Ca Dao và Lịch Sử
Phương Nghi
Ca dao, tục
ngữ là tiếng nói của dân gian Việt, trải qua nhiều thời đại, từ thời xưa
và đến cả thời nay. Ca dao, tục ngữ phản ảnh tâm tư, t́nh cảm của người
dân trong sinh hoạt hằng ngày, không chỉ ở nơi đồng nội mà c̣n ở thành thị,
kinh đô. Tuy là ngôn ngữ dân gian, nhưng ca dao, tục ngữ không phải là
tiếng nói b́nh thường mà là ngôn ngữ có vần điệu, ngắn gọn và v́ ngắn gọn,
có vần điệu nên dễ phổ biến rộng răi trong quần chúng.
Từ trước,
người ta thường có quan niệm rằng ca dao, tục ngữ là văn chương b́nh dân,
phát xuất từ nông thôn, thật sự ca dao tục ngữ là tiếng nói của nhiều tầng
lớp dân chúng, và có lẽ phần lớn tác giả là những kẻ sĩ, cư ngụ ở khắp nơi,
từ thành thị đến nông thôn.
Ca dao, tục
ngữ là loại văn chương truyền khẩu, biểu hiện nhiều mặt sinh hoạt của quần
chúng Việt Nam, nhất là về mặt t́nh cảm, nên trong ca dao rất phong phú
khúc hát trữ t́nh. Ngoài ra, đặc biệt ca dao, tục ngữ c̣n biểu lộ những
nhận định của dân chúng đối với những hành vi tốt, xấu của con người trong
xă hội khi giao tiếp với nhau, hay b́nh luận, phê phán giới lănh đạo trong
chính quyền hiện tại, hoặc trong quá khứ, tức là những nhân vật lịch sử và
các biến cố liên quan đến vận mệnh dân tộc và đất nước.
Trường hợp này,
ca dao, tục ngữ có thể xem là một h́nh thức ngôn luận của quần chúng ở
thời đại xưa, khi xă hội chưa phát triển, chưa có điều kiện phổ biến dư
luận của người dân như là báo chí hoặc các h́nh thức thông tin trong thời
đại mới, mặc dù từ trước đă có thư tịch nhưng chỉ là để chuyển tải văn
chương, sử liệu, mô phạm (thánh mô hiền phạm) v...v...
Bài viết này
chỉ đề cập đến phần ca dao, tục ngữ có liên hệ với các vấn đề lịch sử Việt
Nam.
Nho giáo từ
Trung Quốc truyền sang đất Việt, qua giới nho sĩ, từ trước thường có quan
niệm trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Nhưng đối
với người dân Việt th́ không có quan niệm kỳ thị đó, nhất là đối với hạng
anh thư nữ kiệt.
-
Muốn coi lên núi mà coi
-
Coi bà quản tượng cỡi voi bành vàng
Rơ ràng câu ca
dao này đă ca ngợi công đức chống ngoại xâm của Triệu Nữ Vương (tức là
Triệu Thị Trinh - mà sử Tàu miệt thị gọi là Triệu Ẩu : Bà vú Triệu). Sau
cuộc nổi dậy chống Tô Định của Hai Bà Trưng bị thất bại, Bà Triệu noi
gương anh dũng đó đă phất cờ khởi nghĩa chống quân Đông Ngô. Khi Bà đánh
giặc, mặc áo giáp vàng cỡi voi xông vào quân địch như vào chỗ không người,
xưng danh hiệu là Nhụy Kiều tướng quân.
Sau một thời
gian dài bị lệ thuộc Trung Hoa, Việt Nam giành được độc lập và Ngô Quyền
thiết lập một vương triều tự chủ, sau hơn 10 thế kỷ chịu nhục của người
dân dưới ách đô hộ. Nhưng cuối đời nhà Ngô, v́ thế lực suy yếu, nên đă có
12 sứ quân nổi dậy, đánh lẫn nhau, làm cho dân t́nh khổ sở. Các sứ quân đó,
trong hơn 20 năm, vẫn xưng hùng xưng bá, không ai chịu phục ai. Kết cuộc,
họ phải khuất phục dưới tay Vạn Thắng Vương Đnh Bộ Lĩnh, tức Đinh Tiên
Hoàng sáng lập ra vương triều nhà Đinh. Phán xét sự tranh giành quyền lực
của các sứ quân và cuộc chiến thắng của Đinh Bộ Lĩnh, dân gian đă tóm gọn
trong câu ca dao :
-
Ở đời muôn sự của chung
-
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi
Thật vậy, ở
đời muôn sự của chung, nhưng của chung đó không phải là ai cũng có thể
chiếm hữu dễ dàng. Phải có tài năng hay mưu lược quyền biến.
Ngôi vua cuối
cùng của nhà Lư thuộc về Lư Chiêu Hoàng, tức là Chiêu Thánh công chúa, con
vua Lư Huệ Tôn, mới lên 7 tuổi. Quyền hành lúc đó ở trong tay Trần Thủ Độ.
Và Thủ Độ đă làm chủ hôn cho cháu là Trần Cảnh lấy Chiêu Hoàng, để chuyển
vương quyền qua nhà Trần. Quần chúng có ḷng lưu luyến nhà Lư đă tỏ ḷng
công phẫn và mỉa mai trong câu ca truyền khẩu :
-
Trống chùa ai đánh th́ thùng
-
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng
Dưới đời vua
Trần Anh Tông, v́ lư do chính trị, đă gả em gái là Huyền Trân công chúa
cho vua Chiêm là Chế Mân để đổi lấy 2 châu Ô, Lư (tức Địa Lư và Bố Chính),
sau đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu. Người Việt vẫn có tinh thần kỳ thị
chủng tộc, cho người Chiêm là giống man di, lên tiếng phản đối việc làm
này của triều đ́nh nhà Trần
-
Tiếc thay cây quế giữa rừng
-
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Quần chúng c̣n
tiếc thương cho thân phận một vị công chúa, lá ngọc cành vàng, phải lấy
chồng man rợ ở phương xa, qua ca khúc Nam B́nh , vẫn lưu truyền ở cố đô
Huế : "Nước non ngàn dặm ra đi...".
Về sau, Chế
Mân chết, vua Trần sai Trần Khắc Chung sang Chiêm t́m cách đưa Huyền Trân
về nước để khỏi bị hỏa thiêu theo chồng (theo tục lệ Chiêm). Dư luận quần
chúng có vẻ khắc nghiệt khi nghi ngờ về t́nh cảm của Trần Khắc Chung đối
với công chúa Huyền Trân trên chặng đường thủy dài ngày đưa công chúa về
nước. Người ta xót xa thân phận Huyền Trân, một lần nữa, qua tay Trần Khắc
Chung.
-
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
-
Đem ṿ nước đục lại vần lửa rơm
Nhưng đó chỉ
là chuyện đồn đại trong dân gian, không có bằng chứng ǵ xác thực.
Khi Lê Lợi dấy
binh chống Minh, khởi đầu ở vùng Thanh Hóa, sau chiếm lĩnh Nghệ An để mở
rộng khu vực chiến đấu, nhân dân đă phấn khởi ca ngợi vùng đất tự do ấy và
cổ vơ cuộc di dân vào vùng này :
-
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
-
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ
th́ vô
Các biến cố
lịch sử ảnh hưởng rất lớn đến đời sống dân chúng, nhất là loạn lạc. Chiến
tranh gây cảnh điêu tàn, chết chóc, nhà tan cửa nát. Nhân dân chỉ biết kêu
trời, bày tỏ nỗi oán thán :
-
Cái c̣ lặn lội bờ sông
-
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
-
-- Em về nuôi cái cùng con
-
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Ấy là thảm
cảnh của người dân phải thi hành nghĩa vụ ṭng quân dưới thời Nam Bắc
Triều, xảy ra cuộc chiến tranh Trịnh - Mạc. Cao Bằng là căn cứ địa trọng
yếu của nhà Mạc. Người lính trong câu ca dao trên thuộc hàng ngũ quân
Trịnh, được lệnh lên đường đánh quân Mạc, vỗ về vợ con trong buổi chia ly.
Từ khi Trịnh
Tùng diệt được nhà Mạc, dù với danh nghĩa phù Lê, nhưng tập trung mọi
quyền hành vào tay ḿnh rồi xưng Chúa, vua Lê chỉ c̣n giữ hư vị.
Trong lúc họ
Trịnh xưng chúa ở miền Bắc, th́ Nguyễn Hoàng được Trịnh Kiểm cho vào trấn
thủ Thuận Hóa từ trước, gây dần thế lực, đến lúc vững mạnh cũng xưng chúa
ở miền Nam. Rồi đôi bên gây nên cuộc Nam Bắc phân tranh, kéo dài đến non
nửa thế kỷ. Họ đánh nhau liên miên, xây thành đắp lũy kiên cố, hiểm trở để
pḥng chống nhau, nên có câu tục ngữ :
-
Hiểm nhất lũy Thầy
-
Thứ nh́ đồng lầy Vơ Xá
Lũy Thầy tức
là lũy Trường Dục, do Đào Duy Từ chỉ huy xây cất. Nhờ lũy này, quân Nguyễn
mới chống cự được lâu dài với quân Trịnh, phải lặn lội đường xa, vất vả
nên ở thế bất lợi trong việc tiến quân đánh Nguyễn. Cuộc nội chiến Nam
Bắc giữa hai nhà Trịnh - Nguyễn kéo dài, nhưng hai phe cũng liên tục kế
truyền nghiệp Chúa. Và cũng v́ chiến tranh quá lâu dài nên sau cuộc ngưng
chiến, với sông Gianh làm giới hạn hai miền Nam Bắc, họ Trịnh tổ chức một
xă hội gần như thanh b́nh ở Bắc. Các vua chúa cũng như quần thần có mức
sống xa xỉ, trụy lạc. Theo tập "Vũ Trung Tùy Bút" của Phạm Đ́nh Hổ, đời
chúa Trịnh thứ 12 là Trịnh Sâm thường tổ chức nhiều cuộc vui chơi ở ly
cung trên Tây Hồ, sai người xây cất luôn măi. Mỗi lần vui chơi th́ lại có
binh lính hầu quanh hồ, các nội thần th́ giả làm đàn bà và dân th́ bày bán
hàng hóa như ở chợ để vua quan mua sắm.
Cũng dưới
triều Trịnh Sâm, phế bỏ con cả là Trịnh Khải, lập con thứ là Trịnh Cán làm
thế tử (con của sủng phi Đặng Thị Huệ, thường gọi là Bà Chúa Chè), giao
cho Huy Quận Công Hoàng Đ́nh Bảo làm phụ chính. Khi Trịnh Sâm mất, đảng
Trịnh Khải mưu với quân tam phủ nổi loạn, giết Quận Huy và được tam quân
(thường gọi là loạn kiêu binh - hạng lính được ưu đăi, tuyển mộ ở Thanh
Nghệ = Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần) lập lên làm Chúa, tức là Đoan Nam
Vương. Khi Trịnh Sâm c̣n sống, ham vui thú ăn chơi, nên mọi quyền hành ở
tay Quận Huy. Ông này tự do ra vào cung cấm và có mối liên hệ bất chính
với Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Việc này không tránh khỏi búa ŕu của dư luận
quần chúng :
-
Ba quân có mắt như mờ
-
Để cho Huy Quận vào sờ chính cung
Khi viết tập "Vũ
Trung Tùy Bút", về việc chúa Trịnh ham mê hưởng lạc, bày cảnh vui chơi làm
khổ dân với nhiều sai dịch, Phạm Đ́nh Hổ đă cho là có sự bất tường. Cho
nên hết đời Trịnh Sâm, các con ông là Trịnh Khải và Trịnh Cán v́ tranh
quyền đă gây rối loạn ở kinh thành. Trịnh Cán (con Tuyên phi Đặng Thị Huệ)
mới được lập lên, với sự hỗ trợ của Quận Huy, chưa được hai tháng, th́ bị
anh là Trịnh Khải trừ diệt. Và các chúa Trịnh từ đó về sau cũng v́ lư do
nữ họa mà mất nghiệp :
-
Sự này chỉ tại Bà Chè
-
Cho Chúa mất nước cho Nghè làng xiêu
Về chuyện hai
anh em họ Trịnh tương tàn, dân gian đă cố lời bàn tán :
-
Đục cùn th́ giữ lấy tông
-
Đục long cán găy c̣n mong nỗi ǵ
"Tông" ám chỉ
tước hiệu của Trịnh Cán (Tông Đô Vương).
"Đục long cán
găy" là nghiệp chúa của Trịnh Cán không tồn tại bao lâu.
Lịch sử Việt
Nam từ thế kỷ thứ 17 đến đầu thế kỷ thứ 19, suốt 200 năm là một chuỗi biến
cố đẫm máu. Hết cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, đến cuộc tương tranh Nguyễn
- Tây Sơn. Từ lúc anh em Tây Sơn khởi nghĩa, chủ yếu là vua Quang Trung,
lập nên một triều đại huy hoàng với nhiều vơ công oanh liệt, nhưng khá
ngắn ngủi :
-
Đầu cha lấy làm đuôi con
-
Mười bốn năm tṛn hết số th́ thôi
Tương truyền
đây là một câu sấm ứng vào việc triều Tây Sơn mất nghiệp sau 14 năm. Đầu
chữ Quang ( - Quang Trung) lấy làm đuôi chữ Cảnh ( - Cảnh
Thịnh).
Một câu ca dao
khác , cũng cùng ư nghĩa :
-
Cha nhỏ đầu con nhỏ chân
-
Đến năm Nhâm Tuất (1802) th́ thân chẳng c̣n
Chữ "tiểu" ở
trên đầu chữ Quang, ở chân chữ Cảnh.
Trong xă hội
Việt Nam ngày trước, có hạng sĩ phu, ở lẫn trong dân chúng, thường nhận
định về các hoạt động của giới cầm quyền đương thời và đề xuất những câu
sấm để tuyên truyền cho một phe phái nào đó. Câu sấm được truyền trong dân
gian bằng cách dạy cho trẻ con hát khi nô đùa ở các nơi công cọng. Chẳng
hạn câu sấm sau đây, dưới h́nh thức ca dao, được truyền là của các cựu
thần nhà Mạc tổ chức chống Trịnh làm ra để liên lạc với các đồng chí t́m
đến cơ sở ở mạn Bắc :
-
Ai lên Phố Cát
Đại Đồng
-
Hỏi thăm cô Tú
có chồng hay chưa ?
-
Có chồng năm
ngoái năm xưa
-
Năm nay chồng
bỏ như chưa có chồng
Dù chiến tranh
xảy ra giữa hai miền Nam Bắc hết sức khốc liệt, nhưng hai họ Trịnh Nguyễn
vẫn thực hiện những công cuộc phúc lợi ở vùng họ cai trị.
Ở Nam, các
chúa Nguyễn nhiều đời trấn thủ, mưu cầu an cư lạc nghiệp cho dân chúng.
Dưới đời chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu, đường đi qua vùng Hồ Xá - Quảng
Trị (tức truông nhà Hồ) thường có bọn cướp ẩn núp, cướp bóc kẻ qua đường.
Năm 1722, Chúa sai ông Nguyễn Khoa Đăng, làm Nội Tán, đi đánh dẹp bọn cướp
đó. Người dân ca tụng việc ấy, qua câu ca dao quen thuộc :
-
Sợ truông nhà
Hồ sợ phá Tam Giang
-
Phá Tam Giang
ngày rày đă cạn
-
Truông nhà Hồ,
Nội Tán cấm nghiêm
Phá Tam Giang
ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, nơi có 3 sông lớn của Huế (sông Ô Lâu,
sông Bồ,sông Hương) chảy về rồi đổ ra cửa biển Thuận An. Phá này nhiều
sóng lớn, thuyền bè qua lại khó khăn, về sau cạn đi.
Sau một thời
gian dài, suốt 25 năm, đấu tranh gian khổ, Chúa Nguyễn AÙnh đă có thế vững
mạnh, tiến quân ra Trung để chiến thắng Tây Sơn. Nhân dân miền Nam vốn có
cảm t́nh với nhà Nguyễn đă truyền câu hát :
-
Lạy trời cho
chóng gió nồm
-
Để cho Chúa
Nguyễn giong buồm thẳng ra
Khi Chúa
Nguyễn c̣n ở trong Nam, tổ chức cuộc Nam tiến vào đất Gia Định, khẩn hoang
lập ấp. Dân chúng đồng ḷng cổ vơ :
-
Nhà Bè nước
chảy rẽ hai
-
Ai về Gia Định
Đồng Nai th́ về
Vua Gia Long
thống nhất sơn hà, lập nên triều Nguyễn, truyền được 13 đời vua. Kế tục sự
nghiệp mở nước của Thế Tổ Gia Long, vua Minh Mạng đă có công dẹp các vụ
nổi loạn ở Bắc và Nam, cũng như chống cự ngoại xâm (Xiêm), chiếm Chân Lạp,
bảo hộ Ai Lao.
Về nội trị,
vua chấn chỉnh luật pháp, chế độ, làm thành một nước có kỷ cương, văn hiến.
Trong việc bảo vệ phong tục, vua đă chạm đến tinh thần bảo thủ của người
dân miền Bắc, tức là cấm đàn bà mặc váy :
-
Tháng sáu có
chiếu vua ra
-
Cấm quần không
đáy người ta hăi hùng
-
Không đi th́
chợ không đông
-
Đi th́ phải
lột quần chồng sao đang ?
Dưới triều vua
Tự Đức, nhiều biến cố trọng đại đă xảy ra. Từ những vụ nổi loạn ở miền Bắc,
chủ trương phù Lê, như giặc Châu Chấu (có Cao Bá Quát làm quốc sư), Cai
Tổng Vàng ở Bắc Ninh, giặc Khách ở Cao Bằng. Ở triều đ́nh, có người anh
vua Tự Đức là Hồng Bảo, âm mưu đoạt ngôi nhưng thất bại. Năm 1886, nhân
dịp vua Tự Đức cho xây Khiêm Lăng ở Vạn Niên (Huế), ba anh em họ Đoàn (Đoàn
Trưng, Đoàn Trực, Đoàn Ái) khai thác nỗi oán hận của người dân phải đi
làm phu gian lao vất vả, nổi dậy chống triều đ́nh. Họ khích động dân bằng
câu ca dao :
-
Vạn niên là
Vạn niên nào
-
Thành xây
xương lính, hào đào máu dân.
Trong cuộc
khởi nghĩa nầy, họ Đoàn tôn Đinh Đạo (con của Hồng Bảo - cải họ Đinh, sau
khi Hồng Bảo bị tội, tự thắt cổ chết) làm minh chủ. Vụ này cũng không
thành công. Ngoài các vụ nổi loạn, triều vua Tự Đức c̣n phải đối phó với
cuộc xâm lăng của người Pháp.
Tự Đức là ông
vua có tinh thần bảo thủ, từ khước đề nghị canh tân của các sĩ phu, nhất
là Nguyễn Trường Tộ, nên vận nước có chiều suy vong. Vua Tự Đức chỉ là một
nho sĩ thuần túy, có tiếng hay chữ nhất triều Nguyễn, ưa thích thi văn,
ngâm vịnh. Dưới triều vua, có ông Lê Ngô Cát là một danh sĩ, đă soạn một
bộ sử bằng văn vần là "Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca". Soạn xong, ông dâng lên
vua Tự Đức ngự lăm. Vua xem rồi ban thưởng cho ông Cát :
-
Vua khen thằng
Cát nó tài
-
Ban một cái
khố với hai đồng tiền
Việc ban
thưởng này, có lẽ do chuyện bàn tán giữa các đồng liêu với ông Cát ở triều
đ́nh, nhưng lại lọt ra ngoài, nên dân gian đă có lời phẩm b́nh mỉa mai
trên, cho rằng vua Tự Đức không quí trọng văn tài của người khác.
Sau khi vua Tự
Đức mất, quyền hành ở triều đ́nh Huế thuộc về hai ông Tôn Thất Thuyết và
Nguyễn Văn Tường. Hai ông này trong bốn tháng đă phế và lập 3 vua : Dục
Đức, Hiệp Ḥa và Kiến Phúc. Cho nên thời đó, trong dân gian có câu, giữa
lúc có sự tranh chấp giữa Pháp và Việt :
-
Nhất giang
lưỡng quốc nan phân THUYẾT
-
Tứ nguyệt tam
vương triệu bất TƯỜNG
Nghĩa là : Một
sông hai nước (Việt - Pháp) không thể thương thuyết, bốn tháng ba vua
điềm chẳng lành. (cuối 2 câu có tên hai ông Thuyết và Tường).
Thời gian
triều đ́nh Huế khởi xướng công cuộc chống Pháp với các đại thần và các
tướng lănh, dù có tâm huyết nhưng thiếu kinh nghiệm lănh đạo chiến tranh,
nên dân chúng đă có lời b́nh phẩm có phần khắc nghiệt :
-
Nước Nam có
bốn anh hùng
-
Tường gian
Viêm dối Khiêm khùng Thuyết ngu
Tường là
Nguyễn Văn Tường, trước sát cánh với Tôn Thất Thuyết chống Pháp, sau ra
hàng. Viêm là Hoàng Kế Viêm, trước cũng chống Pháp, sau được vua Đồng
Khánh phục chức và sai đi dụ hàng vua Hàm Nghi. Khiêm là Ông Ích Khiêm,
một vị quan thời Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường chuyên quyền, v́ tính
khẳng khái, không luồn cúi cấp trên, làm phật ư hai ông Tường, Thuyết nên
bị giam vào ngục. Dân gian nói ông Khiêm "khùng" v́ có tính khí khác
thường, ngang bướng, không chịu khuất phục cường quyền. Và "Thuyết ngu",
ngụ ư cho rằng ông Thuyết là một kẻ "hữu dũng vô mưu". Dù sao, dư luận
quần chúng cũng chê hai kẻ gian dối và khen hai người trung can, nghĩa khí.
Thời Pháp xâm
lược nước ta, người dân không khỏi buồn ḷng nh́n thế sự rối reng :
-
Đêm đêm chớp
bể mưa nguồn
-
Hỏi người quân
tử có buồn chăng ai ?
Nhất là cảnh
quốc phá gia vong với một triều đại suy tàn :
-
Một nhà
sinh đặng ba vua
-
Vua c̣n
(Đồng Khánh) vua mất (Kiến Phúc) vua thua chạy dài (Hàm Nghi)
Tuy thua chạy
dài, nhưng vua Hàm Nghi với sự phù trợ của Tôn Thất Thuyết và các trung
thần, nghĩa sĩ đă phát hịch kêu gọi nhân dân hưởng ứng chống Pháp, khởi
xướng phong trào Cần Vương ở khắp nơi. T́nh trạng trong nước Việt lúc bấy
giờ đă phân hóa làm hai :
-
Gẫm xem thế sự
thêm rầu Ở giữa Đồng
Khánh, hai đầu Hàm Nghi
Ở giữa, tức là
kinh đô Huế, hai đầu là Nghệ Tĩnh và Nam Ngăi, nơi phát triển phong trào
Cần Vương.
Tinh thần ái
quốc của người Việt vẫn liên tục sôi nổi. Dù công cuộc chống Pháp của vua
Hàm Nghi bị thất bại, nhưng đến đời vua Thành Thái, âm mưu chống Pháp vẫn
âm thầm trong trí vị vua đă từng giả điên giả cuồng để tránh mắt ḍ xét
của người Pháp.Dân gian phát hiện một hành động của vị vua yêu nước này,
mà người ta tưởng lầm là hành vi bất chính, khi vua vốn mang tiếng điên
khùng :
-
Kim Long có
gái mỹ miều
-
Trẫm thương
trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi
Tương truyền
vua Thành Thái có tổ chức một đội nữ binh ở ngoại thành, một địa điểm bí
mật ở vùng Kim Long và giao cho một vị tướng phụ trách huấn luyện để chờ
dịp khởi nghĩa. Nhiều đêm vua xuất cung vi hành để đến xem xét kết quả của
việc huấn luyện đó.
Vua Duy Tân
lên làm vua lúc mới 8 tuổi, nhưng lớn lên có chí khí và có ḷng yêu nước
mănh liệt. Cũng như vua Thành Thái, vua Duy Tân có ư chống Pháp. Vua
thường ra ngoài cung điện để xem xét dân t́nh và t́m cách liên lạc với các
nhân sĩ. Đi dạo chơi trên băi biển, tay vấy cát, người hầu lấy nước cho
vua rửa. Vua nói : "Tay nhớp (bẩn) lấy nước rửa, thế nước nhớp lấy ǵ mà
rửa ?".
Phong trào Văn
Thân bí mật liên lạc với vua để t́m phương cứu quốc. Năm 1915, đảng Việt
Nam Quang Phục cử Trần Cao Vân và Thái Phiên hợp tác với vua mưu đồ khởi
sự. Họ hẹn gặp nhau trên bờ sông Ngự Hà, giả làm người đi câu để tránh tai
mắt địch. Rồi mưu đồ phục quốc của vua Duy Tân cũng bị thất bại và vua
phải đi đày. Người dân Huế thương tiếc vua cùng các nghĩa sĩ Trần Cao Vân
và Thái Phiên đă hiến thân v́ nước :
-
Chiều chiều
ông Ngự ra câu
-
Cái ve cái
chén cái bầu sau lưng
Và trên ḍng
Hương Giang, nhiều năm sau, trên các chuyến đ̣ dọc, người ta c̣n nghe mấy
câu ḥ trầm thống, bi đát, đầy tâm sự của kẻ mang hoài băo cứu nước không
thành :
-
Trước bến Văn
Lâu
-
Ai ngồi ai câu
-
Ai sầu ai thảm
-
Ai thương ai
cảm
-
Ai nhớ ai mong
-
Thuyền ai thấp
thoáng bên sông
-
Nghe câu mái
đẩy chạnh ḷng nước non.
o0o
Như trên đă
nói, ca dao là phản ảnh một phần nào dư luận của quần chúng Việt Nam đối
với các hiện tượng trong xă hội ở thời kỳ các phương tiện truyền thông
bằng văn tự chưa phát triển.
Với người dân,
các hành vi của giới cầm quyền, cũng như hành động của các nhân vật trong
nước, đều phải chịu sự b́nh phẩm, phán xét của công luận. Những hành vi có
đạo đức, thiện tâm được khen ngợi, ca tụng, trái lại xấu xa, đê tiện đều
bị chê bai, nguyền rủa.
Trăm năm bia
đá cũng ṃn
Ngàn năm bia
miệng vẫn c̣n trơ trơ
Ca dao, nhất
là loại ca dao có liên quan đến lịch sử Việt Nam là tấm bia miệng để đời
cho người ta ghi nhớ, là tấm gương cho nhiều thế hệ soi chung và bản thân
những câu ca dao đócũng là những phán xét của lịch sử./.
Phương Nghi