|   | 
		
		Quảng Ninh 
		
		Diện tích: 6.099,0 
		km² 
		Dân số: 1.159,5 
		nghìn người (2010) 
		Tỉnh lỵ: Thành 
		phố Hạ Long. 
		Các huyện, 
		thị, thành phố: 
		
		- Thành phố: Móng Cái, Uông Bí, Cẩm 
		Phả. 
		
		
		- Thị xã: Quảng Yên. 
		- Huyện: Ba Chẽ, Bình Liêu, 
		Hải Hà, Đầm Hà, Tiên Yên, Vân Ðồn, Hoành Bồ, Ðông Triều, Cô Tô. 
		Dân tộc: Việt 
		(Kinh), Tày, Dao, Sán Chay, Sán Dìu, Hoa 
  
		
		  
		
		
		
		Điều 
		kiện 
		tự nhiên 
		
		Quảng Ninh 
		là một tỉnh ở địa đầu Ðông Bắc Việt Nam, nằm giữa các kinh độ đông 
		106º26’-108º31’3’’ và các vĩ độ bắc 20º40’-21º40’, khoảng dài nhất từ 
		đông sang tây là 195km, từ bắc xuống nam là 102km. 
		
		 
		Phía bắc giáp Quảng Tây (Trung Quốc) với đường biên giới dài 132,8km và 
		tỉnh Lạng Sơn. Phía tây giáp Bắc Giang, Hải Dương, phía nam giáp Hải 
		Phòng. Phía đông nam giáp biển Ðông với 250km bờ biển.  
		
		  
		
		Là một tỉnh 
		miền núi duyên hải, Quảng Ninh có 80% diện tích đất đai là đồi núi. Hơn 
		2.000 hòn đảo nổi trên mặt biển phần lớn đều là núi,  với 
		tổng diện tích là 620km². 
		
		 
  
		
		 
		
			
				
				  | 
				
				
				  | 
			 
			
				| 
				                                    
				Vịnh Hạ Long | 
				
				                                
				 Hang Sửng Sốt | 
			 
		 
		 
		
		  
		
		Ðịa hình 
		được chia ra thành các vùng đồi núi, vùng trung du đồng bằng và vùng 
		biển đảo. Vùng núi miền đông gồm hai dãy núi chính là Quảng Nam Châu và 
		Cao Xiêm có độ cao trên dưới 1.400m. Miền tây là những dãy núi thuộc 
		cánh cung Ðông Triều với hai đỉnh Yên Tử và Am Váp cao trên 1.000m. Vùng 
		trung du và đồng bằng ven biển: gồm những dải đồi thấp và những cánh 
		đồng ven các triền sông và bờ biển, trong đó đồng bằng Yên Hưng và Ðông 
		Triều là mầu mỡ nhất và là những vựa lúa chính của tỉnh. 
		
		  
		
		
		Khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Một 
		năm có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Ðây là vùng biển nhiệt đới gió mùa. 
		Mùa hạ nóng, ẩm, mưa 
		nhiều, gió thịnh hành là gió nam. Mùa đông lạnh, khô hanh, ít mưa, gió 
		đông bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 21ºC. Ðộ ẩm trung bình 
		hàng năm là 84%. Lượng mưa hàng năm lên đến 1.700 - 2.400mm, số ngày mưa 
		trung bình là 90-170. 
		 
 
		Tiềm 
		năng phát triển 
		du lịch 
		
		Ðịa hình đáy biển 
		Quảng Ninh không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20m, có những lạch sâu 
		là di tích các dòng chảy cổ và có những dải đá ngầm làm nơi sinh trưởng 
		các rạn san hô rất phong phú đa dạng. Ðặc biệt vùng biển Quảng Ninh có 
		Vịnh Hạ Long, di sản thiên nhiên thế giới với hàng ngàn đảo đá nguyên là 
		vùng địa hình karts bị nước bào mòn tạo nên cảnh đẹp độc đáo, kỳ vĩ độc 
		nhất vô nhị trên thế giới. Vùng ven biển và hải đảo Quảng Ninh ngoài 
		những bãi bồi phù sa còn có những bãi cát trắng, bãi biển tuyệt đẹp,như 
		Trà Cổ, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng… 
		
		  
		
		Tỉnh Quảng Ninh có 
		gần 500 di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật... gắn với nhiều lễ hội 
		truyền thống, trong đó có những di tích nổi tiếng của quốc gia như chùa 
		Yên Tử, đền Cửa Ông, di tích lịch sử Bạch Đằng, chùa Long Tiên, đình 
		Quan Lạn... đây là những điểm thu hút khách thập phương đến với các loại 
		hình du lịch văn hoá, tôn giáo, nhất là vào những dịp lễ hội. 
		
		 
  
		
		 
		
			
				
				
				  | 
				
				
				  | 
			 
			
				| 
				                                    
				 Lễ hội Yên Tử | 
				
				            Khách du lịch nước ngoài 
				ở Bến tàu Hạ Long | 
			 
		 
		 
		
		
		Đến Quảng Ninh, du khách còn có cơ hội để thưởng thức các món ăn được 
		chế biến từ các loài hải sản của biển Quảng Ninh, trong đó có những đặc 
		sản giá trị như hải sâm, bào ngư, tôm, cua, sò, ngán, hầu hà, sá sùng, 
		rau câu... 
		 
 
		Dân 
		tộc, 
		tôn giáo 
		
		Về dân tộc, Quảng 
		Ninh có 21 thành phần dân tộc, song chỉ có 6 dân tộc có số dân trên một 
		nghìn người là Kinh, Dao, Tày, Sán Dìu, Sán Chỉ, Hoa, tiếp đến là hai 
		dân tộc có trên trăm người là Nùng và Mường, mười bốn dân tộc còn lại có 
		số dân dưới 100 người. Trong 
		các dân tộc đông người, người Việt (Kinh) chiếm 89% tổng số dân. Trong 
		số các dân tộc thiểu số có nguồn gốc lâu đời, người Dao có hai nhóm 
		chính là Thanh Y, Thanh Phán, thường cư trú ở vùng núi cao. Họ còn giữ 
		được bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ, y phục, lễ hội và phong tục tập 
		quán truyền thống. Người Tày, người Sán Dìu, Sán Chỉ ở vùng núi thấp và 
		chủ yếu sống bằng nông nghiệp với nghề thủ công ở các thị trấn miền đông, 
		một số khác sống ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp, đánh cá, làm nghề 
		rừng. 
		
		  
		
		Cũng 
		như các địa phương khác, cư dân sống ở Quảng Ninh cũng có những tôn giáo, 
		tín ngưỡng để tôn thờ là Phật giáo, Thiên Chúa giáo, thờ cúng tổ tiên và 
		một vài tín ngưỡng dân gian khác. Ðạo Phật du nhập vào Quảng Ninh từ rất 
		sớm, từ hàng ngàn năm trước đây và phần lớn dân chúng ở Quảng Ninh hiện 
		nay theo đạo Phật. Thế kỷ 14, khu Yên Tử và Quỳnh Lâm (Ðông Triều) là 
		trung tâm Phật giáo của Việt Nam. Nhiều thế kỷ sau đó đạo Phật tiếp tục 
		được duy trì với hàng trăm ngôi chùa ở Quảng Ninh, trong đó có những 
		ngôi chùa nổi tiếng như chùa Lôi Âm (Hoành Bồ), Linh Khánh (Trà Cổ), Hồ 
		Thiên (Ðông Triều), Linh Quang (Quan Lạn)… Trải qua nhiều biến cố của 
		lịch sử, sự tàn phá của thiên nhiên và cả của con người, hiện nay ở 
		Quảng Ninh chỉ còn lại trên 30 ngôi chùa nằm rải rác ở 8 huyện thị, 
		thành phố. 
		
		 
  
		
		
		 Ðạo 
		Thiên Chúa vào Quảng Ninh từ cuối thế kỷ 17, hiện nay có 27 nhà thờ của 
		9 sứ gồm 41 họ đạo nằm ở 8 huyện và thị xã của tỉnh. Ðạo 
		Cao Ðài có ở thị xã Yên Hưng và thị xã Cẩm Phả từ những năm 1940, sau 
		tàn lụi dần, hiện nay chỉ còn vài chục người theo. 
		
		 
  
		
		 
		
			
				
				  | 
				
				  | 
			 
			
				| 
				                                    
				Bãi biển Bãi Cháy | 
				
				                                  
				Chùa Long Động | 
			 
		 
		 
		
		
		Về 
		tín ngưỡng dân gian phổ biến nhất đối với cư dân sống ở Quảng Ninh là 
		thờ cúng tổ tiên, thờ các vị tướng lĩnh nhà Trần có công với nước, các 
		vị thành hoàng, các vị thần (Sơn thần, Thổ thần, Thuỷ thần) và thờ các 
		Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải). 
		 
 
		Giao 
		thông 
		
		Đường bộ: Tuyến 
		Hà Nội – Bắc Ninh – Hạ Long dài 155km, là tuyến đường bộ thuận lợi nhất 
		và ngắn nhất, không phải qua phà. 
		
		Đường không: Thứ 
		bảy hàng tuần có máy bay trực thăng xuất phát từ sân bay Gia Lâm (Hà Nội) 
		đến thẳng vịnh Hạ Long. 
		
		Đường thủy: Hàng 
		ngày có 4 chuyến tàu thủy Hải Phòng - Hạ Long và ngược lại. 
		
		  
		
  
		Địa Danh Du Lịch Quảng Ninh Và Vịnh Hạ 
		Long
			- 
			
			Bạch Đằng Giang, 
 
			- Bái 
			Tử Long,  
 
			- 
			Cảng Cái Lân,
 
			- Cô Tô,
			
 
			- 
			
			Làng Gốm Đông Triều, 
 
			- 
			
			Khu Du Lịch Bãi Cháy, 
 
			- 
			
			Khu Di Tích Yên Tử, 
 
			- Vân Đồn,
			
 
			- Hang 
			Luồn, 
 
			- Hang 
			Trống, 
 
			- 
			Hang Trinh Nữ, 
 
			- Núi 
			Bài Thơ, 
 
			- 
			
			Động Thiên Cung, 
 
			- 
			
			Làng Chài Cửa Vạn, 
 
			- 
			Chợ Mống Cái, 
 
			- 
			
			Đền Và Lăng Mộ Nhà Trần, 
 
			- 
			Đảo Tuần Châu, 
 
			- Đảo 
			Ti Tốp, 
 
			- 
			
			Vịnh Hạ Long và Lịch Sử, 
 
			- 
			Vịnh Hạ Long, 
 
			- 
			
			Trà Cổ Quảng Ninh, 
 
		 
		  
		Thành phố Hạ Long 
		
		
		Diện tích: 105 
		km² 
		Dân số: : 438.796 
		người (năm 2008) 
		Dân tộc: : Kinh 
		Đơn vị hành chính: 
		- Phường: : Hồng Hải, 
		Cao Thắng, Cao Xanh, Bãi Cháy, Hồng Hà, Bạch Đằng, Giếng Đáy, Hà Tu, 
		Trần Hưng Đạo. 
		- Xã: : Việt Hưng, Hà Khẩu, 
		Hà Lầm, Hà Phong, Yết Kiêu, Đại Yên, Hồng Gai, Hà Trung, Hà Khánh, Hùng 
		Thắng, Tuần Châu.  
		
 
Thành phố Hạ Long là trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của tỉnh Quảng Ninh. 
Thành phố trước đây là thị xã Hòn Gai. Phía đông Hạ Long giáp thị xã Cẩm Phả, 
tây giáp huyện Yên Hưng, bắc giáp huyện Hoành Bồ, nam là vịnh Hạ Long với bờ 
biển dài trên 20 km. 
 
Thành phố Hạ Long nằm hai bên Cửa Lục, phía đông Hạ Long là khu vực phát triển 
công nghiệp và tập trung hầu hết các cơ quan quản lý của tỉnh. Khu vực phía tây 
thành phố Hạ Long (Bãi Cháy) là khu du lịch hoạt động sôi động. 
  
	
		
		
		  | 
		
		
		  | 
	 
	
		| 
		                               Thành phố Hạ 
		Long | 
		
		                                   Vịnh Hạ 
		Long | 
	 
 
 
Dân cư sống ở thành phố Hạ Long chủ yếu là dân tộc Việt (Kinh), hầu hết là người 
từ các vùng khác đến lập cư ở đây. 
 
Vịnh Hạ Long nổi tiếng ở trong và ngoài nước và được công nhận là Di sản Thiên 
nhiên Thế giới với hàng nghìn hòn đảo được làm nên bởi tạo hoá kỳ vĩ và sống 
động. Hạ Long còn có những đền, miếu, di tích lịch sử văn hoá (núi Bài Thơ, đền 
Đức Ông, chùa Long Tiên...) làm cho phong cảnh hữu tình, nên thơ bởi cảnh quan 
thiên nhiên lại càng thêm hấp dẫn bởi bàn tay con người. 
 
Kinh kế của thành phố ngoài hoạt động du lịch là sôi động nhất, còn có các hoạt 
động kinh tế khác như: thương mại, cảng biển, công nghiệp than, khai thác và chế 
biến hải sản, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất bia 
   
		Vân Đồn
		
		Diện tích: 551,3 
		km2  
		Dân số (2001) 39.210 
		người 
		Ðơn vị hành chính: 
		- Thị trấn: Cái Rồng  
		- Xã: Ðài Xuyên, Bình Dân, 
		Ðoàn Kết, Vạn Yên, Hạ Long, Ðông Xá, Minh Châu, Quan Lạn, Bản Sen, Ngọc 
		Vừng, Thắng Lợi 
		Dân tộcViệt (Kinh), Sán Chỉ, Dao, Tày, Hoa. 
		 
		
		Vân Ðồn là một huyện đảo, huyện lỵ cách thành phố Hạ Long khoảng 50km. 
		Vân Ðồn gồm hai khu đảo chính là Kế Bào và Vân Hải, với hàng trăm đảo đá 
		nhấp nhô ven bờ vịnh Bái Tử Long xinh đẹp. Mặc dù huyện Vân Ðồn mới được 
		thành lập những lịch sử vùng đất này đã có từ rất lâu đời. Thương cảng 
		Vân Ðồn có từ thời Lý. Biển Vân Ðồn đã từng ghi dấu ấn chiến công chống 
		giặc ngoại xâm của Trần Khánh Dư (võ tướng đời Nhà Trần). 
		
		 
		Sống trên huyện đảo là những người thuộc các dân tộc Việt (Kinh), Sán 
		Chỉ, Dao, Tày, Hoa... Kinh tế của Vân Ðồn theo mô hình ngư - nông - lâm 
		nghiệp. Ðánh bắt hải sản đồng thời với nuôi trồng thuỷ sản đang ngày 
		càng được nhân rộng và phát triển về quy mô. Trong thời gian tới, du 
		lịch dịch vụ sẽ được phát triển ở huyện đảo này. Cảnh sắc thiên nhiên 
		của Vân Ðồn rất hùng vĩ, như một chiến luỹ chắn biển Ðông. Biển Vân Ðồn 
		tiềm ẩn nhiều hải sản quý; nhiều bãi tắm đẹp trên các đảo Quan Lạn,  
		Ngọc Vừng; nhiều hang động kỳ ảo từng quyến rũ bao du khách trong và 
		ngoài nước. 
		 
		
		Cơ sở hạ tầng của Vân Ðồn đã và đang được đầu tư nâng cấp. Hệ thống 
		khách sạn, nhà nghỉ, hệ thống bưu điện, thương mại dịch vụ... thay đổi 
		hàng ngày, hàng giờ nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế và cuộc sống. 
		
			
				
				
				  | 
			 
			
				| 
				                                    
				Khu kinh tế Vân Đồn | 
			 
			
				
				
				  | 
			 
			
				| 
				                                  
				Thương cảng Vân Đồn | 
			 
		 
		 
 Thành phố Cẩm Phả 
		
  
		
		
		Diện tích: 335,8 
		km2  
		
		Dân số (2001): 153.955 
		người 
		
		Đơn vị hành chính: Thành 
		phố Cẩm Phả có 16 phường, xã.  
		
		
		- Phường: 
		Mông Dương, Cửa Ông, Cẩm Thịnh, Cẩm Phú, Cẩm Sơn, Cẩm Đông, Cẩm Tây, Cẩm 
		Thành, Cẩm Trung, Cẩm Thuỷ, Cẩm Thạch, Quang Hanh, Cẩm Bình 
		
		
		- Xã: 
		Cộng Hoà, Dương Huy, Cẩm Hải 
		
		Dân tộc: Việt, 
		Tày, Dao, Sán Dìu, Sán Chỉ, Hoa  
		
		
		Thành phố Cẩm 
		Phả nằm ở phía đông thành phố Hạ Long. Phía bắc giáp huyện Ba Chẽ, phía 
		đông giáp huyện Tiên Yên và huyện đảo Vân Đồn, phía nam giáp vịnh Bái Tử 
		Long. 
		 
		
		Dân cư sống ở Cẩm Phả thuộc nhiều dân tộc khác nhau như Việt, Tày, Dao, 
		Sán Dìu, Sán Chỉ, Hoa. Đa phần nhân dân trong thị xã theo đạo Phật, có 
		một số ít người theo đạo Ky Tô, đạo Cao Đài. Cẩm Phả có một số di tích 
		và thắng cảnh rất nổi tiếng như đền Cửa Ông, đảo Rều (đảo Khỉ), đảo Thẻ 
		Vàng, Hòn Hai, di tích Vũng Đục, động Hang Hanh... 
  
		
		Đặc 
		điểm kinh tế của Cẩm Phả là một thành 
		phố công 
		nghiệp. Công nghiệp khai thác than chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh 
		tế. Ngoài ra còn có công nghiệp khai thác nước khoáng, khai thác đá, sản 
		xuất vôi, công nghiệp cảng biển... Bên cạnh đó còn có hoạt động sản xuất 
		nông - lâm - ngư nghiệp. 
		
			
				
				
				  | 
			 
			
				| 
				                                    
				Đền Cửa Ông | 
			 
		 
		  
		Thành phố Uông Bí 
		
		
		
		
		Diện tích: 
		240,4 km2 
		
		
		Dân số (2001): 
		93.302 người 
		
		Đơn vị hành chính:  
		
		
		
		- Phường: 
		Vàng Danh, Bắc Sơn, Trưng Vương, Quang Trung, Thanh Sơn, Nam Khê, Yên 
		Thanh 
		
		- Xã: 
		Thượng Yên Công, Phương Đông, Phương Nam 
		
		Dân tộc: 
		Việt (Kinh): 90%, 10%: Tày, Hoa, Sán Dìu, Nùng, Sán Chay, Dao Thanh Y  
  
		
Thành phố Uông 
Bí nằm ở miền tây của tỉnh Quảng Ninh, trên quốc lộ 18A. Phía đông giáp huyện 
Yên Hưng, phía đông bắc giáp huyện Hoành Bồ, phía tây giáp huyện Đông Triều, 
phía bắc giáp huyện Sơn Động (Bắc Giang), phía nam giáp huyện Thuỷ Nguyên (Hải 
Phòng). Địa hình Uông Bí hai phần ba là đồi núi.  
 
Uông Bí có khu 
thắng cảnh nổi tiếng Yên Tử, đây là nơi ra đời dòng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, có 
nhiều chùa và di tích văn hoá quý. Ngoài ra, lễ hội mùa xuân hàng năm ở vùng đất 
nổi tiếng này là điểm thu hút khách trẩy hội, vãn cảnh chùa đông không kém hội 
chùa Hương. Trên địa bàn thị xã Uông Bí còn có hồ Yên Trung (nằm gần Yên Tử) với 
rất nhiều tiềm năng phát triển du lịch trong quần thể của khu di tích - danh 
thắng Yên Tử.Kinh 
tế của Uông Bí theo mô hình công - nông - lâm nghiệp, dịch vụ khai thác than và 
một số ngành tiểu thủ công nghiệp. Về công nghiệp, có nhà máy nhiệt điện công 
xuất trên 150.000 KW/ h. Khai thác than ở mỏ Vàng Danh đạt sản lượng 30 đến 45 
vạn tấn/ năm. Sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là cây lương thực. Sản phẩm lâm 
nghiệp có nhựa thông. 
	
		
		
		  | 
		
		
		  | 
	 
	
		| 
		 Ga cáp treo Yên Tử  | 
		
		                        Thiền viện Trúc Lâm 
		Yên Tử | 
	 
 
  
		 
		Bình Liêu
  
		
		
		Diện tích: 
		471,4  km2.  
		
		Dân số (2001): 
		26.195 người 
		 
		
		
		Đơn vị hành chính:  
		
		
		- Thị trấn: Bình 
		Liêu  
		
		- Xã: Đồng 
		Văn, Hoành Mô, Đồng Tâm, Lục Hồn, Tĩnh Húc, Húc Động, Vô Ngại 
		
		Dân tộc: Tày 
		(54,8%), Dao (25,6%), Sán Chỉ (15,4%), Kinh (3,7%) và Hoa (0,36%) 
		
		Bình Liêu là một 
		huyện miền núi, nằm ở phía đông bắc tỉnh Quảng Ninh và cách thành  
		
			
				
				
				  | 
			 
			
				| 
				      Ủy Ban nhân dân Huyện Bình 
				Liêu | 
			 
		 
		phố Hạ Long khoảng 130 km. Phía bắc giáp huyện Phòng Thành và Nam Ninh (tỉnh 
		Quảng Tây-Trung Quốc) với đường biên giới dài 48 km và huyện Đình Lập (tỉnh 
		Lạng Sơn); phía nam giáp huyện Tiên Yên, Đầm Hà; phía đông giáp huyện 
		Hải Hà. 
		
		Người dân ở huyện Bình Liêu còn lưu giữ nhiều nét văn hoá của riêng mình. 
		Đặc sắc hơn là ở đây có hội An Pò của người Sán Chỉ, lễ hội tổ chức vào 
		hai ngày 15 và 16 tháng 3 (âm lịch) hàng năm. Thắng cảnh ở Bình Liêu có 
		thác Khe Vằn là một thác đẹp, chảy thành ba tầng. Núi Cao Ba Lanh nổi 
		tiếng với đá "thần", khi gõ vào một phiến đá, tạo thành âm thanh cộng 
		hưởng cùng các phiến đá khác như tiếng nói đầy huyền bí của các thần 
		linh...  
		 
		Mô hình kinh tế của 
		huyện Bình Liêu là nông - lâm nghiệp. Lương thực bình quân đầu người đạt 
		gần 4 tạ/ năm. Cây trẩu, sở, hồi, quế là bốn cây công nghiệp đang được 
		quan tâm trên địa bàn huyện. Thương mại đang được khai thác với Trung 
		Quốc qua cửa khẩu Hoành Mô. 
		  
		Thành phố Móng Cái 
		
		
		
		Diện tích: 
		515 km2 
		
		Dân số (2008): 
		108.016 người. 
		
		Đơn vị hành chính: 
		Thành phố Móng Cái gồm 17 phường, xã:  
		
		
		- Phường: Hoà 
		Lạc, Trần Phú, Ka Long, Ninh Dương, Trà Cổ, Hải Yên, Hải Hoà. 
		
		
		- Xã: Quảng 
		Nghĩa, Hải Tiến, Hải Đông, Vạn Ninh, Hải Xuân, Vĩnh Thực, Vĩnh Trung, 
		Bắc Sơn, Hải Sơn, Bình Ngọc. 
		
		Dân tộc: 
		Việt (Kinh, 90%), Dao, Hoa và một số dân tộc khác 
		
		Thành phố Móng Cái được 
		thành lập tháng 9 năm 2008, trên cơ sở toàn bộ diện tích  
		
			
				
				
				  | 
			 
			
				| 
				                 Thành phố Móng Cái | 
			 
		 
		tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc thị xã Móng 
		Cái, và nguyên là huyện 
		Hải Ninh trước đây. Tp. Móng Cái là mảnh đất địa đầu vùng Đông Bắc của 
		Việt Nam, cách thành phố Hạ Long 185 km. Phía bắc Tp. Móng Cái là biên 
		giới giáp với Trung Quốc dài 70 km. 71% diện tích đất liền là đồi núi. 
		
		  
		
		Các di 
		tích văn hoá lớn được xếp hạng tập trung hầu hết ở khu vực Trà Cổ, đó là 
		đình Trà Cổ, nhà thờ Trà Cổ, chùa Linh Khánh, chùa Xuân Lan. Bãi tắm Trà 
		Cổ là một trong những bãi tắm đẹp nhất của Việt Nam (có chiều dài 17 
		km), và cách trung tâm Tp. Móng Cái khoảng 9km. 
		
		  
		
		Kinh tế 
		của thành phố theo mô hình thương mại - du lịch - nông - ngư nghiệp. 
		Trong quy hoạch tổng thể, hình thành ba khu chức năng: khu thương mại, 
		khu du lịch và khu công nghiệp. Cửa khẩu Móng Cái là điểm buôn bán rất 
		thuận tiện giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nhịp độ buôn bán ở đây suốt ngày 
		đêm. Ngành du lịch của Móng Cái đón số khách hàng năm đến gấp 10 lần số 
		dân trên địa bàn, góp phần thu nhập quan trọng cho thành phố Móng Cái. 
		Đầm Hà 
		
		
		
		
		Diện tích: 
		289,9 km2  
		
		Dân số (2001): 
		30.408 người 
		Đơn 
		vị hành chính:  
		
		- Thị trấn: Đầm 
		Hà 
		
		
		- 
		Xã: Đại 
		Bình, Dực Yên, Quảng Tân, Quảng Lợi, Quảng An, Quảng Lâm, Đầm Hà, Tân 
		Bình 
		
		Dân tộc: 
		Việt (Kinh), Tày, Dao, Hoa, Sán Dìu, Sán Chỉ, Nùng, Mường, Cao Lan  
		
 
Thành phố Móng Cái được 
thành lập tháng 9 năm 2008, trên cơ sở toàn bộ diện tích  
	
		
		
		  | 
	 
	
		| 
		                 Thành phố Móng Cái | 
	 
 
tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc  thị xã Móng 
Cái, và nguyên là huyện 
Hải Ninh trước đây. Tp. Móng Cái là mảnh đất địa đầu vùng Đông Bắc của Việt Nam, 
cách thành phố Hạ Long 185 km. Phía bắc Tp. Móng Cái là biên giới giáp với Trung 
Quốc dài 70 km. 71% diện tích đất liền là đồi núi. 
  
Các di tích văn 
hoá lớn được xếp hạng tập trung hầu hết ở khu vực Trà Cổ, đó là đình Trà Cổ, nhà 
thờ Trà Cổ, chùa Linh Khánh, chùa Xuân Lan. Bãi tắm Trà Cổ là một trong những 
bãi tắm đẹp nhất của Việt Nam (có chiều dài 17 km), và cách trung tâm Tp. Móng 
Cái khoảng 9km. 
  
Kinh tế của 
thành phố theo mô hình thương mại - du lịch - nông - ngư nghiệp. Trong quy hoạch 
tổng thể, hình thành ba khu chức năng: khu thương mại, khu du lịch và khu công 
nghiệp. Cửa khẩu Móng Cái là điểm buôn bán rất thuận tiện giữa Việt Nam và Trung 
Quốc. Nhịp độ buôn bán ở đây suốt ngày đêm. Ngành du lịch của Móng Cái đón số 
khách hàng năm đến gấp 10 lần số dân trên địa bàn, góp phần thu nhập quan trọng 
cho thành phố Móng Cái. 
   
		
		Hải Hà 
 
 
Hải Hà là 
một huyện nằm ở phía đông của tỉnh Quảng Ninh. Phía đông giáp thành phố  
	
		
		
		  | 
	 
	
		| 
		        Ủy ban nhân dân huyện Hải Hà | 
	 
 
Móng Cái, phía tây giáp các huyện Bình Liêu, Đầm Hà, phía nam giáp biển Đông, 
phía bắc giáp Trung Quốc.
  
Hải Hà cũng có đá 
"thần" ở núi Tài Chi. Khác với đá "thần" ở Bình Liêu, khi gõ vào tạo thành âm 
thanh nghe rùng rợn làm rung động cả núi rừng. Hai đảo Núi Miều và Cái Chiên là 
những thắng cảnh du lịch hấp dẫn của huyện Hải Hà.
Hải Hà là 
một trong ba trọng điểm lúa của tỉnh. Cây quế, sa mộc, hồi... mang lại cho Hải 
Hà những nguồn thu đáng kể. Nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản phát triển mạnh. Công 
nghiệp khai thác đá làm gạch chịu lửa, khai thác nguyên liệu sản xuất sứ cách 
điện, sứ cao cấp, phụ gia xi măng, đồ mỹ nghệ, gạch ốp lát cũng đang được đẩy 
mạnh.   
		Tiên Yên 
		
		
		Diện tích: 
		617,1 km2  
		
		Dân số (2001): 
		42.217 người 
		
		Đơn vị hành chính:  
		
		- Thị trấn: Tiên 
		Yên  
		
		- Xã: Đại 
		Dực, Hà Lâu, Phong Dụ, Điền Xá, Yên Than, Hải Lạng, Tiên Lãng, Đông Ngũ, 
		Đông Hải, Đồng Rui. 
		
		Dân tộc: 
		Có 13 dân tộc, đông nhất là người Việt (Kinh) chiếm 59%; Dao 19%; Tày 
		13,8%; Sán Chỉ 8,4%; Sán Dìu 3,8% còn lại là người các dân tộc khác: 
		Nùng, Hoa, Thái 
		
		Tiên Yên là huyện nằm ở trung tâm của miền đông bắc tỉnh Quảng Ninh. 
		Phía nam  
		
			
				
				
				  | 
			 
			
				| 
				       Ủy ban nhân dân huyện Tiên 
				Yên | 
			 
		 
		giáp với huyện Ba Chẽ, thị xã Cẩm Phả và vịnh Bái Tử Long; phía đông 
		giáp huyện Đầm Hà.    
		 
		
		Trên đất Tiên Yên có di tích Chùa Dâu là một ngôi chùa nhỏ ở xã Đông Hải. 
		Điểm đặc biệt của ngôi chùa này là hoàn toàn xây bằng đá phiến khá lớn; 
		lễ hội Chùa Dâu được tổ chức vào rằm tháng giêng âm lịch hàng năm.  
		
		Gần thị 
		trấn Tiên Yên còn lại một nhà tù từ thời thuộc Pháp. Hiện nay di tích 
		này còn gần như nguyên vẹn, chỉ có chiếc máy chém được chuyển về bảo 
		tàng của tỉnh. Mô hình kinh tế của huyện Tiên Yên là nông - lâm - ngư 
		nghiệp. Công nghiệp của huyện không đáng kể. 
		
		  
		
		  Nguồn: vietnamtourism  |