Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Cần Thơ, Quê Hương Tôi

NGUYỄN BÁ CẨN
 
Đoàn học sinh tuổi trung b́nh từ 12  đến 18 đang diễn hành đều bước  trên Lộ Mới là một trong những  con đường nhộn nhịp nhất chạy  từ trung tâm thành phố Cần Thơ đến  sông Cái Khế. Con đường này,  nay được gọi là Xô Viết Nghệ  Tĩnh. Cách đây 60 năm, người Pháp  cai trị Đông Dương nên đă có  thời kỳ con Lộ Mới này được  đổi tên là Capitaine d'Hers, sau nữa đổi  thành Phan Thanh Giản cho đến năm 1975. Nó  chạy xuyên ngang một khu đông đúc  gồm có trại gia binh và trường trung  học Phan Thanh Giản ở phía Nam và khu  gia cư ở phía Bắc lên đến tận  sông Cái Khế. Cứ mỗi buổi chiều,  đến giờ thể dục th́ học sinh  trung học tập đi diễn hành ngoài đường  và ca ngợi nước Pháp với  hai câu hát được Chính Phủ Pháp  tung ra, “Maréchal! Nous voilà! Devant toi le sauveur  de la France” (Thưa Thống Chế, vị cứu  tinh của nước Pháp! Chúng tôi đang  tŕnh diện trước mặt Ngài!), để  vinh danh Thống Chế Pétain, vị anh hùng của  trận Verdun hồi thế chiến thứ I.
Năm 1941, khi Phát Xít Đức xâm chiếm  các nước Âu Châu, trong đó có  Pháp, Chánh Phủ Cộng Ḥa Pháp kể  cả Quốc Hội tự động giải tán.  Quốc gia Pháp được thành lập  tại miền Nam nước Pháp dưới  quyền lănh đạo của Thống Chế Pétain,  chủ trương hợp tác với Phát  Xít Đức để cứu văn nước  Pháp, ít lắm là theo lời tuyên bố  của ông ta, trong lúc đại đa số người  dân Pháp hướng về Thiếu Tướng  De Gaulle, đang kêu gọi toàn quốc kháng  chiến, từ Luân Đôn (Anh Quốc) là  nơi ông đă thành lập Chính Phủ  Pháp Tự Do và lănh đạo cuộc  chiến đánh đuổi Đức Quốc  Xă để giải phóng nước Pháp.
Nhà tôi nghèo. Quê tôi là làng  Phú Hữu, ở tận cực Nam của  tỉnh Cần Thơ, cách tỉnh lỵ độ 18  cây số. Bên nội tôi sống bằng nghề  nông. Trước năm 1945, xă Phú Hữu  cũng như tất cả các xă khác, trừ  xă tại quân lỵ, chỉ vỏn vẹn có  một lớp Đồng Ấu để dạy trẻ  con biết đọc và viết mà thôi. Với  hoài bảo cho các con ăn học để tương  lai được sáng sủa hơn là cứ  miệt mài với ruộng vườn quanh  năm suốt tháng mà không thoát cảnh  nghèo nàn, ba mẹ tôi dời lên ở  tỉnh lỵ Cần Thơ, cất nhà sát bên  cạnh trường trung học Lộ Mới,  tiện cho việc học hành của các con sau  này.
Quê tôi nghèo. Bên nội tôi gồm  khoảng 50 gia đ́nh thuộc ba bốn thế hệ  chia nhau chiếm trọn con Kinh Nhỏ là nơi phát  nguồn của Rạch Mái Dầm giáp ranh với  tỉnh Sóc Trăng. Toàn dân trong xă làm  ruộng, hết mùa lúa ở quê nhà  th́ rủ nhau bơi xuồng xuống Ba Xuyên gặt  lúa để kiếm thêm chút đỉnh, hoặc  bằng tiền hoặc bằng hiện vật là  lúa để tăng cường lợi tức  thấp kém của ḿnh. Lúc bấy giờ  trong nước chỉ làm ruộng một mùa.  Người nào siêng năng cần cù  th́ trồng thêm vài luống khoai hoặc bắp,  kiếm thêm thức ăn độn cho gia đ́nh.  Nông thôn ta lúc bất giờ chưa biết  làm lúa hai mùa hoặc trồng rẫy qui mô  để sinh lợi. Sau khi gặt hái, c̣n  lại nửa năm không biết làm ǵ  nên dân làng thường tổ chức  cờ bạc và đá gà.
Đất nước tôi nghèo, nghèo lắm.  Hơn 90 phần trăm nhân dân sống lam lũ  ở nông thôn. Ngoại trừ một thiểu  số làm công chức và nghề tiểu  công nghệ hoặc tiểu thương, đa số  quần chúng sống trong cảnh nghèo đói  theo định nghĩa “nghèo đói” của Liên  Hiệp Quốc ngày nay. Nước nghèo lại  gặp cảnh thế chiến. Gạo thừa thải  chút đỉnh nhưng xuất cảng không được.  Ngoài ra, Pháp và Nhật tung đ̣n đánh  phá nhau về kinh tế gây nạn đói  ở Bắc Việt chết hàng triệu người.  Có đủ gạo th́ ăn cơm, thiếu gạo  th́ phải độn khoai cho đỡ đói,  và đừng mong mua được đồ  biến chế ngoại quốc v́ các phe lâm  chiến phong tỏa khắp các mặt biển và  hải tŕnh.
Trong trọn tỉnh lỵ Cần Thơ, tôi chỉ  thấy một chiếc xe hơi của Chánh Tham  Biện tức Tỉnh Trưởng người  Pháp. Lúc bấy giờ, thế giới  chưa có máy lạnh (air conditioner), và máy  truyền h́nh. Tôi cũng chỉ thấy có  một tủ lạnh (refrigerator) nơi tư thất  của một trong 10 gia đ́nh giàu nhất ở  chợ Cần Thơ. Ngoài ra, từ trường  trung học cho đến sông Cái Khế, trọn  một khu gia cư dọc theo đại lộ Phan Thanh  Giản gồm có cả trăm gia đ́nh mà  chỉ có nhà ông giáo Chưởng, thầy  dạy tôi lớp vỡ ḷng tại trường  tiểu học tỉnh lỵ, là có một cái  máy phát thanh duy nhất. Chiều chủ nhật  nào, Lộ Mới cũng đông nghẹt  nơi đây v́ lối xóm ngồi chiếm  nửa mặt lộ trước nhà ông  giáo này để nghe Huyền Vũ tường  thuật các trận túc cầu quốc tế  ở Sài G̣n.
Anh cả của tôi dạy học, lương khoảng  100 đồng bạc Đông Dương. Một người  anh khác làm thợ máy cho Công Chánh,  lương khoảng 70 đồng. Từng ấy  lợi tức giúp má tôi nuôi một  gia đ́nh gồm má tôi và 8 anh em. Cho đến  khi học năm thứ ba trung học, tôi vẫn  c̣n mặc bà ba và mang guốc cây để  đi học như 90 phần trăm bạn bè cùng  trường. Một vài học sinh giàu mới  mua sắm được “sơ mi” và quần tây  ngắn. Ngay cả giáo sư trung học và các  công chức cũng đều mặc quần  ngắn, lư do là v́ hằng 4, 5 năm kể  từ ngày thế chiến bùng nổ, không  có nhập cảng hàng vải được  nữa. Công tư chức mới mua được  một chiếc xe đạp để đi làm và  dùng cho mọi cuộc di chuyển khác sau giờ  làm việc hoặc cuối tuần. Trong lớp  học của tôi chỉ có một học sinh  duy nhất là anh Lê Đ́nh Thêm, em vợ  kỹ sư Phan Khắc Sửu (sau cuộc Cách  Mạng và Chỉnh Lư, đảm nhận vai tṛ  Quốc Trưởng Việt Nam), mới có  xe đạp. Toàn dân mang guốc cuốc bộ.  Cho đến đường cát, sữa đặc  và diêm quẹt cũng phải đến Quận  Châu Thành hoặc Ṭa Hành Chánh Tỉnh  xin phiếu mua dùng. Nêu lên một vài  cảnh sinh hoạt kinh tế tại tỉnh lỵ mỹ  miều Cần Thơ để biết mức độ  nghèo khổ của quê hương yêu dấu  trước 1945.
Tại tỉnh lỵ th́ c̣n thấy người  dân ăn no mặc ấm. Nhưng khi đi sâu  vào nông thôn như tôi năm nào cũng  sống hai tháng hè tại quê nội, là  nơi mà 90 phần trăm dân ta sinh sống,  th́ cảnh nghèo khó biến thành bần  cùng. Đa số nhân dân ăn mặc rách  rưới. V́ không có vải nhập cảng  nên đă bắt đầu thấy “vải ta”  xuất hiện, ḿnh vải hết sức thô  v́ được dệt bằng bông vải  nội địa và dệt bằng tay theo lối  tiểu công nghệ. Nhiều gia đ́nh nghèo  không mua nổi vải, phải may quần áo  bằng bố tời (loại bao bố chỉ gai  màu xám lợt để làm bao đựng  lúa hoặc đựng gạo). Chính mắt  tôi chứng kiến nhiều gia đ́nh nghèo  đến nỗi chỉ mua sắm được có  một bộ quần áo, dù là bằng bố  tời. Khi có việc phải ra khỏi nhà  th́ vợ hoặc chồng mới dùng đến  bộ quần áo duy nhất đó. Ở thôn  quê chí rận nhiều, v́ vừa nghèo  vừa thiếu điều kiện vệ sinh. Cho  nên trước khi mặc quần áo bằng  bố th́ phải trải trên mặt phản và  lấy ve chai loại 1 lít, đè thật mạnh  và lăn qua lăn lại để giết chí  rận, đè nát lên bọn chúng, tiếng  nghe “răng rắc”.
Đó là thực tế đời sống  ở miền Nam trước khi thế chiến  II chấm dứt. Những mỹ từ thường  được dùng như “Ḥn Ngọc Viễn  Đông” để ám chỉ Sài G̣n, bao  lơn Thái B́nh Dương khi nói đến  Việt Nam, và “Tây Đô bên bờ  sông Hậu” cũng chỉ nhằm an ủi niềm  đau khổ thấp hèn của người dân  thuộc địa mà thôi. Có lẽ độc  giả thắc mắc tại sao ai cũng nói miền  Nam Việt Nam, nhất là miền Tây là một  vùng giàu có nhất trong nước, thế  mà tại sao tôi lại mô tả đen tối  đến thế.
Miền Tây Việt Nam c̣n được gọi  là Hậu Giang chỉ có lúa ruộng. Phần  lớn đất đai do người Pháp  khai khẩn, như tại Cần Thơ có một  số đồn điền người Pháp canh  tác ruộng lúa tại những vùng Thới  Lai, Cờ Đỏ và miệt kinh xáng như  Kinh Bảy Ngàn. Nếu không ở trong tay  của Pháp th́ cũng ở trong tay của  Hoa Kiều vốn dĩ có nhiều vốn liếng  lại c̣n được hưởng đặc  quyền đặc lợi thụ đắc qua các  hiệp ước kư kết với Triều  Thanh trong tinh thần Pháp Hoa lưỡng lợi,  chia sẽ miếng mồi thuộc địa. Có một  số chủ điền Việt Nam có từ năm,  mười cho đến vài trăm mẫu ruộng  do hai ba đời cần cù làm lụng tiết  kiệm để tậu măi. C̣n lại đa  số là tiểu điền chủ có từ  một vài sào cho đến một hai mẫu  ruộng là cùng. Gặt hái xong được  vài chục hoặc vài trăm giạ lúa,  một số để dành làm giống cho mùa  sau, c̣n lại để ăn trong năm, thiếu  trước hụt sau. Đại đa số người  dân trong xă không có ruộng phải xin  thuê ruộng để canh tác, được  gọi là tá điền, lại c̣n nghèo  hơn tiểu điền chủ hai ba bậc. Trong đại  đa số này có một số khá đông  không thuê được ruộng th́ đi  làm công cho chủ điền, từ công  việc cày bừa, gieo cấy cho đến khi  gặt hái, được trả “lương chết  đói” bằng hiện vật là lúa.
Đừng đánh giá Hậu Giang giàu  sang khi nh́n thấy một số đại điền  chủ người Việt hoặc Minh Hương  (Việt lai Tàu) sinh sống thảnh thơi hoặc  khi đọc truyện các công tử Bạc  Liêu phung phí tài sản trong đó có  Cậu Ba Qui con của một đại điền chủ  giàu khét tiếng miền Tây, mỗi cuối  tuần tự lái máy bay riêng lên Sài  G̣n khiêu vũ trác táng với gái  “hạng sang” tột bực, đến chiều thứ  hai mới lái về nhà. Do đó, mỗi  chiều thứ hai, trẻ con chúng tôi ở  Lộ Mới thường tụ tập để  đón xem máy bay của “Cậu Ba” bay ngang tỉnh  lỵ, trên đường về Bạc Liêu.
Trong thời gian thế chiến II, Toàn Quyền  Pháp tại Đông Dương không theo đường  lối của nước Pháp Tự Do do De  Gaulle lănh đạo, mà lại nghiêng về  Chính Phủ Vichy, tức là chính phủ  hợp tác với phe Trục (Đức/Ư/Nhật)  ngỡ mong được Nhật Bản để  yên. Hy vọng này trở nên hăo huyền  v́ ngày 9/3/1945, Nhật Bản đảo chính  Đông Dương để làm bàn đạp  tiến chiếm Mă Lai và Singapore. Chính Phủ  Trần Trọng Kim ra đời, rồi tiếp đến  “Cách Mạng Mùa Thu”, Hoàng Đế Bảo  Đại thoái vị để làm công dân  một nước độc lập. Từ trước  năm 1944, Đảng Cộng Sản Đông Dương,  với một số cán bộ ṇng cốt  được huấn luyện tại Moscow về  đấu tranh giai cấp và cách mạng lật  đổ chính quyền, đă biết lợi  dụng thời cơ tổ chức kháng chiến  đánh phá Nhật Bản, mục đích là  mua ḷng Trung Hoa và Hoa Kỳ để được  viện trợ vũ khí của hai nước  này hầu phát triển lực lượng  vơ trang của họ. Cộng Sản đă lấn  lướt các phe phái Quốc Gia trên b́nh  diện chính trị và ngoại giao.
Về nội bộ th́ Cộng Sản sẵn có  cái vốn kỹ thuật xách động quần  chúng đấu tranh nên đă chiếm ưu  thế lănh đạo trong các tổ chức  cứu quốc như Ủy Ban Giải Phóng Dân  Tộc và sau đó là Cộng Sản liên  minh với Việt Nam Cách Mệnh Đồng  Minh Hội của Nguyễn Hải Thần, Quốc Dân  Đảng của Vũ Hồng Khanh và Đại  Việt Dân Chính của Nguyễn Tường  Tam. Đến khi Nhật Bản đầu hàng và  Chánh Phủ Trần Trọng Kim từ chức,  th́ thời thế đă chín muồi cho  Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động quần  chúng biểu t́nh áp lực Bảo Đại  và dư luận toàn quốc phải để  cho Việt Minh thành lập chính phủ. Cộng  Sản vừa có kế hoạch, vừa có  cán bộ cuồng nhiệt và liều lĩnh  để thực thi kế hoạch, nên ngày  17/8/1945, bọn chúng đă biến cuộc biểu  t́nh tại Nhà Hát Lớn Hà Nội,  thay v́ để ủng hộ Chính Phủ Trần  Trọng Kim, thành ủng hộ Việt Minh và  bất thần cho cán bộ đến chiếm Ṭa  Công Sứ một cách dễ dàng.
Tại Sài G̣n cũng vậy, trong lúc cán  bộ Cộng Sản do Moscow đào tạo Trần  Văn Giàu thuyết phục Mặt Trận Quốc  Gia Thống Nhất gồm có Đại Việt,  Cao Đài và Ḥa Hảo gia nhập VNĐLĐMH  để giải phóng đất nước th́  được tin Bảo Đại mời Việt  Minh thành lập chính phủ. Do đó mà  Mặt Trận tuyên bố giải tán để  trở thành Ủy Ban Lâm Thời Nam Bộ  do Trần Văn Giàu cầm đầu. Cứ  như thế mà Cộng Sản nhờ núp  dưới chiêu bài Việt Minh kháng chiến  lần lượt tiếm thâu quyền hành  từ Hà Nội, Huế, Sài G̣n và  các tỉnh trong toàn quốc. Tại Nam Kỳ,  lúc bấy giờ Phật Giáo Ḥa Hảo  do Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ sáng  lập thu hút hàng triệu tín đồ. PGHH  chủ trương “hành Đạo giúp Đời”  và đặt Ân Đất Nước lên  hàng đầu trong Tứ Ân Hiếu Nghĩa.  Do đó các tôn giáo khác, các chánh  đảng và đoàn thể yêu nước  qui tụ lại thành Mặt Trận Quốc Gia Liên  Hiệp do Đức Thầy lănh đạo với  sứ mệnh đánh đuổi Pháp để  tranh thủ độc lập cho nước nhà.
Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ của  Việt Minh là đảng viên Cộng Sản  Trần Văn Giàu lo ngại uy thế của Đức  Thầy và Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp.  Sẵn dịp ngày 8 tháng 9 năm 1945, lănh  tụ PGHH Năm Lửa ở miền Tây tổ  chức biểu t́nh hàng ngàn người  tại Cần Thơ để kêu gọi nhân  dân ủng hộ Chính Phủ Việt Minh và  yêu cầu vơ trang quần chúng để chống  xâm lăng, Trần Văn Giàu chụp mũ  Ḥa Hảo nổi loạn để đàn áp  cuộc biểu t́nh và bắt giữ một  số tín đồ PGHH, mặc dù cuộc biểu  t́nh đă được thông báo trước  cho nhà cầm quyền địa phương. Ngày  hôm sau, tức ngày 9 tháng 9, Trần Văn  Giàu cho Quốc Gia Tự Vệ Cuộc bao vây  trụ sở PGHH tại Sài G̣n để lùng  bắt Đức Thầy nhưng Đức Thầy  thoát nạn.
Thế chiến thứ II vừa chấm dứt  th́ Chính Phủ Pháp do De Gaulle lănh đạo  mang quân qua tái chiếm thuộc địa cũ  là Nam Kỳ. Tuy Việt Minh chưa ra lệnh “Tiêu  thổ kháng chiến”, nhưng chỉ thị dân  chúng thi hành chánh sách “Vườn không  nhà trống”, bỏ trống thành thị tản  cư về quê.. Quân đội Pháp sau khi  chiếm xong Sài G̣n đang chuẩn bị tiến  đánh các tỉnh. Trước khi chiến  cuộc lan tràn đến tỉnh nhà, mẹ tôi  hướng dẫn trọn gia đ́nh di tản  bằng đường thủy về quê ngoại  tại quận lỵ Tam B́nh thuộc tỉnh Vĩnh  Long. Gia đ́nh chúng tôi chỉ kịp mang theo  quần áo và mùng mền, bỏ lại tất  cả tài sản, khóa cửa nhà lại  để xuống ghe từ chợ Cần Thơ  theo sông Cửu Long xuôi miền Nam đến  Trà Ôn rồi nương theo kinh đào đến  quận Tam B́nh. Ghe vừa đến ngang quận  lỵ th́ thấy dân chúng tập họp đông  đảo khác thường tại cầu tàu.  Đến khi lại gần th́ chứng kiến  một cảnh tượng hăi hùng. Trên  cầu tàu, một người tuổi độ  tứ tuần bị lột áo để ḿnh  trần, đang bị cán bộ Cộng Sản hành  quyết bằng cách mỗ bụng v́ tội đàn  áp phong trào “Nam Kỳ Khởi Nghĩa” của  Cộng Sản trước đó vài năm.  Nạn nhân là một cựu Chánh Tổng  trước kia có cộng tác với cơ  quan an ninh của chính quyền Pháp ruồng bắt  cán bộ Cộng Sản tổ chức khá  đông tại Tam B́nh. Một hai tuần sau đó,  tôi có dịp chứng kiến một loạt  hành quyết khác tại các xă xung quanh  quận lỵ. Khác với lần đầu mỗ  bụng, các lần sau Cộng Sản chặt đầu  các nạn nhơn bằng mă tấu. Th́ ra,  thay v́ dùng súng, Cộng Sản cố t́nh  dùng những phương pháp rùng rợn  hơn như chặt đầu và mỗ bụng moi  gan để gây khiếp đảm và khủng  bố tinh thần dân chúng.
Tạm trú tại Tam B́nh độ một tháng  th́ được tin quân đội Pháp  tiến đánh Vĩnh Long nên gia đ́nh tôi  lại phải xuống ghe đi qua xă Phú Hữu  phía cực Nam của tỉnh Cần Thơ. Gia  đ́nh tôi tạm trú tại nhà bà  nội tôi ở ấp Kinh Nhỏ. Bà ở  một ḿnh trong một căn nhà ba gian, khá  lớn. Gian giữa có bàn thờ tổ  tiên, cùng một bộ tràng kỷ gơ đen,  cẩn ốc xa cừ để tiếp khách.  Hai bộ phản bằng ván gơ dầy 1 tấc  chiếm phía trước hai gian b́a, c̣n  phía sau th́ hai pḥng ngủ có cửa  gài khóa lại. Phía sau bề ngang rộng  ba gian dùng làm kho, sát vách hè có  10 mái đầm (lu cỡ thật lớn ở  miền Tây), 5 mái chứa nước mưa  để uống quanh năm, 5 mái c̣n lại  đựng lúa giống để gieo mạ mùa  lúa tới.
Sở dĩ nhà nội tôi có phần khá  hơn bà con trong xóm v́ khi sanh tiền, ông  nội tôi bao tá được vài chục  mẫu ruộng. Sau khi ông qua đời, bà  tôi chỉ c̣n giữ lại ngôi nhà,  c̣n lợi tức cũng chỉ đủ sống  đấp đổi qua ngày như đa số bà  con nghèo khác. Hai anh tôi mỗi người  được Ủy Ban Kháng Hành Tỉnh (Kháng  chiến Hành chánh) phát cho hai tháng lương.  Mẹ tôi rất tiện tặn v́ dự trù  có thể tản cư cả năm th́ phải  lo kinh tế tự túc chớ đâu thể  ỷ lại vào hai tháng lương này được.  Lớn nhỏ đều đổ ra đồng làm  rẫy, hàng ngang hàng dọc. Nào là dọc  theo mương th́ thả giàn trồng bầu,  bí đao, mướp, dưa leo, khổ qua, v.v..  Tận dụng các khoảng đất trống xung  quanh nhà để trồng các loại đậu  xanh, đỏ, đen, cùng bí rợ, và  các loại cải trắng, cải xanh, cải rổ,  v.v.. Ngoài công việc trồng trọt, c̣n  phải nghĩ đến thịt, cá để tăng  cường dinh dưỡng. Tôi và người  anh thứ tư của tôi tổ chức giăng  câu, thả chà dưới sông, đặt  lọp, lưới cá, ṃ tôm, v.v.. Các  em nhỏ tôi th́ chăn nuôi, săn sóc  các bầy gà vịt, lượm trứng,  cho ấp nở các bầy khác, Gia đ́nh  chúng tôi ít được dùng gà  vịt v́ phải dành để đổi lấy  gạo, đường, nước mắm, và  các loại vật dụng khác mỗi khi có  “ghe hàng” thổi “tù và” báo cho đồng  bào trong xóm đến đổi chác cho nhanh  v́ ghe c̣n phải qua các làng khác.
Chỉ tại vùng đồng bằng Cửu Long  ở Miền Tây là câu tục ngữ  “trời sinh voi sinh cỏ” có ư nghĩa nhất.  Đừng có lo. Đến mùa mưa lúa  lớn mạnh như thổi cùng với tôm  cá sinh sản tràn đồng. Kịp đến  ruộng khô không c̣n tôm cá nữa  th́ đến mùa lúa chín, là mùa  chim và chuột ăn lúa chín mập tṛn.  C̣n rắn th́ nhờ bắt được  nhiều chuột hơn trước nên cũng  to béo hẳn lên. Chim th́ “rô-ti”, rắn  th́ nấu cháo đậu xanh. Thịt chim hay rắn  đều có thể bầm nhỏ xào củ hành  xúc bánh tráng, lớn nhỏ đều  ưa thích. Chuột th́ thui rồi lột da, vứt  bỏ đồ ḷng, giữ lại mỡ sa  để thắng thành dầu thắp đèn  ban đêm. Thân chuột banh ra mập trắng  như heo sữa bày bán ở các sạp  thịt nhà lồng chợ. Món anh em tôi  thích nhất là chuột ớp sả ớt,  kẹp nướng than hồng, ăn với cơm  trắng và nước mắm tỏi ớt.  Tuy nhiên, trong các tháng nước kém,  cạn ḷi ḷng sông, cá tôm hoàn  toàn biến mất. Chuột rắn cũng không  c̣n. Nhiều hôm không t́m được  ǵ th́ lấy nước mắm kho sệt lại  để ăn với rau luộc. Có sống  ở nông thôn mới biết nước  ḿnh nghèo. Có chia sẻ cọng rau hột muối  với nông dân mới thương dân  ḿnh nghèo, dân ḿnh đói.

 

 

Nguồn: saigontimesusa

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18