánh thì sẽ thất bại,
rút thì nhục, thủy binh không tới, bộ binh, kị binh và phu
dịch thì rã rời… Quách Quỳ và Triệu Tiết hoàn toàn ở vào thế
bị động.
Vào một ngày cuối tháng 3/1077, cuộc tổng phản công chiến
lược của Lý Thường Kiệt bắt đầu. Mở đầu, đạo quân thủy quân
ở Vạn Xuân do 2 hoàng tử Hoàng Châu và Chiêu Văn chỉ huy đã
bất ngờ vượt sông, đánh quyết liệt vào khu vực đóng quân của
Quách Quỳ. Cuộc tấn công này nhằm hai mục đích. Một là góp
phần tiêu diệt sinh lực địch. Hai là thu hút toàn bộ sự chú
ý của địch tạo điều kiện dễ dàng cho đại binh của Lý Thường
Kiệt vượt sông, đánh trận quyết định với quân Tống. Trong
trận ác chiến này hai vị hoàng tử Hoàng Châu và Chiêu Văn đã
anh dũng hy sinh, nhưng cả 2 mục tiêu đề ra cho trận đánh
thì đều đạt.
Trong đêm tối khi mà quân Tống tập trung lực lượng đối phó
đạo thủy binh, Lý Thường Kiệt đã bí mật cho đại binh vượt
sông Như Nguyệt và ồ ạt tấn công vào khu vực bến đò Như
Nguyệt. Nơi đây, lực lượng quân Tống rất hùng hậu, nhưng lại
do đánh bất ngờ trong đêm nên đã bị đại bại. Quân Tống tháo
chạy trong hoản loạn, nhưng đúng vào lúc đó Lý Thường Kiệt
lại viết thư đề nghị giảng hoà! Ong nói: “dùng biện sĩ bàn
hoà, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo tồn được
tôn miếu”. Nếu trước đó chúng tiến sang hùng hổ bao nhiêu
thì lúc này chúng rút về trong lo sợ và hỗn loạn bấy nhiêu.
Ngay đến sử của Trung Quốc đời nhà Tống cũng phải viết rằng
“ Qùy muốn rút quân về, sợ giặc tập kích, bèn bắt quân khởi
hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn
loạn, giẫm xéo lên nhau”.
Giặc rút tới đâu, Lý Thường Kiệt cho quân đuổi theo thu hồi
đất đai đến đấy. Với trận Như Nguyệt, ý chí xâm lăng của
quân Tống bị đè bẹp. Như Nguyệt là một trong những trận
quyết chiến tuyệt vời của lịch sử dân tộc. Là vị tổng chỉ
huy trong trận đánh lịch sử này, Lý Thường Kiệt xứng đáng
được nhân dân cả nước ta đời đời ghi nhớ và kính trọng. Ong
là một trong những vị anh hùng kiệt xuất nhất của dân tộc
ta.
--------------------------------------------------------------------------------
TRANH ĐÔNG HỒ BẮC NINH:
Đây là
một
làng nghề vẽ tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam ở làng
Đông Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Nghề vẽ tranh dân gian
của làng Đông Hồ đã có từ rất lâu đời. Trước đây họ vẽ tranh
phục vụ Tết Nguyên Đán. Ngày nay, họ vẽ tranh còn để bán cho
khách hàng có nhu cầu bất cứ lúc nào. Nguyên liệu vẽ tranh
là giấy dó (giấy được làm bằng cây dó giã nhỏ, lọc và cán
mỏng), màu vẽ lấy từ chất liệu thiên nhiên như gạch non, lá
cây, đốt thành than mài ra. Để tạo ra màu nền lấp lánh, họ
phải dùng vỏ con sò, nghêu (còn gọi là điệp) nung lên thành
vôi, giã nhỏ, trộn với nhựa cây, phết đều lên giấy dó để tạo
ra màu nền. Hầu hết tranh Đông Hồ đều phản ánh ước nguyện
hoà bình, hạnh phúc, ấm no. có một số tranh về động vật như
bò, lợn, chó, mèo là những con vật gần gũi với người nông
dân. Đặc biệt một số tranh với mảng đề tài “ hứng dửa”, “đám
cưới chuột”, “ đánh ghen” rất hấp dẫn khách trong và ngoài
nước. Hiện nay, làng tranh Đông Hồ còn làm thêm đồ hàng mã
để phục vụ cho việc tế, lễ.
Hàng năm, chợ tranh được họp vào dịp Tết Nguyên Đán tại đình
Đông Hồ. Khách ở quanh vùng và ở các tỉnh xa nô nức về chợ
để mua tranh. Hội thi đồ mã cũng được tổ chức tại đình từ
chiều 14/3 đến 18/3 âm lịch hàng năm. Chợ tranh và hội thi
đồ mã được tổ chức hàng năm phần nào phản ánh được nét đặc
thù trong hoạt đông kinh tế — văn hoá của người dân làng
Đông Hồ.