|
Bến Tre, Một Thời Thương Nhớ
NGƯỜI LONG HỒ
Về phía Nam của Định
Tường và phía Đông của Vĩnh Long là tỉnh Bến Tre, một tỉnh nằm cuối
nguồn sông Cửu Long, tiếp giáp với Biển Đông. Dưới thời Pháp thuộc, tỉnh
lỵ Bến Tre được đặt tại Mỏ Cày. Tỉnh Bến Tre được thành lập chủ yếu do 3
cù lao lớn là cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Đất đai trên ba
cù lao này hoàn toàn được bồi đắp bởi phù sa của ba nhánh sông Cửu Long.
Vì nằm sát biển nên đất phù sa bị gió biển thổi đùn lên thành những
giồng đất cao, giữa các giồng là đất đai canh tác, rất phì nhiêu mầu mỡ.
Tuy trước đây Bến Tre trực thuộc Dinh Long Hồ (Vĩnh Long ngày nay),
nhưng lịch sử phát triển của Bến Tre lại gắn liền với lịch sử của tỉnh
Định Tường. Như trên đã nói trước năm 1679, cả vùng đồng bằng sông Cửu
Long mà bây giờ chúng ta Gòi là Nam kỳ, chưa có dấu vết của chính quyền
Nam triều. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng đích xác là không có lưu dân
Việt Nam tại đây vào thời kỳ này. Đến khi nhà Minh bên Tàu sụp đổ, những
quan quân của nhà Minh trong hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây không phục
nhà Thanh nên dong buồm đi về phương Nam tìm đất mới để dung thân. Nhân
cơ hội đó mà chúa Hiền cho phép họ vào vùng Thủy Chân Lạp khai khẩn đất
hoang. Thoạt tiên, họ tập trung ở những vùng Đồng Nai, Gia định và Mỹ
Tho, dần dần họ tiến xa về những vùng Bến Tre và Gò Công. Dưới thời Gia
Long, Bến Tre là một trong ba tổng của phủ Kiến An (Kiến Hưng hay Cái Bè,
Kiến Hòa hay Bến Tre và Gò Công và Kiến Đăng hay Đồng Tháp Mười) thuộc
dinh Trấn Định (Định Tường). Đến đời Minh Mạng thì nhà vua đổi dinh và
trấn ra làm tỉnh, Bến Tre và Gò Công tách ra làm huyện Tân Hòa. Đến đời
Thiệu Trị thì Gò Công được sáp nhập vào Gia Định, và Bến Tre được nhập
vào Định Tường. Khi Pháp chiếm Nam kỳ, chúng lần lượt phân lục tỉnh ra
thành 20 tỉnh và một phần của huyện Kiến Hòa được tách ra làm tỉnh Bến
Tre vào năm 1907. Tổng diện tích là 170.000 mẫu Tây và tổng dân số thời
đó (theo thống kê của La Cochinchine) là 257.216 người, đa số là người
Việt. Hiện nay diện tích của tỉnh Bến Tre là 2.287 cây số vuông, và tổng
dân số là 1.319.000 người. Có nhiều giả thuyết về cái tên Bến Tre, có
người cho rằng vì người Miên gọi là Kompong Ruusei hay Sóc Tre nên dân
Nam ta gọi là Bến Tre. Về vị trí thì Bắc giáp Định Tường, phía Tây và
Tây Nam giáp Vĩnh Long, và phía Nam giáp Trà Vinh, Đông và Đông Nam giáp
biển Đông. Hiện tại Bến Tre có 9 quận: Trúc Giang, Hàm Long, Giồng Trôm,
Ba Tri, Bình Đại, Đôn Nhơn, Mỏ Cày, Hương Mỹ và Thạnh Phú. Sau năm 1975,
Chợ Lách dược sáp nhập vào Bến Tre, tuy nhiên, quận Đôn Nhơn được sáp
nhập vào Mỏ Cày, Hương Mỹ và Thạnh Phú, và Hàm Long được sáp nhập vào Ba
Tri nên Bến Tre chỉ còn có 7 quận. Bến Tre là một vùng đất phù sa màu mỡ,
gồm ba cù lao lớn là cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Tuy mang
tên Bến Tre, nhưng đây chính là quê hương xứ dừa với những vườn dừa ngút
ngàn. Ngoài ra, Bến Tre còn trồng lúa, mía, thuốc lá, dưa, bông vải và
đủ loại trái cây.

Tre còn là vựa muối
biển của cả vùng. Bến Tre tuy là một tỉnh nhỏ với bờ biển chỉ dài khoảng
60 cây số nhưng chỉ riêng một mình Bến Tre đã chiếm 5 cửa biển của sông
Cửu Long ,( Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên) nên hải sản của Bến
Tre thật là phong phú và đặc sắc không thua bất kỳ nơi nào. Dù Việt Nam
chịu ảnh hưởng gió mùa vùng nhiệt đới, nhưng nhờ gần biển, địa hình bằng
phẳng, rải rác có những cồn cát xen lẫn với những cánh đồng ngút ngàn,
lại được bao bọc xung quanh bởi một mạng nhện sông kinh và rạch, nên khí
hậu Bến Tre luôn dễ chịu, chỉ trừ một vài vùng có đất giồng cao như Bình
Đại, Ba Tri và Thạnh Phú nên về mùa nắng hơi có phần oi bức. Còn cái nơi
khác như Mỏ Cày, Giồng Trôm, Trúc Giang và Hàm Long thì bốn bề được sông
nước bao bọc nên luôn mát mẻ và rất thuận tiện cho việc giao thông vận
tải, cũng như thủy lợi. Ngoài 4 con sông lớn chảy qua Bến Tre là Mỹ Tho,
Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Bến Tre còn hai nhánh sông lớn của sông Hàm
Luông là sông Sóc Sải và sông Cái Gấm. Ngoài ra, Bến Tre còn có kinh
Chẹt hay kinh An Hóa nối sông Mỹ Tho, sông Ba Lai và rạch Trúc Giang;
kinh Song Mã nối sông Hàm Luông, Ba Lai và rạch Trúc Giang; kinh Hương
Điểm chạy từ cù lao Bảo qua rạch Sơn Đốc. Bến Tre còn có rất nhiều rạch
quan trọng như bên cù lao Bảo có các rạch Trúc Giang, rạch Lương Phú,
Ngã Con, Phú Hữu, Ba Tri, Mỹ Nhiên, Bà Hiền, Cái Bông, Sơn Đốc, Cái Mít
và Thủ Cửu. Bên cù lao Minh có các rạch Cái Mơn, Mỏ Cày, Cái Quao, Băng
Cung, Con ốc, Hồ Cỏ. Bên cù lao An Hóa có rạch Vũng Luông. Ngoài ra, Bến
Tre còn trên một trăm rạch nhỏ khác trong toàn tỉnh. Chính vì thế mà từ
trên phi cơ nhìn xuống toàn tỉnh Bến Tre giống như là một mạng nhện sông,
kinh và rạch, cắt ngang cắt dọc, cắt xiên, cắt xéo, trông rất đẹp mắt.
Tuy đất Bến Tre phù sa màu mỡ, nhưng hãy còn những vùng hoang dã, chỉ có
cây bần, mắm, chà là hay giá mọc được mà thôi nhiều vùng hãy còn giữ
được nét nguyên sơ của một thời cha anh ta đi khai mở đất nước và không
khí cũng như môi trường thiên nhiên ở những nơi này rất trong lành như
vùng bờ biển Bình Đại, An Thạnh và Thạnh Phú...Tuy nhiên, bên cạnh vẻ
đẹp thuở hoang sơ ấy, những nơi này vẫn có ve đẹp thuần hậu của những
thôn ấp với những đồng rẫy, vườn dừa và những vườn cây ăn trái rộng lớn.
Chính vì thế mà ngoài chuyện rất nổi tiếng về dừa và lúa ra Bến Tre còn
sản xuất nhiều sản vật và hoa quả khác như ngô, khoai, dứa, thơm, chôm
chôm, mãng cầu, vú sữa sầu riêng, vân vân. Ngoài những nơi hoang sơ ấy,
Bến Tre vẫn có một diện tích ruộng canh tác đáng kể, nhờ đất đai mầu mỡ
nên tổng số diện tích ruộng lên tới 113.000 mẫu nằm trong đất liền của
các quận Ba Tri, Thạnh Phú, Hương Mỹ và Bình Đại... nên Bến Tre trở
thành một vựa lúa lớn của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Vì có một bờ biển
quan trọng nên ngư nghiệp tại Bến Tre cũng rất khả quan, chẳng những ven
biển, mà còn trong những con sông lớn nữa nên ngành thủy và hải sản của
Bến Tre cũng rất nổi tiếng với đủ loại cá, tôm, cua, sò, ốc, hến, đặc
biệt là cá thiều, cá cơm, và cá mối. Về thổ sản thì Bến Tre là nơi nổi
tiếng về dừa, mía, cam, quít. Diện tích trồng dừa của Bến Tre lên 40.000
mẫu, vượt trội hơn các tỉnh khác trong Nam, gấp 5 lần Vĩnh Long và Mỹ
Tho, gấp 7 lần Bình Định, gấp 20 lần Quảng Ngãi. Dừa là sản phẩm chẳng
những chỉ cho cây và trái, dừa tươi được dùng để gói bánh, lá dừa khô
dùng để nhóm lửa hay làm đuốc soi ban đêm, gáo dừa dùng làm củi rất tốt,
nhưng người ta còn dùng để múc nước và làm những đồ thủ công rất đẹp, củ
hủ dừa là một món ăn tuyệt hảo của dân miền Nam, vỏ dừa dùng se dây hay
dệt thảm, dầu dừa dùng chế xà bông rất tốt. Cũng chính từ dừa mà Bến Tre
rất nổi tiếng về món kẹo dừa, chẳng những xuất cảng đi các tỉnh khác, mà
còn được bán ra ngoại quốc nữa. Ngoài ra, Bến Tre còn nổi tiếng về ngành
dệt Chiểu. Trong thời Gia Long bôn tẩu lẩn trốn quân Tây Sơn, ông đã
nhiều lần lưu lại Bến Tre tại các nơi như cồn Đất, Đa Phước Hội vân vân.
Tỉnh Bến Tre hãy còn nhiều di tích lịch sử như miếu, đền, chùa cổ kính,
Hồ Cỏ thiên nhiên là một trong những thắng cảnh của tỉnh Bến Tre. Kỳ
thật đây là một cánh đồng cỏ xanh tươi bát ngát, mặt đồng lại thấp, bằng
phẳng và rì như mặt hồ không một gợn sóng, có lẽ vì thế mà dân chúng
trong vùng gọi đây là hồ cỏ, chứ không gọi là đồng cỏ.
Ngoài ra còn có chùa
thờ Năm vị Cổ Phật ở Phú An Hòa. Về nhân vật lịch sử thì Bến Tre có ông
Chưởng cơ Phạm văn An, phò Nguyễn ánh, ông Hoàng văn Tứ từng theo hầu
cận Nguyễn Ánh, ông Nguyễn hoài Quỳnh từng làm tới chức Hình Bộ Tả Tham
Tri ở Bắc Thành dưới thời Gia Long. Ngoài ra, Bến Tre còn có ông Trương
tấn Bửu, di dân từ Gia Định, nhưng sống suốt đời ở Bến Tre, theo phò tá
Gia Long tới chức Tiền quân Phó tướng. Đời Minh Mạng, Trương tấn Bửu đã
vâng lệnh Lê văn Duyệt nạo vét kinh Vĩnh Tế. Nói đến Bến Tre là phải nói
về cụ Phan thanh Giản. Nội tổ gốc Trung Hoa nhưng sáng lập nghiệp tại
vùng gánh Mù U, nên cụ Phan sanh ra lên tại đất Bến Tre này. Cụ đậu thi
Hương năm 1825, và Tiến Sĩ năm 1826. Trong suốt thời gian hoạn lộ dù
thăng hay dù trầm, cụ vẫn một mực cần chánh thanh liêm. Trải qua ba
triều, cụ đã phục vụ khắp các miền đất nước, tuy nhiên, vào cuối đời thì
cụ làm Kinh Lược Sứ 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên và tuẫn tiết
khi thành Vĩnh Long thất thủ năm 1867. Cụ quả là một tấm gương cả đời hy
sinh cho dân cho nước, thật đáng cho chúng ta noi theo. Hiện không có
đền thờ cụ Phan tại Bến Tre vì thế lực và xu thế chính trị đang thống
trị đất nước muốn triệt hạ uy danh của cụ, nhưng trong lòng con dân Nam
Kỳ, đâu cũng là đền thờ của cụ, từ gánh Mù U đến khắp các hang cùng ngò
hẻm cửa Nam Kỳ Lục Tỉnh người dân hồi trước và dân bây giờ vẫn xem cụ là
một dũng tướng đã hết lòng vì nước. Hiện trong xã Bảo Thạnh, quận ba Tri
vẫn còn mộ cụ Phan được xây bằng đá ong, với một tấm bia bằng chữ Hán
rất sơ sài trong khuôn đất hương quả, do một người cháu 7 đời của cụ
trông coi. Bến Tre còn là quê hương của Chánh Lãnh binh Nguyễn Ngọc
Thăng, người đã cố thủ trong trận tử thủ đồn Thủ Thiêm, rồi sau đó kéo
quân về hợp cùng Trương Công Định tiếp tục đánh Pháp tại Gò Công. Lãnh
binh Thăng tử trận năm 1866. Sau Lãnh binh Thăng, có các ông Phan Tôn và
Phan Liêm (con cụ Phan thanh Giản) cũng nổi lên đánh Pháp tại Bến Tre.
Sau khi cụ Phan tuẫn tiết và để lại di chúc cho các con đừng ra hợp tác
với Pháp thì 2 ông Phan Tôn và Phan Liêm chiêu mộ hào kiệt ở các vùng
Bến Tre, Vĩnh Long, Sa Đéc nổi lên đánh Pháp, nhưng vì thế cô sức yếu
nên cuộc khởi nghĩa thất bại. Ngoài ra cụ Nguyễn đình Chiểu cũng là một
tấm gương yêu nước hiếm có trong thời tao loạn. Tổ tiên cụ đồ Chiểu quê
Ở Huế, cha cụ làm quan dưới quyền Tả quân Lê văn Duyệt, nên sau vụ Lê
văn Khôi, ông bèn đem cả nhà về miền Trung, nhưng bị vua Minh Mạng bắt
tội xử tử, nhưng nhờ triều thần can thiệp, cha ông được miễn tội. Sau đó
ông đem Nguyễn đình Chiểu và các con khác Gia Định lập nghiệp. Năm 22
tuổi Nguyễn đình Chiểu đậu Tú tài, đến năm 1849 khi vừa ra Huế ứng thí
thi Hương thì hay mẹ mất, cụ bỏ thi trở ra miền Nam. Dọc đường vì buồn
rầu than khóc mẹ mà cụ mang bệnh đến nỗi mù cả đôi mắt. Sau khi thành
Gia Định thất thủ, cụ mang cả gia quyến về Cần Giuộc lánh nạn, sau đó cụ
lại dời về Ba Tri. Tại đây cụ tiếp tục dạy học và liên lạc với nghĩa
binh. Chủ tỉnh Bến Tre 4 lần xin ra mắt để chiêu dụ cụ, nhưng đều thất
bại. Thơ văn cụ để lại hãy còn rất nhiều bài thơ chẳng những nói lên tâm
trạng bất hợp tác với mà còn khuyên tấn sĩ dân nếu không chống Pháp được
bằng súng đạn nên dùng ngòi bút mà chống và khơi dậy lòng yêu nước của
nhân dân cho đến khi không còn bóng dáng quân thù. Cụ mất năm 1888 tại
Bến Tre. Ngoài ra tại xã Bảo Thạnh, Ba Tri còn có mộ cụ Võ Trường Toản.
Cụ là một nhà nho lớn của Việt Nam vào thế kỷ thứ 18, với kiến thức uyên
bác và chí khí thanh cao, dù quê quán của cụ ở Bình Dương, nhưng khi cụ
mất, học trò của cụ là những quan chức thời danh lúc ấy đã dời lăng mộ
của cụ về Bến Tre để cải táng sau khi ba tỉnh miền Đông mất vào tay giặc
Pháp. Cụ Võ trường Toản là thầy của các cụ đồ Chiểu, Trịnh hoài Đức, Lê
quang Định, Ngô nhân Tịnh và Phan Thanh Giản. Cụ mất năm 1792 trong khi
đất nước đang hồi suy mạt vì Nguyễn Ánh đang rong ruổi đó đây hết rước
Xiêm rồi rước Tây về dày xéo mả tổ với ý đồ giành giựt lại chiếc ngai
vàng cho dòng họ. Bến Tre cũng là quê hương của nhà thơ nữ Sương nguyệt
Ánh (con của cụ đồ Chiểu). Bà từng làm chủ bút tờ “Nữ Giới Chung" tờ báo
đầu tiên cho phụ nữ Việt Nam. Có thể nói, bà là một nữ sĩ tài ba, ngòi
bút sắt thép không kém gì cha mình.
Ngày trước khi cha
anh chúng ta đi khai mở đất đai về phương Nam, thì đi đâu đến đâu quý
ngài cũng xây dựng đình chùa đến đấy. Chính vì thế không riêng gì Bến
Tre mà cả miền Nam thoáng đâu đâu chúng ta cũng thấy những kiến trúc mái
cong của đình chùa.
Riêng tại Bến Tre,
đa số dân chúng theo đạo Phật và thờ ông bà, tuy nhiên, cũng có một ít
theo đạo Thiên Chúa, Tin Lành, Cao Đài và Hòa Hảo. Tại Bến Tre hiện còn
rất nhiều ngôi cổ tự được xếp vào hàng di tích như chùa Hội Tôn ở xã
Quới Sơn, được Thiền sư Long Thiền xây từ thời vua Lê Hiển Tông (1740).
Tại ấp Tân Quới Đông B, xã Minh Đức, quận Mõ Cày có chùa Tuyên Linh,
được xây dựng vào năm 1861. Ngay tại thị xã Bến Tre có chùa Viên Minh,
được xây dựng từ thế kỷ thứ 18. Đến năm 1951, chùa được trùng tu lại,
trước khuôn viên chùa có tượng Quán Thế âm Bồ Tát rất lớn. Hiện tại, hệ
phái Tăng Già Khất Sĩ phát triển rất mạnh tại Bến Tre với hàng chục ngôi
tịnh xá, mỗi tuần đều có thuyết giảng Phật pháp cho nhân dân trong vùng.
Tại quận Ba Tri, xã Phú Lễ còn ngôi Đình Phú Lễ được xây dựng từ những
ngày đầu cư dân Việt Nam đến sống với người Khmer tại đây. Hiện nay dân
chúng vẫn thường xuyên lai vãng lễ bái, đặc biệt là vào hai kỳ lễ, lễ Kỳ
Yên hai ngày 18 và 19 tháng 3 âm lịch, cũng như lễ Cầu Bông vào ngày
mồng 9 và 10 tháng 11 âm lịch. Tại các đình thần trong hai quận Bình Đại
và Ba Tri, hàng năm đến ngày 16 tháng 6 âm lịch còn có lễ hội tế thần cá
ông rất linh đình. Ngoài ra, tại Bầu Dơi thuộc quận Giồng Trôm hiện còn
một ngôi nhà thờ cổ tên La Mã rất lớn. Rãi rác khắp nơi trong tỉnh Bến
Tre cũng có nhiều thất Cao Đài với lối kiến trúc thật đặc sắc. Nói đến
Bến Tre không ai không liên tưởng đến giai thoại "ông Già Ba Tri” của
tỉnh này. Theo các bô lão, thời vua Tự Đức, có một ông lão đã dám đi bộ
hơn một ngàn cây số từ Bến Tre ra đến kinh đô để kêu oan. Dù đây chỉ là
một giai thoại, nhưng nó cũng nói lên tánh khí kiên cường của người dân
Bến Tre. Ngày nay chẳng những người Bến Tre cảm thấy hãnh diện về quê
hương xứ dừa mà dân Nam Kỳ Lục Tỉnh cũng hãnh diện về vùng đất nước cuồn
cuộn, sóng vỗ dạt dào cũng như tánh tình hiền hòa nhưng bất khuất của
đồng bào Bến Tre.
Đất Cái Mơn, nay
thuộc Bến Tre còn là quê hương của cụ Vĩnh Ký, một người hiếu học thông
minh, và nói được nhiều thứ tiếng. Gạt qua chuyện cụ đã hợp tác chặt chẽ
với Pháp Gòn, cụ có công rất lớn với sự phát triển của chữ Quốc ngữ tại
Việt Nam. Cụ chủ trương canh tân cải cách và mang văn Tây về truyền bá
cho dân Việt. Hiện tại hãy còn rất nhiều tác phẩm có giá trị của cụ như
bộ Văn Phạm Việt Nam viết bằng chữ Pháp, Truyện Đời Xưa viết bằng quốc
ngữ, Học Vỡ Lòng Tiếng Việt viết bằng chữ Pháp. Cụ mất năm 1889 tại Sài
Gòn. Ông là người đã biên soạn bộ Tự Điển Pháp Việt đầu tiên. Trương
Vĩnh Ký là bậc tiền hiền chữ quốc ngữ trong toàn cõi Việt Nam. Thuở nhỏ
vì cha mất sớm nên mẹ cho ông theo Cụ Tám rồi học chữ quốc ngữ, rồi sau
ông theo Cố Long và được đưa sang du học tại Penang (nhượng địa của Mã
Lai cho Anh quốc). Sau ông về nước làm thông ngôn cho Pháp, rồi phụ
trách trường thông ngôn ở Gia Định, cũng như tờ Gia Định Báo. Ông đã để
lại cho hậu thế nhiều tác phẩm chữ quốc ngữ và chữ Pháp, trong đó có bộ
Văn Phạm Việt Nam (viết bằng chữ Pháp cho người Pháp dùng), Truyện Đời
Xưa (viết bằng quốc ngữ), và Học Vỡ Lòng Tiếng Việt (viết bằng chữ Pháp).
Trước khi về hưu ông đã từng làm cố vấn cho vua Đồng Khánh. Ông mất năm
1899 tại Gia Định. Trương Vĩnh Ký chẳng những là một trong thế giới thập
bát tú (18 người thông thái) vào thế kỷ thứ 19, đã để lại cho nền văn
chương chữ quốc ngữ của chúng ta một kho báu văn chương, mà ông còn là
người đã giúp thay đổi hẳn bộ mặt những vườn cây ăn trái của Cái Mơn nói
riêng và của toàn quốc về sau nói chung. Chính ông đã mang từ Mã Lai
những cây giống sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, bòn bon, li-cu-ma về
trồng tại Cái Mơn. Từ đó đến nay dù mới chỉ hơn 150 năm, nhưng người bản
địa cứ ngỡ là loại cây trái ấy là của dân mình, vì những đặc sản ấy vừa
ngon vừa tốt trái hơn nơi đã sản sanh ra nó. Ngoài những cây ăn trái nổi
tiếng của miền nhiệt đới, Cái Mơn hiện nay còn là xứ của các loài hoa,
từ hoa bản xứ như cúc, vạn thọ, hồng...đến những loại hoa được đưa vào
từ miền Bắc hay từ Thái Lan sang với muôn màu muôn sắc làm cho Cái Mơn
trở thành một khuôn viên cây ăn trái, cây kiểng và vườn hoa dọc theo hai
bên bờ sông.
Vì được bao bọc bởi
sông nước nên Bến Tre mang một nét đặc thù của miệt vườn miền Nam. Ngày
trước và ngay cả bây giờ, dù đường giao thông trên bộ đã được xây dựng
nhưng phương tiện di chuyển chính của người dân Bến Tre vẫn là thuyền bè.
Nhiều khi cả gia đình dong ruổi đó đây trên một chiếc ghe suốt từ năm
này qua tháng nọ nên tình cảm người dân Bến Tre thật gắn bó với sông
nước, họ sống thật giản dị hài hòa với ruộng đồng và với những người
quanh họ. Cũng chính vì vậy mà mãi cho đến bây giờ, những ai có dịp đi
trên vùng sông nước Bến Tre, vẫn còn nghe được những câu hát điệu hò
trên sông nước, những lời ca, điệu hát, giọng hò, hoặc những bản cải
lương mà âm hưởng và ý nghĩa vẫn còn hướng về một thời cha anh chúng ta
đi khai mở đất nước về phương Nam. Nhắc đến Bến Tre mà không nhắc về
những cồn và những sân chim hay làng trái cây tại đây quả là một thiếu
sót lớn. Ngay trong quận Châu Thành tỉnh Bến Tre, giữa sông Tiền Giang,
thuộc xã Tân Thạch tức là ngay cửa ngõ từ Mỹ Tho qua Bến Tre, có một cái
cồn rất nổi tiếng mang tên Cồn Phụng, quê hương của ông Đạo Dừa. Cồn nằm
cách thị xã Bến Tre 12 cây số, diện tích toàn cồn vào khoảng 50 mẫu tây.
Dân cư ở đây chủ yểu sống bằng nghề trồng cây ăn trái và làm đồ thủ công
nghệ từ cây dừa. Hiện trên cồn còn ngôi tòa tháp của ông Đạo Dừa được
xây trên một khu đất rộng khoảng 1.500 mét vuông. Tòa tháp có lối kiến
trúc rất độc đáo với những mảng đắp chạm rồng phượng bằng những miếng
miễng vỡ của tô, chén dĩa. Chiếc cầu thang lên đỉnh tháp uốn lượn theo
hình trôn ốc trông rất đẹp mắt. Cách thị xã Bến Tre chừng 20 cây số, có
Cồn Qui (giống như hình con rùa), nằm trên Sông Tiền, giữa hai xã Tân
Thạch và Quái Sơn thuộc quận Châu Toàn cồn nổi tiếng với những vườn cây
ăn trái và cá tôm đủ loại. Cách thị xã Bến tre khoảng 10 cây số tại xã
Hưng Phong, quận Giồng Tôm có cồn ốc hay còn gọi là cồn Hưng Phong. Cồn
dài trên 8 cây số và diện tích trên 1 cây số vuông với những vườn cây ăn
trái xanh tươi cũng giống như cù lao An Thành ở Vĩnh Long hay cù lao
Thới Sơn ở Mỹ Tho. Trong xã Tiên Long thuộc quân Châu Thành, ngang với
làng Cái Mơn trên sông Tiền còn có cồn Tiên. Cồn rộng chỉ khoảng 7 mẫu
tây, nằm cách thị xã Bến Tre khoảng 23 cây số, đây là một bãi tắm trên
sông rất đẹp, hàng năm vào ngày 5 tháng 5 có hàng vạn người từ các nơi
đổ xô về đây trên những chiếc tam bán hay tắc rán để tham dự lễ hội tắm
sông ném bùn thật vui nhộn. Giữa hai xã Mỹ Hòa và Tân Xuân thuộc quận Ba
Tri, gần cửa Ba Lai, hiện còn có một sân chim rất rộng, khoảng trên 50
mẫu tây, trong đó có khoảng trên 15 mẫu rừng chà là và khoảng 7 mẫu rừng
đước chưa khai phá, đó là sân chim Vàm Hồ. Từ thị xã Bến Tre đến sân
chim Vàm Hồ khoảng trên 50 cây số, người ta có thể đi đường bộ hay đường
sông đến đây. Đây là nơi trú ngụ của hàng triệu chim đủ loại từ cò ngà,
cò trắng, cò ruồi, vạc, sếu, le le, cồng cộc, dòng dọc, diệc xám, quắm
trong, dơi, cũng như các loại thú hoang vùng đồng bằng như chồn, rắn,
rùa, cua đinh, càng đước, v.v. Trên đường vào sân chim, dọc theo hai bờ
sông Ba Lai là một thảm thực vật xanh mát với đủ loại cây trái, từ cây
ăn quả đến cây tạp như xoài, ổi, mận, mít, chôm chôm, dừa, cam, quít...đến
so đũa, bình bát, điên điển, v.v. Trong sân chim nhiều nhất là các loại
cây đước, tra, chà là đầy gai (có lẽ đây là bản năng tự vệ của chúng).
Vào khoảng từ 4 đến 5 giờ chiều, hàng triệu con chim từ khắp nơi bay về
Vàm Hồ biến nơi đây trắng xóa tương tự như một cảnh tuyết phủ miền Bắc
cực. Về giao thông đường bộ, tỉnh lộ 60 nối liền Mỹ Tho, Bến Tre, Mỏ Cày
và Trà Vinh. Tỉnh lộ 57 nối liền Chợ Lách, Mỏ Cày và Thạch Phú (cắt tỉnh
lộ 60 tại Mỏ Cày). Ngoài ra, từ tỉnh lộ 60 còn có các hương lộ 17 đi
Bình Đại, hương lộ 26 đi Ba Tri, hương lộ 884 đi Cái Mơn.
Nguồn: saigontimesusa |