|  | 
			
				| ĐỊA DANH DU LỊCH VĨNH PHÚC 
				- ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH VĨNH PHÚC |  
				| 
					
					.jpg) Vĩnh 
					Phúc là tỉnh thuộc Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, phía Bắc 
					giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Nam giáp Hà Tây, 
					phía Tây giáp Phú Thọ và phía Đông giáp thủ đô Hà Nội. Tỉnh 
					có diện tích tự nhiên 1.371,41 km2, dân số trung b́nh năm 
					2004 có 1.161,7 ngh́n người với 9 đơn vị hành chính, đó là 
					thành phố Vĩnh Yên. Có thị xă Phúc Yên và 7 huyện: Lập Thạch, 
					Tam Dương, Tam Đảo, B́nh Xuyên, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Mê Linh. 
					Tỉnh lỵ của Vĩnh Phúc là thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm 
					thủ đô Hà Nội 50km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 25km. Vĩnh Phúc nằm trên quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội - 
					Lào Cai, là cầu nối giữa vùng trung du miền núi phía Bắc với 
					Thủ đô Hà Nội; liền kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua 
					đường quốc lộ số 5 thông với cảng Hải Pḥng và trục đường 18 
					thông với cảng nước sâu Cái Lân. Vĩnh Phúc có vị trí quan 
					trọng đối với vùng KTTĐ Bắc Bộ, đặc biệt đối với thủ đô Hà 
					Nội: kinh tế Vĩnh Phúc phát triển sẽ đảm bảo vững chắc khu 
					vực pḥng thủ cho Hà Nội; góp phần cùng thủ đô Hà Nội thúc 
					đẩy tiến tŕnh đô thị hóa, phát triển công nghiệp, giải 
					quyết việc làm, giảm sức ép về đất đai, dân số, các nhu cầu 
					về xă hội, du lịch, dịch vụ của thủ đô Hà Nội.
 Quá tŕnh phát triển kinh tế - xă hội của đất nước trong các 
					năm qua đă cho Vĩnh Phúc những lợi thế mới về vị trí địa lư: 
					tỉnh đă trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát 
					triển công nghiệp các tỉnh phía Bắc; chịu ảnh hưởng mạnh mẽ 
					trước sự lan toả của các khu công nghiệp lớn thuộc Hà Nội 
					như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn...; Sự h́nh thành và phát triển 
					các tuyến hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan 
					đến Vĩnh Phúc đă đưa tỉnh xích gần hơn với các trung tâm 
					kinh tế, công nghiệp và những thành phố lớn của đất nước như: 
					hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Pḥng, QL2 Việt 
					Tŕ - Hà Giang - Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong 
					tương lai là đường vành đai IV thành phố Hà Nội...
 Vĩnh Phúc nằm trong vùng chuyển tiếp giữa vùng g̣ đồi trung 
					du với vùng đồng bằng Châu thổ Sông Hồng. Bởi vậy, địa h́nh 
					thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và chia làm 3 vùng sinh 
					thái: đồng bằng, trung du và vùng núi.
 Vùng núi có diện tích tự nhiên 65.300 ha (đất nông nghiệp: 
					17400ha, đất lâm nghiệp 20300 ha). Vùng này chiếm phần lớn 
					diện tích huyện Lập Thạch (25 xă), huyện Tam Đảo và 4 xă 
					thuộc huyện B́nh Xuyên, 1 xă thuộc thị xă Phúc Yên. Trong 
					vùng có dăy núi Tam Đảo là tài nguyên du lịch quư giá của 
					tỉnh và của cả nước. Vùng này có địa h́nh phức tạp, khó khăn 
					cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông.
 Vùng trung du kế tiếp vùng núi, chạy dài từ Tây Bắc xuống 
					Đông - Nam. Vùng có diện tích tự nhiên khoảng 24.900 ha (đất 
					nông nghiệp 14.000ha), chiếm phần lớn diện tích huyện Tam 
					Dương và B́nh Xuyên (15 xă), thị xă Vĩnh Yên (6 phường xă), 
					một phần huyện Lập Thạch (11 xă), thị xă Phúc Yên. Quỹ đất 
					đồi của vùng có thể xây dựng công nghiệp và đô thị, phát 
					triển cây ăn quả, cây công nghiệp kết hợp chăn nuôi đại gia 
					súc. Trong vùng c̣n có nhiều hồ lớn như Đại Lải, Xạ Hương, 
					Vân Trục, Liễn Sơn, Đầm Vạc là nguồn cung cấp nước cho hoạt 
					động sản xuất, cải tạo môi sinh và phát triển du lịch.
 Vùng đồng bằng có diện tích 47.000 ha, gồm hai tiểu vùng phù 
					sa cũ và mới, tập trung ở các huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường 
					huyện Mê Linh. Đây là vùng có địa h́nh bằng phẳng, thuận 
					tiện cho phát triển cơ sở hạ tầng, các điểm dân cư đô thị và 
					thích hợp cho sản xuất nông nghiệp.
 Sự phân biệt 3 vùng sinh thái rơ rệt là điều kiện thuận lợi 
					cho tỉnh bố trí các loại h́nh sản xuất đa dạng.
 Vĩnh Phúc có tiềm năng to lớn về tài nguyên du lịch tự nhiên 
					và nhân văn. Tại đây có một quần thể danh lam thắng cảnh tự 
					nhiên nổi tiếng: rừng quốc gia Tam Đảo, Thác Bản Long, Hồ Ḅ 
					Lạc, Hồ Đại Lải, Hồ Làng Hà, nhiều lễ hội dân gian đậm đà 
					bản sắc dân tộc và rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa mang 
					nặng dấu ấn lịch sử và giá trị tâm linh như danh thắng Tây 
					Thiên, Tháp B́nh Sơn, Đền Hai Bà Trưng, Đền thờ Trần Nguyên 
					Hăn, Di chỉ Đồng Đậu.
 Cho đến nay, đầu tư khai thác nguồn tài nguyên du lịch phong 
					phú và đặc sắc phục vụ cho phát triển kinh tế của tỉnh c̣n 
					rất hạn chế.
 
 
 --------------------------------------------------------------------------------
 
 CHÙA BÁO ÂN VĨNH PHÚC:
 
					Chùa
 .jpg) Báo 
					Ân thuộc phường Trưng Nhị, thị xă Phúc Yên, được xây dựng ở 
					thế kỷ XII đời vua Lư Cao Tông (1176 - 1210). Đây là một 
					trong số ít ngôi chùa thời Lư c̣n lại đến ngày nay. Chùa làm 
					trên một quả đồi cao, xưa gọi là rừng Cấm, cây cối xum xuê, 
					bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất vi vu, u 
					tịnh của chốn thiền tôn. Theo văn bia, ngọc phả th́ chùa đă có từ lâu, đến thế kỷ 
					XII, con trưởng của vua Lư Cao Tông là Thái Tử Sâm đă cúng 
					hơn một trăm mẫu ruộng, hai ngh́n quan tiền để tu bổ chùa, 
					tu bổ xong Thái Tử c̣n bỏ ra bảy trăm quan tiền nữa để làm 
					tiệc cúng giàng. Đây là cuộc trùng tu rất lớn do Nguyễn Công 
					là một vơ tướng có uy tín lúc bấy giờ được cử trực tiếp chỉ 
					đạo tu sửa. Ông đă vận động các bậc cung phi và nhiều chúng 
					sinh trong nước đóng góp cho công tŕnh. Và kết quả là, như 
					trong văn bia đă nói “cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu 
					rọi non sông, cung điện huy hoàng, ánh nhật nguyệt chói ngời 
					sáng láng, tượng phật trang hoàng, toà sen đĩnh đạc. Chuông 
					to gác phượng, chẳng bao lâu tu tạo đă xong, khánh quư khám 
					rồng, vẻ lộng lẫy uy nghiêm rơ rệt...” Tu bổ xong chùa, vơ 
					tướng Nguyễn Công lại bỏ ra hơn một ngh́n quan tiền để mua 
					hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản.
 Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được 
					công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để 
					ghi nhớ công lao to lớn của công chúa, nhân dân ta đă lập 
					ban thờ ngài ở chùa này.
 Qua đó có thể nói rằng, thời Lư - Trần chùa Báo Ân được vua 
					và các nhà quyền quư quan tâm tu bổ, xây dựng với quy mô rất 
					to lớn, rất đẹp và là một trong những trung tâm phật giáo 
					quan trọng ở nước ta.
 Trải qua những thăng trầm biến cố của cả ngh́n năm lịch sử, 
					đến nay chùa Báo Ân vẫn c̣n đó song có nhiều biến đổi. Các 
					toà kiến trúc cổ của chùa như: Tiền đường, thiêu hương, 
					thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện 
					thờ mẫu do xuống cấp bị mục nát nên nhân dân đă dỡ bỏ. Hiện 
					nay hệ thống chùa được xây dựng lại với quy mô to lớn hơn, 
					kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi, rất chắc 
					khoẻ.
 Hiện tại chùa Báo Ân c̣n một số di vật cổ rất có giá trị. 
					Tượng pháp có: Ba pho Tam Thế, một pho A Di Đà, một pho Di 
					Lặc, một pho Thích Ca sơ sinh, một pho Đức ông và một pho 
					Thánh Tăng. Tượng thần có một pho công chúa Hưng Nương ở tư 
					thế ngồi toạ thiền trong cỗ khám được trang trí hết sức tinh 
					tế. Nh́n chung tượng chùa Báo Ân không lớn nhưng rất đẹp về 
					tạo dáng và thành công về mỹ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian, 
					về đặc tả theo tích chuyện của từng nhân vật trong hệ thống 
					tượng chùa thế kỷ XVIII.
 Đặc biệt chùa Báo Ân có một bia đá “Báo Ân thiền tự bi kư” (bài 
					kư bia chùa Báo Ân). Bia khắc tháng 12 năm Trị B́nh Long ứng 
					thứ 5 (1209). Đây là tấm bia thời Lư c̣n lại duy nhất ở tỉnh 
					Vĩnh Phúc. Bia cao 1m40, rộng 0m85, dày 0m14, đặt trên lưng 
					rùa đá mai trơn, đầu tḥ dài, chân 4 móng choăi vẻ nặng nhọc. 
					Bia khắc cả 2 mặt với 1498 chữ Hán, nét chữ sắc sảo theo lối 
					chữ trân thời Lư rất đẹp. Nội dung bài kư do Nguỵ Tư Hiền 
					soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích. Bài kư đă 
					miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy 
					hoàng và công đức bố thí làm chùa của Thái Tử con trưởng vua 
					Lư Cao Tông và vơ tướng Nguyễn Công trong cuộc trùng tu sửa 
					chữa chùa năm đó. Cuối bài kư là một bài minh viết theo lối 
					kệ nhà phật, mô tả cảnh đẹp của chùa sau khi tu sửa và công 
					đức của những người theo phật pháp ở đây. Nội dung tấm bia 
					này đă được hai tác giả Ngô Thế Long - Băng Thanh đọc, dịch 
					và giới thiệu trong tuyển tập thơ văn Lư - Trần.
 Với giá trị về mỹ thuật trang trí điêu khắc trên đá thế kỷ 
					XII và nội dung văn tự chữ Hán như kể trên, bia đá chùa Báo 
					Ân là một báu vật quư hiếm trong kho tàng di sản văn hoá của 
					dân tộc ta nói chung và của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
 
 
 --------------------------------------------------------------------------------
 
 TAM ĐẢO VĨNH PHÚC:
 Ai cũng biết
 .bmp) Tam 
					Đảo là một danh từ địa lư nhưng dùng để chỉ một vùng đất có 
					biển bao bọc bốn bề. Nhưng đây là vùng núi, tại sao lại mang 
					tên đảo? V́ ba ngọn núi này ở độ cao trên ngh́n mét so với 
					mặt biển, luôn có mây trắng bao quanh, đứng ở xa ngước trông 
					nó giống như ba ḥn đảo nhô lên mặt sóng nước muôn trùng. Do 
					đó, người ta đặt cho ba ngọn núi là “Tam Đảo”. Tam Đảo cùng với Sapa, Đà Lạt là ba vùng núi có khí hậu ôn 
					đới dùng làm nơi nghỉ mát rất tốt. Khi mặt trời mùa hạ trút 
					ánh nắng chói chang nóng như thiêu như đốt trên vùng đồng 
					bắng, th́ ở đây nhiệt kế không nhích lên quá hai mươi bảy độ. 
					Ở Tam Bảo một ngày chia làm bốn mùa: buổi sáng trời dịu mát 
					như đầu xuân, trưa nắng ấm có thể tắm nước suối, chiều se 
					lạnh giống thời tiết mùa thu, tối đến hơi rét như đầu đông, 
					ngủ phải đắp chăn dạ.
 Tam Đảo không đẹp nổi tiếng bằng Đà Lạt, Sa Pa. Nhưng nó 
					được người Hà Nội ưa chuộng v́ ở cách Hà Nội không xa 87km 
					cũng như Vũng Tàu đối với người Sài G̣n vậy. Dăy núi Tam Đảo, 
					thuộc miền trung du tỉnh Vĩnh Phú, dài khoảng 50km, vươn lên 
					hướng bắc với độ cao trung b́nh khoảng trên một ngh́n mét, 
					tiếp giáp với núi rừng Việt Bắc. Bộ phận phía nam dài khoảng 
					10km, thấp dần xuống, rồi lặn vào đồng bằng hai huyện Kim 
					Anh, Đa Phúc.
 Vùng núi Tam Đảo có nhiều cảnh đẹp đáng đề vịnh ngâm thơ như 
					vậy, nhưng trước kia, khi nước ta c̣n bị thực dân Pháp cai 
					trị, người dân ở đây không dám bén mảng đến. Từ đầu thế kỷ 
					hai mươi 1901, thực dân Pháp đă đuổi dân làng vùng này, xây 
					nên một khu cấm địa để dành riêng cho chúng đến ăn chơi 
					dưỡng sức. Những cái tên khu toàn quyền, khu Bảo Đại… ngày 
					xưa c̣n nhắc đến thời kỳ vàng son của bọn tây cai trị và bọn 
					vua quan phong kiến tay sai đă sụp đổ. Chúng đă đày tù chính 
					trị và bắt phu lên phá rừng mở đường, bạt núi. Xây xong khu 
					nghỉ mát này, hàng ngàn người đă ngă xuống v́ bệnh tật, v́ 
					đ̣n roi. Chúng đem vùi xác chết trên sườn đồi thành nghĩa 
					địa.
 Từ sau ngày miền bắc giải phóng, Tam Đảo được mở rộng. Những 
					ngôi nhà sàn xây dựng theo phong cách dân tộc mọc lên san 
					sát bên sườn đồi, tiếp đón cán bộ và nhân dân lao động khi 
					ngày hè đến. Vào một ngày tốt trời, mời bạn leo lên thăm ba 
					ngọn núi mang tên là “đảo” này. Đó là ngọn Phú Nghĩa, Thạch 
					Bàn, Thiên Thị, kể theo thứ tự từ hướng bắc xuống hướng nam.
 Phú Nghĩa là đỉnh cao nhất, khoảng 1.500m. Ở đây có hai ngọn 
					núi gọi là Hồi Hương và Quế Phụ, v́ trên hai ngọn núi này 
					mọc nhiều cây hồi và cây quế. Đến mùa hồi ra hoa toả hương 
					thơm ngát. Trong rừng ríu rít những đàn chim lông cánh có 
					nhiều màu sắc rất đẹp. Dưới chân núi có ḍng suối tuôn nước 
					vàng hoe, v́ vậy mà nó được đặt tên Suối Vàng, c̣n có tên 
					chữ Kim Tuyền. Đứng ở đây, những ngày trời quang mây tạnh, 
					nh́n về miền ngược, núi rừng Việt Bắc hiện lên một màu xanh 
					nhấp nhô trùng điệp. Nh́n sang phía Hà Tây, ngọn Tản Viên 
					của dăy núi Ba V́ vươn cao sừng sững. Nh́n về xuôi, ruộng 
					đồng bát ngát, sông ng̣i uốn khúc lượn quanh. Khi trời nhiều 
					mây, nh́n về từ hướng một màu trắng đục sương mù bao phủa. 
					Lúc ấy ta có cảm giác như đang đứng trên một ḥn đảo giữa 
					đại dương, chỉ c̣n thấy đỉnh Tản Viên nổi lên bồng bềnh như 
					một ḥn đảo cách xa.
 Cảnh đẹp thiên nhiên của Tam Đảo nay được bàn tay lao động 
					tô điểm thêm lộng lẫy. Tam Đảo là một vườn rau tươi tốt bốn 
					mùa. Ở đây có vườn cây thuốc trồng đủ loại, hương bay ngào 
					ngạt. Những đồi chè, những cánh đồng bông, thuốc lá của nông 
					trường Tam Đảo ngày càng mở rộng diện tích đóng góp tài 
					nguyên làm giàu cho đất nước.
 Núi được gọi là Tam Đảo v́ ở khoảng giữa dăy có 3 ngọn núi 
					cao vút: Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị tính từ Tây Bắc 
					xuống Đông Nam, tựa như 3 ḥn đảo nổi bồng bềnh giữa biển 
					mây bao phủ.
 Truyền thuyết:
 Chuyện kể rằng trên núi Tam Đảo có một người con gái khoẻ 
					mạnh, tóc nàng dài mượt như ḍng suối e ấp, môi nàng hồng đỏ 
					như hồ xanh, da nàng trắng như mây trời Tam Đảo. Nàng che 
					thân bằng vỏ cây, làm lều ở trên cây, đi lại truyền nhảy 
					nhanh như con sóc, nhẹ như vượn, nhặt đá ném thú rừng và 
					chim muông sống.
 Giặc Ân sang cướp nước ta, thế giặc rất mạnh. Vua Hùng cho 
					sứ đi các trang động trong nước cầu người ra dẹp giặc. Người 
					con gái xuống núi về chầu vua, xin được đi đánh giặc. Ra 
					trận chỉ lấy đá mà ném, giết được nhiều giặc, đánh với giặc 
					nhiều trận ở ngay cửa ngừ thành Phong Châu, ngă ba Bạch Hạc 
					(nay thuộc là địa phận huyện Vĩnh Tường).
 Vua Hùng thứ 6 đă già, muốn thử tài trong số các con để 
					truyền ngôi. Lang Liêu dâng bánh trưng, bánh dầy tượng trưng 
					của trời đất, cho vua Hùng và được nối ngôi vua. Đến ngày 
					lập hoàng hậu chàng bỗng thấy nhớ da diết người con gái xinh 
					đẹp đó cùng ḿnh đánh giặc Ân thuở nào. Nhà vua trẻ trở lên 
					vùng núi Tam Đảo mong gặp lại bóng hồng. Ngày lại ngày trôi 
					qua nàng vẫn đâu đó xa ngút giữa núi rừng trùng điệp. Nhà 
					vua buồn bă chuẩn bị ra về th́ đêm đó, mơ thấy thần hiện về 
					báo mộng: "Ngày mai nhà vua sẽ được gặp người đẹp". Sáng hôm 
					sau, từ sương mờ Tam Đảo, trên con đường nhỏ, nàng tiên Tam 
					Đảo đang đi đến. Nhà vua mừng rỡ chạy ra gặp mặt. Nàng vẫn 
					đẹp như ngày hai người gặp nhau. Tóc nàng vẫn dài mượt như 
					ḍng suối e ấp, môi nàng vẫn hồng đỏ như hoa núi, mắt nàng 
					vẫn trong veo như nước hồ xanh và da nàng vẫn trắng như mây 
					trời Tam Đảo. Nhà vua đón nàng về cung làm lễ cưới nàng được 
					tôn là bà chúa Thượng Ngàn của núi rừng Tam Đảo và được lập 
					đền thờ ngay sát chân ngọn Thiên Nhị, trên đường lên tháp 
					truyền h́nh.
 
 
 --------------------------------------------------------------------------------
 
 CHÙA CHI ĐÔNG VĨNH PHÚC:
 Chùa có tên chữ là Phúc Long tự (chùa Phúc Long), thuộc 
					thôn Chi Đông, xă Quang Minh, huyện Mê Linh. Năm 1993, chùa 
					cùng với đền Chi Đông (được xây dựng liền kề chùa) đă được 
					Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là cụm di tích Lịch sử - Văn 
					hóa cấp Quốc gia. Chùa có giá trị tiêu biểu về kiến trúc 
					cũng như nghệ thuật điêu khắc gỗ, tạc tượng và c̣n lưu giữ 
					được nhiều loại di vật, cổ vật quư từ thời Lê, Nguyễn.
 Chùa được làm vào thời Hậu Lê, niên hiệu Chính Ḥa thứ 14 
					(1693), gồm tam quan 2 tầng 8 mái, chùa chính, nhà tổ và 
					hành lang tả, hữu. Tuy nhiên, như hầu hết các di tích khác 
					trong vùng đă bị thời gian với những biến cố lịch sử và 
					thiên nhiên làm thay đổi, hiện chùa Chi Đông c̣n chùa chính 
					và nhà Tổ, khá bề thế, đồ sộ. Chùa chính gồm ṭa tiền đường 
					9 gian nối với thượng điện 5 gian theo kiểu chữ “đinh”. Toàn 
					bộ mái chùa được làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái, 
					riêng mái hai gian đầu hồi được làm nhô ra và cao hơn mái 
					tiền đường một chút để tạo nên lầu chuông và gác trống. Nhà 
					Tổ ở phía bên trái chùa gồm 2 toà 7 gian tạo thành 
					h́nh”chuôi vồ”, kiến trúc theo kiểu “chồng bồn kẻ truyền”, 
					cột xà chắc khỏe. Nh́n chung, các cấu kiện kiến trúc bằng gỗ 
					ở chùa đều là các loại gỗ tốt, được gia công với kỹ thuật 
					mộng sàm chuẩn mực, tương đối bền vững.
 Chùa Chi Đông có nhiều bức chạm khắc với h́nh thức và nội 
					dung phong phú. ở tất cả các kẻ phía trước chùa và các dép 
					hoành kê đệm đ̣n tay đều trang trí các h́nh hoa lá, vân xoắn, 
					chữ triện hay phượng, ly, long mă. Riêng các bức cốn, đă 
					được những nghệ nhân dân gian tài hoa tạo thành các tác phẩm 
					nghệ thuật với tŕnh độ điêu luyện, hết sức tinh xảo như cốn 
					nách ở ṭa tiền đường, các bức cốn ở hai bên tả hữu của 
					thượng điện chạm các đề tài long - ly quy phượng, mai điểu, 
					tùng lộc...rất sinh động. Đó là những bức cốn đẹp, đạt tŕnh 
					độ thẩm mỹ cao của nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian.
 Có thể nói nghệ thuật điêu khắc ở chùa Chi Đông rất tinh tế. 
					Các bức chạm có bố cục nội dung phong phú mà chặt chẽ, kỹ 
					thuật được sử dụng ở đây là chạm nổi, đục thủng, chạm lộng, 
					bong kênh với những đường nét chạm khắc tỉ mỉ, sắc gọn. Với 
					nội dung đề tài tả về các con vật vũ trụ quen thuộc như tứ 
					linh, hay các loài thủy tộc và muông thú khác, cùng với cỏ 
					cây hoa lá ḥa với thiên nhiên, thể hiện những ước vọng 
					thanh b́nh, dung dị của cuộc sống của con người đương thời.
 Cùng với kiến trúc đồ sộ và nghệ thuật điêu khắc tuyệt mỹ, 
					chùa Chi Đông c̣n có một hệ thống tượng đẹp, gồm 13 pho, 
					được làm bằng gỗ và đất luyện. ở tiền đường có 4 pho, theo 
					thứ tự từ trái sang phải là: tượng Đức Ông, cặp tượng Hộ 
					Pháp(Khuyến Thiện Trừng ác), tượng Thánh Tăng. ở thượng điện 
					có 6 tượng được bày theo từng cấp, gồm Di đà Tam tôn, Quan 
					Âm Nam Hải, Ngọc Hoàng và Thích Ca cửu long. Mỗi pho tượng 
					là một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo với những đường nét chau 
					chuốt kỹ lưỡng đến từng chi tiết, từng hoa văn trang trí kết 
					hợp với kỹ thuật sơn thếp lành nghề.
 Giá trị kiến trúc và nghệ thuật tạc tượng cùng với các đề 
					tài trang trí mỹ thuật chạm khắc gỗ dân gian đă làm nên giá 
					trị văn hoá tiêu biểu của chùa Chi Đông. Một trong những di 
					tích quư của tỉnh.
 
 
 --------------------------------------------------------------------------------
 
 CHÙA ĐỘNG LÂM VĨNH PHÚC:
 
 .bmp) Chùa 
					Động Lâm c̣n gọi là chùa Hạ, thuộc xă Hợp Thịnh, huyện Tam 
					Dương, cách thành phố Vĩnh Yên (tỉnh lỵ Vĩnh Phúc) 4km về 
					phía Tây Bắc theo đường quốc lộ số 2. Chùa Động Lâm được tạo 
					dựng không chỉ là nơi tu hành của các tín đồ Phật giáo mà 
					một thời c̣n là trung tâm sinh hoạt làng xă trong hoàn cảnh 
					đất vua, chùa làng thời phong kiến. Đây là ngôi chùa tiêu 
					biểu cho tín ngưỡng tôn giáo kết hợp với tín ngưỡng bản địa 
					và triết lư Phương Đông. Chùa được xây dựng ở giữa khu dân cư trù phú, phía trước có 
					hồ nước rộng. Tam quan chùa có gác chuông, ở đây lưu giữ một 
					quả chuông lớn Động Lâm tự chung đúc năm Minh Mệnh thứ 5 
					(1824) ghi tên những người công đức tu sửa chùa. Sân chùa có 
					một bia đá tạo thời Lê Trung Hưng niên hiệu Đức Long (1629), 
					diềm bia chạm khắc những h́nh hoa văn mang đặc trưng của 
					nghệ thuật thế kỷ XVII. Điều đó có thể cho phép chúng ta 
					đoán định rằng chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII, đă 
					trùng tu lớn vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX) và hiện nay gồm 2 
					ṭa: Bái đường và thượng điện, bố cục kiến trúc theo kiểu 
					chữ “đinh”.
 Giá trị tiêu biểu ở chùa Động Lâm là nghệ thuật tạc tượng 
					tṛn của các nghệ nhân dân gian từ những thế kỷ trước. Hệ 
					thống tượng đẹp và khá phong phú bao gồm cả tượng Phật, 
					tượng Thần. Toàn bộ hệ thống tượng được sơn son thếp vàng, 
					màu sắc hài ḥa, được bài trí trong thượng điện theo thứ tự 
					từng lớp từ cao xuống thấp, ở giữa sang hai bên tả hữu, gồm 
					các tượng: Tam thế, Di Đà tam tôn, Tuyết Sơn, Ngọc Hoàng, 
					Thích Ca Cửu Long, Quan Âm Thiên thủ Thiên nhăn (hay Quan Âm 
					Nam Hải), Quan Âm Tọa Sơn, Tứ Bồ Tát, Thập Điện Diêm Vương, 
					Thánh Tăng, Đức Ông...Tiêu biểu nhất là bức tượng Quan âm 
					Thiên thủ Thiên nhăn được tạc bằng gỗ, cao 2,7m, hiện đang 
					được trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (pho Quan Âm Nam 
					Hải hiện ở chùa là bản sao). Đây là bức tượng lớn nhất và có 
					niên đại sớm nhất của chùa. Tượng được tạc rất đẹp, ngồi 
					thiền trên ṭa sen, đội ṭa sen là đầu người có khuôn mặt 
					h́nh thủy quái, tất cả được đặt trên đế h́nh lục lăng chia 
					làm 3 tầng trang trí tỉ mỉ, chau chuốt. Toàn bộ phần tượng 
					và đế là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ tài t́nh, hài 
					ḥa cả về nội dung và h́nh thức, với tŕnh độ kỹ thuật tinh 
					xảo, hoàn mỹ, mang sinh khí của nghệ thuật phật giáo thế kỷ 
					XVII.
 Bên cạnh đó, ở chùa Động Lâm, h́nh tượng Quan Âm Tọa Sơn 
					bồng một đứa bé (v́ thế c̣n gọi là Quan Âm Tống Tử) với Kim 
					Đồng và Ngọc nữ ở hai bên đă được dân gian hóa thành h́nh 
					ảnh Quan Âm Thị Kính hay c̣n có tên gọi khác là Mụ Thiện, 
					tượng này mang phong cách thời Lê xuất hiện từ khoảng thế kỷ 
					XVII. Cũng khoảng thời gian này, chùa Động Lâm có các tượng 
					tứ Bồ Tát (ái, Ngữ, Sách và Quyền Bồ Tát), tượng đứng trên 
					ṭa sen, đầu đội mũ thất phật, tay thon dài, chắp trước ngực, 
					cũng được xem là 4 tác phẩm rất có giá trị từ thời Lê.
 
 
 --------------------------------------------------------------------------------
 
 CHÙA HOA DƯƠNG VĨNH PHÚC:
 
  Là 
					ngôi chùa của tổng Tuân Lộ xưa nên c̣n gọi là chùa Tuân Lộ, 
					nay thuộc thôn Thượng, xă Tuân Chính, cách huyện lỵ huyện 
					Vĩnh Tường khoảng 2km về phía Tây. Chùa Hoa Dương được xây dựng thời Hậu Lê, năm 1680, c̣n lại 
					cho đến ngày nay là một di tích có kiến trúc khá đồ sộ, nguy 
					nga, mặt bằng h́nh chữ “công” gồm 3 toà chính: Tiền đường (7 
					gian), thượng điện (4 gian) và nhà tổ (5 gian), tổng diện 
					tích 262m2 cùng 2 nhà hành lang gồm 20 gian với diện tích 
					196m2, phía trước sân c̣n cây Bồ Đề cổ thụ trăm năm tuổi và 
					các loài cây: Đại, Ngâu, Lan, Sấutạo nên không khí thâm 
					nghiêm, u tịch nơi cửa thiền.
 Về kiến trúc: Kết cấu bộ v́ theo kiểu thức “chồng rường giá 
					chiêng”, hệ thống cột chịu lực đều bằng gỗ lim to, chu vi 
					cột 1,5m và đều được kê trên chân đá tảng vuông, to mỗi 
					chiều 75cm để chống mối và chống ẩm.
 Về mỹ thuật: Giá trị nổi bật của chùa Hoa Dương là nghệ 
					thuật điêu khắc, được biểu hiện ở hệ thống tượng tṛn và các 
					tác phẩm điêu khắc gỗ (y môn, tranh kệ, hoành phi, câu đối). 
					Đó là các lớp tượng cơ bản, đại diện chung cho hệ thống 
					tượng được bài trí trong một ngôi chùa thờ phật theo phái 
					Đại thừa ở miền Bắc Việt Nam, gồm các lớp: Bộ tượng Tam thế 
					phật, Di Đà tam tôn phật, Thích ca cửu long, tứ Bồ tát, tứ 
					Thiên vương, tượng Đức ông, Thánh hiền, Hộ pháp phật và 
					tượng phật Tổ. Tất cả các pho tượng phật đều được tạo từ gỗ 
					mít già, nguyên lơi, kỹ thuật công phu, tỉ mỉ, nghệ thuật 
					sáng tạo, điêu luyện, thể hiện khả năng tư duy thẩm mỹ nghệ 
					thuật cao và hoà nhuyễn trong nhận thức giá trị tuyệt đối 
					“không” của phật pháp. Giá trị chân, thiện, mỹ của đạo phật 
					bắt nguồn từ những chân lư giản đơn của cuộc sống thường 
					nhật qua hàng ngh́n năm tu luyện, bồi dưỡng, lưu truyền đă 
					trở thành một bộ phận cơ bản của tâm hồn Việt Nam, tâm hồn 
					nghệ sỹ khi thổi hồn cho các pho tượng hoặc từ gỗ, đá, hay 
					đất mà trở nên lung linh, huyền ảo nhưng rất thực trước mỗi 
					người khi bước chân vào chùa chiêm bái phật.
 Các tác phẩm điêu khắc gỗ có: 8 bức y môn (biển hoành) đều 
					chung kích thước (dài 3,0m rộng 0,6m) được chạm nổi, sơn son 
					thếp vàng các đề tài thiên nhiên: Hoa lá, vân mây, cổ thụ, 
					chim muông vô cùng gần gũi, tự nhiên và sống động, chính 
					giữa đục các “đại tự” mang ư nghĩa tụng ca, răn dạy, đan xen 
					giữa phật pháp và triết lư Nho học. 8 bức “tranh Kệ” khắc 
					các bài kệ bằng chữ Hán với nội dung về phong cảnh thiên 
					nhiên và những đề tài liên quan đến việc hoằng dương phật 
					pháp, là những thi ca tuyệt hảo lồng trong tác phẩm điêu 
					khắc tài ba, trên nền của kỹ thuật chạm khắc, trang trí 
					phóng khoáng, bố cục hài hoà, sơn thếp đẹp, xứng đáng là di 
					sản cho muôn đời hậu thế chiêm ngưỡng và ngẫm suy. 8 bộ 
					hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, câu chữ chuẩn chỉnh, 
					ngay ngắn, ư tứ sâu xa, ngữ nghĩa bao trùm, chân tâm, chân 
					thiện. Cùng với các di vật cổ: Chuông đồng, cây hương, bia 
					đá,.đồng thời là những tư liệu văn tự cổ trên đá lưu măi để 
					muôn đời hậu thế, thập phương du khách, tăng ni phật tử t́m 
					cơ hội đến chiêm bái nơi cảnh thiền ẩn lặng dấu quê.
 
 
 --------------------------------------------------------------------------------
 
 DANH THẮNG TÂY THIÊN VĨNH 
					PHÚC:
 
  Nằm 
					trên sườn ngọn núi Thạch Bàn thuộc địa phận xă Đại Đ́nh, 
					huyện Tam Đảo. Miền đất Phật Tây Thiên có phong cảnh hữu t́nh với Thiền 
					Viện Trúc Lâm, những mái đ́nh cổ xưa, suối Vàng, Thác Bạc, 
					khe Trường Sinh, suối Giải Oan, cây đa 9 cội...
 Theo Ngọc phả và kết quả nghiên cứu mới nhất, Tây Thiên là 
					nơi thờ nữ chúa Tam Đảo: bà Lăng Thị Tiêu. Sau khi giúp Nhà 
					nước Văn Lang đánh giặc ở thành Phong Châu, bà đó kết duyên 
					cùng Lang Liêu (vua Hùng thứ 6). Bởi vậy sắc phong các triều 
					đại phong kiến tôn bà là “Quốc Mẫu Tây Thiên”. Huyền thoại 
					kể rằng bà vốn là một trong bảy nàng tiên xuống núi để chữa 
					bệnh cho dân, trừ bạo nghịch cho nước và cứu độ chúng sinh. 
					Câu chuyện Quốc Mẫu được ghi chép trong Ngọc phả, trong các 
					văn bia hệ thống đền chùa Tây Thiên, là sự uy linh và vẻ đẹp 
					đức độ của bà khiến cho các bậc anh hùng hào kiệt, các thiện 
					nam, tín nữ, các trai thanh gái lịch bao đời nay đă phải 
					trèo non lội suối chống gậy Tây Thiên chiêm ngưỡng cảnh bồng 
					lai.
 |  Nguồn: saigontoserco |