|
Đồng dao và tṛ chơi trẻ em
những h́nh thức giáo dục trẻ
dần bị lăng quên
TRẦN XUÂN TOÀN
Các nhà giáo dục
băn khoăn, loay hoay đi t́m một phương pháp giáo dục trẻ em thật sự có hiệu
quả trong thời đại mà thông tin bùng nổ và kỹ thuật điện tử xâm nhập đến
từng mái trường, từng gia đ́nh, đến từng trẻ em. Làm sao có thể yên tâm với
con em ḿnh khi chúng hàng ngày ṿi vĩnh tiền bạc của cha mẹ để xúm xít bên
những tṛ chơi điện tử, những karaoke, hay vào những trang web không hợp với
lứa tuổi? Cũng như trước đây, ta đă từng chứng kiến sự tràn ngập của khối
vuông rubic lăn tṛn trên tay chẳng những ở trẻ em mà cả người lớn nữa.
Ở đây, ta không nói
chuyện được - mất trong những tṛ chơi đó. Nhưng có lẽ hầu như chúng ta đă
lăng quên một phương pháp giáo dục đầy hiệu quả mà chúng ta có sẵn: đó là
kho tàng đồng dao và tṛ chơi trẻ em. Riêng về lĩnh vực giáo dục, kho tàng
này cung cấp nội dung và phương pháp giáo dục “không thầy, không sách” tương
đối rơ ràng và đầy đủ hơn cả.
Đồng dao bao gồm
nhiều loại: Các bài hát, câu hát trẻ em, lời hát trong các tṛ chơi, bài hát
ru em... Tṛ chơi cũng lắm, như tṛ chơi vận động (dung dăng dung dẻ, chơi
khăng, đánh đáo), tṛ chơi học tập (đánh chuyền, đánh ô), tṛ chơi mô phỏng
(đi chợ, làm nhà), tṛ chơi sáng tạo (xếp thuyền, đánh trận, chơi diều). Cả
kho tàng phong phú ấy là phương tiện giáo dục trí, đức, thể, mỹ cho các em.
Qua đó phát triển tâm lư, thể lực, trí tuệ trước mắt và nhân cách của các em
trong tương lai.
Thật vậy, ông bà ta
nhận thức rằng để giáo dục trẻ em phải thông qua con đường t́nh cảm là hiệu
quả nhất. Đầu tiên là t́nh mẹ con tràn trề thấm thía qua những bài hát ru “cục
ta cục tác, con diều hâu hung ác, gà con ở đâu, về mau mẹ ủ, mẹ con đông đủ,
chẳng sợ diều hâu”.
Rồi đến t́nh cảm với những vật gần gũi: con gà, con chó, cái chổi, con dao...
Trong lời hát, truyền cho các em sự cảm thông nồng ấm. Dần dần, rộng ra một
chút, cho các em tiếp xúc với thiên nhiên rộng lớn bên ngoài. Rồi không ai
không buồn cười, thú vị khi em bé đút hạt xôi vào miệng dế mèn hay kết những
cánh hoa thành áo cho cào cào: “Cào
cào giă gạo tao xem, tao may áo đỏ, áo đen cho mày”.
Từ t́nh yêu với con sâu, cái kiến, khi các em lớn lên vài tuổi, tiếp xúc,
tham gia công việc đồng áng với người lớn, các em yêu cả những con chim, con
c̣, con trâu, con nghé... quanh ḿnh. Các bài đồng dao Gọi mẹ, Gọi nghé của
trẻ mục đồng; đồng dao về chim, về lá, về hoa quả... đều toát lên một t́nh
cảm yêu thiên nhiên, yêu lao động đậm đà bát ngát.
Đồng dao cung cấp
cho các em kiến thức, không là kiến thức hệ thống như tư duy người lớn mà là
tŕnh bày liệt kê, dừng lại ở những nét bề ngoài dễ nhớ, dễ phân biệt, kích
động trí ṭ ṃ ở trẻ em. Đó là công dụng đồ vật: “Con
trâu cày xiên, cái liềm gặt lúa”,
phân biệt giống vật “Chàng
chàng lót ổ bụi tre, chèo bẻo lót ổ mái đ́nh”.
Hay dạy cho các em chơi chữ, tập quan sát: “No
ḷng phỉ dạ là con cá cơm, không ướp mà thơm là con cá ngát, liệng bay thấm
thoát là con cá chim”.
Phải chăng đây là cách dạy từ ngữ vui nhộn phù hợp với các em, làm các em
nhớ đến tên loài vật xung quanh ḿnh?
Chẳng những cung
cấp kiến thức tự nhiên, đồng dao c̣n là một kho kiến thức xă hội, về hội hè,
đ́nh đám, trong họ ngoài làng, về đồ ăn, thức uống: “Những
nồi cơm nếp, những tệp bánh chưng, mứt bí, mứt gừng, mứt chanh, mứt khế”.
Các em được chuẩn bị từ tuổi hoa niên những kiến thức về nghề nghiệp trong
xă hội sau này: “Ông
thầy có sách, thợ ngạnh có dao, thợ rèn có búa”
hay: “Ai cày ruộng nuôi
trâu, ai trồng dâu nuôi tằm, ai hay nằm nhịn đói”.
Đồng dao cũng dạy các em phê phán thói hư tật xấu, sự lười nhác: “Cho
đi học chữ- nhiều chữ ai vay, cho đi học nghề- rằng nghề ở tớ, cho đi làm
thợ- nói: nghề ấy buồn”...
Thậm chí, các em bé gái được đồng dao trang bị cho kiến thức nữ công gia
chánh đặc biệt: “Bắt
được cua bấy đem về nấu canh, băm tỏi băm hành, xương sông lá lốt”,
hay “canh ốc th́ ngọt,
canh bứa th́ chua”.
Đồng dao được các
em hát trong lúc tổ chức tṛ chơi. Nhiều khi lời đồng dao được hát, tổ chức
tṛ chơi dường như không có đề tài nào tập trung, gặp đâu nói đó, chỉ cốt
cho vần vè, c̣n ư nghĩ chung th́ rời rạc, câu nọ xọ câu kia, chuyện này sang
chuyện khác. Trẻ em vẫn thích thú v́ nó phù hợp với trí lực của các em,
không thể đ̣i hỏi các em tư duy như người lớn được. Đồng dao và tṛ chơi trẻ
em được tiếp thu bằng ấn tượng về ngoại vật chứ không phải bằng lư luận.
Có thể thấy việc
học văn hóa cơ bản qua đồng dao và tṛ chơi không dạy chữ, thế mà các em vẫn
đếm, vẫn tính nhẩm, cộng trừ từ “chuyền một” đến “chuyền chuyền mười”, từ
“năm lên sáu” hay “bốn lên bảy” trong tṛ chơi chuyền chuyền... Tṛ chơi
“đánh ô ăn quan” dạy trẻ em tính nhẩm về chia, trừ, quan sát chiều ngược,
chiều xuôi để động năo một cách tự lực chỉ có bạn mà không có thầy. Thật là
một cách giáo dục có ư nghĩa.
Tṛ chơi c̣n giáo
dục thể lực ở trẻ. “Đánh chuyền” với động tác “nâng lấy một, chộp lấy đôi,
sang tay qua, ra tay chống” chẳng phải có tác dụng luyện gân, các cơ ở cổ
tay, cánh tay, khuỷu tay cho bé gái sao? Tṛ “đánh khăng” ít nhiều là môn
thể thao là sự vận động toàn diện kết thúc với chạy, nhảy, đuổi bắt, cơng
nhau. C̣n bao tṛ chơi khác với cách thức luyện tập khác nữa. Quan sát kỹ ta
thường thấy các tṛ chơi thường lặp đi lặp lại. Người lớn xem hay chơi có
thể chán, nhưng với trẻ em đó là một việc thú vị. Cùng cách chơi “Đuổi bắt”
nhưng được các em biến hóa xê dịch trong nhiều tṛ chơi... Qua tṛ chơi, các
em được dịp rèn luyện mắt, chân tay, luyện thính giác, khướu giác...
Và sau cùng đồng
dao và tṛ chơi như những chất keo nối kết những t́nh bạn trong sáng, ngây
thơ giữa lũ trẻ với nhau mà ta khó t́m thấy trong những tṛ chơi hiện đại
ngày nay.
Kho tàng đồng dao
và tṛ chơi trẻ em Việt Nam quả thật là những h́nh thức giáo dục thiếu nhi,
nhi đồng có hiệu quả. Tiếc rằng, với cuộc sống hiện tại, nó dần mai một đi
trong thực tế. Chúng ta hiếm khi bắt gặp h́nh ảnh các em tụm năm tụm bảy
rồng rắn lên mây, bịt mắt bắt dê... vào những đêm trăng sáng. Có đứa trẻ nào
biết đến những bài đồng dao phù hợp với ḿnh? Nhà trường có giảng dạy đồng
dao nhưng đó chỉ trên lư thuyết, mà cũng thật ít ỏi làm sao!
Trần Xuân Toàn
|