Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Cây Dầu Đôi

DIÊN KHÁNH
 
Tôi sinh ra và lớn lên ở một nơi mà tên gọi trong sách địa lư và trong giấy tờ chỉ gồm hai chữ: Diên Khánh; nhưng trong thông dụng th́ chỉ có một chữ thôi: Thành. Tất nhiên, khi nói chuyện với người miền xa, như người Bắc, người Lục Tỉnh, tôi thường tự giới thiệu là người Khánh Ḥa, hay Nha Trang, để họ dễ nhận ra. Nhưng với người trong tỉnh, hoặc những tỉnh lân cận, th́ tiếng Thành vẫn rơ hơn.
Chị ở đâu? Tôi ở Thành. Xe này có chạy lên Thành không? Có, chạy qua Thành, tận Suối Dầu lận.
Trong những trường hợp kể trên, địa danh Diên Khánh sẽ không chính xác. Diên Khánh là một quận gồm nhiều xă c̣n thành Diên Khánh hay vắn tắt là Thành là một địa điểm của quận Diên Khánh, nằm bên phải quốc lộ 1, cách Nha Trang 11 cây số, trên đường đi về Nam.
Ngày xưa, Diên Khánh là phủ lỵ của phủ Diên Khánh, nên các quan trấn nhậm đă có xây thành tŕ để pḥng thủ. Dưới triều Minh Mạng, năm 1832, hai phủ Diên Khánh và B́nh Khang hợp nhất thành tỉnh Khánh Ḥa; Diên Khánh trở thành tỉnh lỵ và thành tŕ được củng cố từ đó. Nhưng qui mô và h́nh tích thành Diên Khánh mà ta thấy ngày nay th́ chỉ mới xây cách nay vừa đúng 100 năm, hoàn tất vào khoảng cuối năm 1893. Cứ theo lời các cụ già trong vùng th́ thành vẫn được giữ nguyên h́nh dạng như khi mới xây xong, chỉ mất đi những cḥi canh, những pháo đài, và những dinh thự bên trong.
Hồi c̣n nhỏ, từ bên ngoài vào trong nội thành để học trường tiểu học, tôi vẫn do cửa Đông ra vào. Mỗi lần đi bộ qua dưới cái cổng ṿng cung xây bằng gạch, tôi vẫn cố đi thật nhanh để khỏi bị đè bẹp nếu có sập đúng vào lúc tôi đi qua. Cổng hẹp, hai chiếc xe du lịch phải khéo lắm mới tránh nhau được ngay chỗ cổng. Cổng hẹp mà thành lại dày (có lẽ dưới chân phải đến 15 thước), nên đứng bên này trông sang bên cũng có vẻ hun hút lắm.
Đến khi lớn hơn chút ít, có dịp đi xe lửa chui qua những cái hầm thăm thẳm tối đen, tôi hết sợ và hết rảo bước mỗi khi đi qua cửa Đông. Tôi c̣n nhớ một lần, hồi ấy có lẽ tôi đă hơn mười tuổi, đi qua đó với anh tôi, tôi c̣n dừng lại dùng phấn viết hai chữ Cửa Đông lên tường. Anh tôi hỏi: “Em hết sợ nó sập rồi sao?”. Tôi không đáp, nhưng vẫn nhớ măi chuyện ấy cho đến bây giờ. H́nh như trong thâm tâm, tôi vẫn thích sợ cái cổng thành ấy hơn là không sợ. H́nh như khi cửa Đông không làm cho tôi sợ nữa, nó đă mất lần sự thân thiết đối với tôi. Thật là nghịch lư, nhưng mà thật. Mỗi lần đi qua đó, tôi không quay lại nh́n như trước kia nữa. Và mỗi lần như thế, tôi cứ ngậm ngùi lo lắng rằng nhiều năm sau nữa, khi tôi lớn lên nhiều nữa, thành người lớn, thành người già, tôi sẽ quên cái cửa Đông ấy đi, tôi sẽ quên hẳn nó đi...
Cứ theo con đường ngang từ quốc lộ 1 đi vào cửa Đông (ngày xưa là đường Trịnh Minh Thế, bây giờ gọi là Lư Tự Trọng), rồi đi măi qua phía bên kia thành, ta sẽ gặp cửa Tây. Có lẽ khi mới xây, thành Diên Khánh cũng có đủ bốn cửa Đông Tây Nam Bắc, nhưng về sau, cũng theo lời các cụ già, hai cửa Nam Bắc được bít lại để tiện việc pḥng thủ. Trong thời thuộc Pháp, tỉnh lỵ Khánh Ḥa được dời xuống Nha Trang, việc bố pḥng cho Diên Khánh không c̣n nghiêm nhặt như trước nữa, con đường xuyên qua hai cửa Đông Tây trở thành trục giao thông chính cho nội ngoại thành và cho cả vùng lân cận phía Tây.
Năm tôi học lớp Tư (Dự bị) trường tiểu học trong thành, hồi ấy tôi bảy tuổi, một hôm thầy giáo bịnh mà không có người dạy thay, học tṛ ngồi không làm ồn quá, thầy hiệu trưởng phải cho cả lớp nghỉ. Học tṛ ai về nhà nấy, mà rủ cũng không ai đi, tôi một ḿnh lững thững đi ra phía cửa Tây, đến chỗ cổng nhà thờ Hà Dừa, rồi quay đầu lại nh́n thật kỹ phía bên ngoài thành. Về sau, có dịp đi qua lại hai cửa thành nhiều lần, tôi nhận thấy hai cửa không khác ǵ nhau, nhưng hôm ấy, lần đầu nh́n thấy cửa Tây, tôi thấy nó khác lắm, khác với cửa Đông nhiều lắm. Nó có vẻ tối hơn, xù x́ hơn, và chẳng quen thân ǵ với tôi hết cả!
Tối hôm ấy, khi nghe tôi kể chuyện đi một ḿnh ra cửa Tây và đến tận cổng nhà thờ Hà Dừa, anh tôi trợn mắt: “Trời ơi, mày dám đi một ḿnh à?”
Các bạn có biết rằng đường từ cửa Đông tới cửa Tây chưa tới một cây số, và nhà thờ Hà Dừa rất gần cửa Tây không? Nhưng vào thời ấy, một đứa trẻ bảy tám tuổi một ḿnh đi như thế cũng đă là mạo hiểm lắm rồi!
Trong đời tôi, thành cổ ở Việt Nam, tôi chỉ mới thấy được có hai: Diên Khánh và thành Huế. Nhưng tôi biết chắc ai gốc ở Huế, hoặc đă từng trông thấy thành tŕ của cố đô Huế, th́ sẽ nhận ra thành Diên Khánh nhỏ quá và không có ǵ đáng nói. Nhưng Thành là của tôi, cửa Đông là của tôi, nên tôi cứ nhớ hoài.
Cách đây mấy năm, hồi ấy tôi c̣n ở Việt Nam, liên quân Hoa Kỳ và đồng minh đang đánh nhau với Iraq, báo chí truyền thanh truyền h́nh trong nước, và cả ngoại quốc nữa, đều gọi trận chiến ấy là chiến tranh vùng Vịnh. Tôi hỏi nhà tôi tại sao trên thế giới có nhiều nơi khác có vịnh, cũng lớn như vịnh Ba Tư, mà chỉ riêng vùng này được gọi là vùng Vịnh. Nhà tôi không trả lời ngay, mà hỏi lại tôi: “Thế tại sao có nhiều nơi khác có thành, mà chỉ riêng quê em được gọi là Thành?” Nhân đó nhà tôi giảng thêm về thói quen của ngôn ngữ trong việc áp dụng ưu tiên: trong tiếng Anh, tiếng Pháp, kilo có nghĩa là một ngàn, nhưng về trọng lượng, nói kilo không thôi, cũng đủ để người ta hiểu là một ngàn gram; micro là rất nhỏ, nhưng khi nói micro không thôi, th́ ai cũng hiểu đó là máy vi âm.
Té ra quê tôi đă được ngôn ngữ chọn ban cho ưu tiên của thói quen mà măi đến khi chiến tranh vùng Vịnh xảy ra, tôi mới có dịp suy ngẫm.
Thành Diên Khánh là một di tích lịch sử, nhưng trung tâm thị tứ của thị trấn Diên Khánh nằm bên ngoài phạm vi ṭa cổ thành. Một ngôi chợ bán đủ thứ, và quanh chợ có khoảng ba mươi căn phố cũng bán đủ thứ. Trước 1975, có mấy quán ăn nhỏ của người Việt, c̣n tiệm ăn lớn có bảng hiệu và bàn ghế nhiều th́ chỉ có một, và chủ là người Tàu. H́nh như ở đây, cái ǵ hơi lớn một tí, hơi phát đạt một tí, th́ là của người Tàu. Tiệm này bán thức ăn cả Tàu lẫn Việt khá ngon, nhưng điểm đặc biệt là cái tên của nó. Tên chữ nghĩa văn vẻ của nó viết thật to trên tấm bảng treo trước cửa không ai gọi tới, người ta chỉ gọi là tiệm A-Ùi. Ai cũng gọi như vậy. Khách phương xa đôi lần lai văng, tài xế xe lam chạy đường Nha Trang - Thành, tài xế xe đ̣ chạy đường Nha Trang - Suối Dầu, khách đi xe, người địa phương... đều gọi A-Ùi. Rồi A-Ùi kiêm luôn cái mốc để tính tiền xe: từ A-Ùi đi Cầu Dứa, từ cửa Tây tới A-Ùi v.v...
Hồi c̣n nhỏ, tôi thường tới A-Ùi mua cà phê cho anh tôi mỗi khi anh nổi cơn làm biếng, hoặc chỉ có đủ tiền mua một phin cà phê, ngượng không muốn tới tiệm. Một lần bước vào tiệm, tôi thấy ông A-Ùi đang cùng mấy người bồi bếp trong tiệm xúm lại trói tay trói chân bà A-Ùi, mà bà ta th́ không có một mảnh quần áo nào cả. Bà ta tự nhiên nổi cơn điên đập phá, rồi điên măi như vậy trong nhiều năm, gia đ́nh đă chạy thầy chạy thuốc cho bà ta rất nhiều, nhưng không khỏi. Khoảng 1970, tôi từ xa trở về thăm quê, đang đi qua chợ th́ gặp bà. Bà ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, cung cách không có vẻ ǵ là điên. Những người buôn bán trong chợ nói cho tôi biết khi bà phát điên cũng như khi bà hết điên, lần nào cũng đột nhiên cả. Đến năm 1979, khi gia đ́nh người Tàu ấy sắp rời Việt Nam, tôi lại gặp bà A-Ùi. Bà hỏi tôi: “Sao cô chưa đi?” Bây giờ th́ tôi đi được rồi, nhưng không biết gia đ́nh A-Ùi ở đâu để thăm hỏi.
Đứng chỗ tiệm A-Ùi, tức ngă ba quốc lộ 1 rẽ vào chợ Thành, ngó về hướng Nha Trang, chỉ trong ṿng chưa tới một cây số, chúng ta có ba cái mốc nữa, từ gần đến xa: Cầu sông Cạn, Cải Lộ Tuyến và Cây Dầu Đôi.
 
 
Có lẽ không có con sông nào mà tên đúng với thực tế bằng con sông Cạn. Trong mùa khô, ngang chỗ quốc lộ 1 chạy qua, ḷng sông gần như không có nước. Ḍng nước đứt hẳn, không c̣n một lạch nhỏ nào chảy. Chỉ c̣n những vũng nước lớn nhỏ rải rác đó đây trên một nền đá và cát thật rộng. Trẻ con có thể chơi đá banh ngay dưới gầm cầu. Hồi c̣n học trường tiểu học trong thành, có lần tôi và đám bạn học nữ cùng lớp đă nhận lời thách thức của bọn bạn học nam, chia phe đi qua cầu sông Cạn thử xem ai tới trước. Đám con gái chúng tôi đi trên cầu, đi chứ không được chạy; bọn con trai vượt ḷng sông và có thể chạy. Rốt cuộc, bọn con gái chúng tôi thua mà chẳng hiểu tại sao ḿnh thua, nếu về sau bọn con trai không tự ư khai ra chuyện họ ăn gian. Cầu xi-măng bằng phẳng dài chưa đến 200 thước, và chúng tôi cũng vừa đi vừa chạy chứ có đi không đâu, thế mà sao họ lại tới trước trong khi ḷng sông lởm chởm những đá và đầm vũng nước, lại thêm hai cái dốc lên xuống rất khó trèo. Thật ra bọn con trai dùng mẹo: họ đông quá, chúng tôi không nhớ mặt được, họ làm bộ chạy xuống ở đầu bên này, nhưng đám ào ra trước chúng tôi ở đầu bên kia đă phục sẵn dưới gầm cầu bên ấy, chỉ cần leo một cái dốc thôi.
Nhưng chuyện liên hệ đến cầu sông Cạn mà tôi, và có lẽ cả lớp Nhất trường Diên Khánh năm ấy, không bao giờ quên được là chuyện ông Trần Quư Cáp bị xử tử.
Cứ theo sách vở th́ ông Trần Quư Cáp bị xử tử lúc đang làm Giáo Thụ Diên Khánh, năm 1908. Thực dân Pháp và triều đ́nh khép ông vào tội phản nghịch (xách động chống thuế ở Trung Kỳ). Pháp trường xử chém ông là một băi cát ven bờ sông Cạn.
Gần nghỉ hè năm ấy, chúng tôi vừa thi tiểu học xong, nên không c̣n bài vở ǵ để học, thầy M. dẫn cả lớp đi du ngoạn. Khi đến cầu sông Cạn, thầy bảo chúng tôi đứng dồn cả lên lối đi dành cho bộ hành về phía thượng lưu, rồi chỉ xuống băi cát phía bên trái, nói:
- Đây là một địa điểm lịch sử.
Chúng tôi nh́n thầy chờ giải thích. Thầy lấy thuốc ra châm hút vài hơi rồi mới nói tiếp:
- Ông Trần Quư Cáp đă bị xử chém ở chỗ đó.
Có mấy tiếng nhao nhao hỏi:
- Có phải ông Trần Quư Cáp ở Nha Trang không thầy?
Có mấy tiếng cười. Thầy M. cũng cười:
- Sao tṛ lại nghĩ là ông Trần Quư Cáp ở Nha Trang?
- V́ con thấy đường Trần Quư Cáp dưới đó.
Thầy M. giảng:
- Ông Trần Quư Cáp là người Quảng Nam, v́ ông là danh nhân, nên được đặt tên đường khắp nơi. Nhưng ông bị xử tử ở đây v́ hồi ấy ông làm quan ở đây.
Thầy lại chỉ xuống băi cát bên chân cầu:
- Đấy, chỗ kia... Các tṛ có thể h́nh dung được cảnh pháp trường không?
Không ai trả lời thầy, v́ tất cả đang bận h́nh dung. Chợt A., đứa bạn gái ngồi cạnh tôi suốt năm lớp Nhất, nói:
- Thưa thầy, ông nội con có kể lại là ông có đi coi vụ xử đó. Ông nội con nói là xử ở băi Phú Lộc.
H́nh như thầy M. hơi lúng túng:
- Ở đây chứ... Hồi ấy thầy... thầy chỉ mới một tuổi, thầy không có đi coi. Nhưng về sau thầy nghe nói lại là ở băi này. Hồi ấy chắc chưa có cây cầu này đâu.
Câu chuyện chấm dứt ở đó. Và măi về sau này, t́m đọc lại đoạn sử liên hệ, tôi chỉ được biết là ông Trần Quư Cáp bị xử tử ở bờ sông Cạn, chứ không thấy xác định ở chỗ nào, ở băi chân cầu như thầy M. nói, hay ở băi Phú Lộc cách đó mấy cây số.
Vượt khỏi cầu sông Cạn về hướng Nha Trang chừng 150 thước, chúng ta sẽ gặp ở phía bên trái một ngă ba rất rộng. Đầu trong của Cải lộ tuyến đấy! Cải lộ tuyến là con đường tắt, mới làm khoảng cuối thập niên 60, mục đích là để tránh kẹt cho những xe chạy suốt trên quốc lộ 1 khi phải qua thành phố Nha Trang. Đoạn đường này ngắn, chưa đến mười cây số, nhưng khi mới làm xong rất rộng và rất tốt, đầu phía nam gần chỗ cầu sông Cạn, đầu phía bắc kết vào quốc lộ 1 phía ngoài đèo Rù Ŕ chừng vài chục thước.
Tôi không nhớ đích xác gia đ́nh tôi đi xe qua đoạn đường mới này lần đầu tiên là vào ngày tháng năm nào, nhưng chắc chắn chỉ sau ngày khánh thành một vài tuần thôi. Tất cả những tấm bảng chỉ dẫn hai bên đường đều rất tươi màu, có tấm c̣n ướt sơn, có tấm c̣n đang viết dở... Chuyến ấy, chúng tôi đi từ Quy Nhơn về Thành. Xe vừa qua hết Cải lộ tuyến, sắp lên cầu sông Cạn, tôi nghe thằng con đầu của chúng tôi nói với em gái kế nó:
- Đầu kia họ viết Cải lộ tuyến, đầu này họ viết Cải tuyến lộ.
Em gái nó quay đầu lại nh́n và reo lên:
- À... à... Cải tuyến lộ, nhưng đầu kia cũng Cải tuyến lộ vậy!
Những đứa em của chúng chỉ ngồi nghe v́ c̣n đang học mẫu giáo, không đủ tŕnh độ tham dự một cuộc tranh luận chữ nghĩa cao cấp như vậy. Nhà tôi đang bận lái xe nhưng cũng hỏi:
- Có thật hai bảng khác nhau không em?
Tôi không trả lời được, v́ không nh́n thấy. Chuyến trở về, chúng tôi lại quên để ư. Ít lâu sau, có dịp đi qua đoạn đường ấy, tôi chỉ thấy tấm bảng ghi Cải lộ tuyến ở chân bắc đèo Rù Ŕ; chỗ gần cầu sông Cạn không có tấm bảng nào cả. Tôi hỏi nhà tôi, Cải lộ tuyến và Cải tuyến lộ, cái nào đúng hơn, th́ nhà tôi đáp lừng khừng, cái nào cũng được!
Vượt khỏi Cải lộ tuyến chừng 50 thước nữa, chúng ta sẽ thấy bên vệ đường phía mặt ba thân cây thật to, chụm sát vào nhau, vươn thẳng lên trời. Hai thân thật lớn, kín sát mặt đất chắc phải trên thước rưỡi, một thân nhỏ hơn một chút. Có lẽ đây là một cái nhánh mọc ngay ở mặt đất. Hai cây chính rất cao, có thể trên 20 thước, cành không nhiều, lá cũng không rậm, nên có thể nh́n thấy rơ ngọn dù rất cao.
Câu Dầu Đôi đấy! Đây là một địa danh, có lẽ không được ghi vào sách địa lư nào cả, nhưng người Thành, người Nha Trang, ai cũng biết. Đó là một cái mốc trên đoạn đường Nha Trang-Thành, hành khách cần biết để tính tiền xe: Mả Vồng, Chợ Mới, Cầu Dứa, Phú Vinh, B́nh Cang, Vơ Cạnh, Cây Dầu Đôi, A-Ùi.
Nhưng riêng đối với tôi, Cây Dầu Đôi không phải chỉ là một cái mốc hay một địa danh. Đối với tôi, Cây Dầu Đôi là một kỷ niệm vô cùng thân thiết. Tôi biết đến Cây Dầu Đôi khi c̣n rất nhỏ, trước khi biết đến chợ Thành, cửa Đông, cửa Tây... Tôi sẽ nói cho các bạn biết tại sao.
Từ sau ngày lập gia đ́nh, tôi đă có dịp sống ở nhiều nơi không phải là quê nhà, nơi năm bảy tháng, nơi một vài năm, cũng có nơi lâu đến cả chục năm. Và ở bất cứ đâu, tôi cũng được nghe những địa danh bằng tên cây: Cây Mai, Cây Gơ (ở Sài G̣n), Hàng Sanh (ở Gia Định), Cây Duối (ở Mỹ Tho), nhưng không ở đâu tôi thấy c̣n những cây ấy hết cả. Cũng như tại thành phố Winnipeg đây, nơi gia đ́nh tôi đang cư ngụ, có một khu gọi là Seven Oaks (bảy cây sồi), trong khu vực có một bệnh viện lớn tên là Seven Oaks Hospital, nhưng bây giờ không c̣n thấy một cây sồi nào trong khu vực hoặc gần bệnh viện ấy.
Nhưng Cây Dầu Đôi của tôi vẫn c̣n đó. Không ai biết chắc Cây Dầu Đôi mọc lên ở chỗ đó từ bao giờ, nhưng chắc đă lâu lắm rồi, có thể từ cuối thế kỷ trước cũng nên. Tôi nghe cậu tôi nói ông đă thấy cây dầu ấy từ hồi c̣n nhỏ, lúc ấy cây dầu chỉ mới cao chừng năm sáu thước. Nếu c̣n sống đến nay, cậu tôi đă ngoài trăm tuổi.
Bây giờ tôi kể cho các bạn nghe kỷ niệm của tôi. Tôi mồ côi cha từ năm lên ba. Sau ngày cha tôi qua đời, gia đ́nh tôi bắt đầu sa sút. Hằng ngày mẹ tôi phải dậy thật sớm để xuống Nha Trang đứng bán hàng cho một sạp vải. Đến năm giờ chiều mẹ tôi mới về tới nhà. Suốt hơn 10 năm trời, chiều nào cũng như chiều nào, tôi đều đi đón mẹ từ Nha Trang về. Vài năm đầu, tôi đón mẹ ở cổng. Năm sáu tuổi, tôi đón mẹ ở A-Ùi. Bảy tuổi trở lên, tôi đón mẹ ở Cây Dầu Đôi. Khi tôi tự ư dời chỗ đón xa đến tận Cây Dầu Đôi, mẹ tôi cũng có rầy la chút ít, nhưng về sau, hễ thấy tôi đứng chờ ở đó, mẹ tôi xuống xe cùng tôi đi bộ về nhà. Mấy anh chị tôi có nói th́ mẹ tôi gạt đi:
- Em nó có thương mẹ th́ mới ra đó đón. Với lại mẹ cũng muốn đi bộ một đoạn cho khỏe. Cả ngày quanh quẩn trong sạp, tù túng quá...
Thế là từ đấy, suốt năm sáu năm trời, trừ những chiều mưa hay những ngày mẹ tôi không đi bán v́ bệnh hay bận việc cúng giỗ, chiều nào tôi cũng ra đứng chỗ Cây Dầu Đôi chờ mẹ, để được cùng mẹ đi về nhà. Trên đoạn đường non một cây số ấy, mẹ kể cho tôi nghe những chuyện ở sạp vải, ở chợ Đầm, và tôi kể cho mẹ nghe những chuyện ở nhà, ở trường.
Một hôm mẹ tôi về muộn hơn thường lệ đến cả tiếng đồng hồ. Chị cả tôi nóng ruột chạy ra, thấy tôi đang đứng dựa gốc dầu mà khóc. Chị mủi ḷng cũng khóc theo, nhưng cố nói đùa:
- Ê, lớn rồi đừng khóc nữa! Lỡ có thằng bạn học nào đi qua nó thấy, mai nó đồn rùm cả trường nghe cho mà xấu hổ.
Rồi chị đẩy tôi vào sát gốc dầu, lấy tay gang để đo:
- Chị nhớ hồi em mới ra đây đón mẹ, em chỉ cao ngang cái bướu này, bây giờ em đă cao hơn nó cả gang rồi, thấy không?
Phải, chị tôi nói đúng. Tôi cao lên, cây dầu cũng cao lên. Nhưng h́nh như cây dầu chỉ cao lên thêm ở phần trên ngọn thôi. Cục bướu mà chị tôi dùng làm mức để đo tôi hồi ấy, măi về sau này cũng chỉ cách mặt đất độ một thước thôi.
Trước khi sang Canada định cư, vợ chồng tôi có đưa các con về Thành từ biệt bà con. Một buổi chiều, tôi rủ nhà tôi đi dạo loanh quanh trong vùng, nhưng chủ ư là trở lại thăm Cây Dầu Đôi lần cuối cùng. Dạo ấy, ngang chỗ Cây Dầu Đôi phía bên kia đường có một ngôi quán bán chè. Chúng tôi vào đó ngồi, gọi chè ăn, để có th́ giờ nh́n cây. Nhưng mái quán thấp, mà cây th́ quá cao, chúng tôi phải ra đứng trước cửa quán mới trông thấy ngọn cây. Tôi kể lại chuyện đứng chờ mẹ cho nhà tôi nghe. Tôi nhớ tôi đă kể nhiều lần rồi, nhưng vẫn kể lại. Trước khi quay về, nhà tôi kéo tôi băng qua đường, bước lại sát gốc dầu, chỉ vào cục u trên thân cây, hỏi:
- Cái bướu này phải không? Bây giờ em cao hơn nó không phải chỉ một gang, mà hai ba gang rồi đấy.
Nhà tôi cười, tôi cũng cười theo, nhưng trong ḷng không thấy vui.
Mẹ tôi qua đời đă lâu. Nhưng cây dầu vẫn c̣n đó. Và có lẽ nó sẽ c̣n ở đó măi măi. Bây giờ dù có muốn, tôi cũng không thể nh́n thấy nó. Có bao giờ tôi lại được nh́n thấy Cây Dầu Đôi của tôi không?

Nguồn: saigontimesusa

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18