  
                      Thạch Bích biên soạn 
                       
                       
                      Các cụ nhà ḿnh vẫn bảo rằng:„Miếng 
                      trầu là đầu câu chuyện“. Đúng thế! Muốn tán em, cứ mời em 
                      đi thưởng thức bún riêu ốc, cua nướng hay hủ tiếu Mỹ Tho ở
                      Bamboo Grill. C̣n muốn 
                      ngồi cà cưa, đưa nhau ra Hè Phố. 
                      Nếu em là gái „Bắc ḱ di cư“, dẫn em đi ăn ... 
                      Phờ 54 cho được việc. Cuối 
                      tháng, hầu bao có xẹp, ít nhất cùng em ghé 
                      Bánh ḿ Chợ Cũ, kiếm cái gặm 
                      đỡ. Trước khi dźa, d́u em qua bên 
                      Thạch Cali nữa, là ... chắc ăn một trăm phần 
                      dầu!  
                       
                      Không phải chỉ có dân An Nam ḿnh coi trọng miếng ăn đâu 
                      nhé; dân Đức, mắt xanh tóc vàng mũi lơ, cũng kháo nhau: „Liebe 
                      geht durch den Magen!“, nghĩa là „T́nh yêu đến qua bao tử!“. 
                      Ấy! Cái miếng trầu quan trọng là thế, nên trong ca dao, 
                      tục ngữ của ḿnh „ăn“ chiếm một vị trí rất đáng kể: 
                       
                      Ăn tiêu, nhớ tỏi bùi ngùi 
                      Ngồi bên đám hẹ, nhớ mùi rau răm 
                      Hỡi người quân từ trăm năm, 
                      quay tơ có nhớ mối tằm hay không?  
                       
                      Tuy thế, có ăn, cũng ăn có chừng, có mực, chớ cái kiểu: 
                       
                      Ăn rồi nằm ngửa nằm nghiêng 
                      Có ai (muốn) lấy tớ th́ khiêng tớ về  
                       
                      dám có ngày bội thực, nằm đưa cái bụng ễng ương lên trời, 
                      hóa ra … hỏng chuyện! 
                       
                      Người ḿnh c̣n bảo: “Nhà sạch th́ mát, bát sạch ngon cơm”, 
                      nghĩa là ăn thường đi đôi với ở. 
                       
                      Chỉ ăn thôi, chưa đủ! Rủng rỉnh tí tiền bạc, sau 
                      khi chắc dạ rồi, phải mặc cái “sơ mi” màu cà chua 
                      mới chín, hay mẫu chim c̣ xanh xanh, trắng trắng, gọi là … 
                      cho đời biết tay!  
                       
                      Tột đỉnh của ăn là … nhậu, nhưng nhậu vào, lời ra,
                      nói vung vít … 
                       
                      Ăn no, thường buồn ngủ, buồn ngủ phải lăn kềnh ra
                      nằm… 
                       
                      Nhiều thành ngữ đă được cấu tạo bằng cách tách đôi các 
                      động từ kép này ra (ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn nằm…), 
                      cũng như một trạng từ kép nào đó, rồi ghép lại với nhau: 
                       
                      Ăn gian, nói dối (trạng từ: gian dối) 
                      Ăn dơ, ở bẩn (dơ bẩn) 
                      Ăn dầm, nằm dề (dầm dề) 
                      Ăn sung, mặc sướng (sung sướng) 
                       
                      Có khi hai trạng từ khác nhau được ghép vào hai phần của 
                      động từ kép đă được tách ra: 
                       
                      Ăn no, nằm khèo (no, khèo) 
                      Ăn quịt, nói điêu (quịt, điêu) 
                       
                      Các trạng từ này có thể cùng nghĩa như: 
                       
                      Ăn chắc, mặc bền (chắc, bền) 
                      Ăn to, nói lớn (to, lớn) 
                       
                      Cũng có trường hợp các trạng từ phản nghĩa với nhau, càng 
                      làm câu thành ngữ thêm rơ nghĩa: 
                       
                      Ăn xuôi, nói ngược (xuôi, ngược) 
                      Ăn thừa, nói thiếu (thừa, thiếu) 
                       
                      Dĩ nhiên nh́ều động từ khác (với các động từ kép kể trên), 
                      cũng như cả danh từ cũng được sử dụng (làm túc từ cho động 
                      từ): 
                       
                      Ăn tươi, nuốt sống (động từ: ăn, nuốt) 
                      Ăn lông, ở lỗ (danh từ: lông, lỗ) 
                       
                      Trong câu: 
                       
                      Ăn đợi, nằm chờ  
                       
                      đợi, chờ đều là động từ, nhưng trong trường hợp này đă 
                      được dùng như trạng từ, phụ nghĩa cho hai động từ ăn và 
                      nằm. 
                       
                       
   
                      Bún ốc riêu cua
                       
                       
                      Trong các động từ kép: ăn ở, ăn mặc, ăn nói … ăn chỉ là 
                      trợ từ, nghĩa chính là động từ phía sau. Cho nên, 
                      khi cô con gái than với bồ: 
                       
                      - Anh dụ em đem đôi bông tai đi cầm, lấy tiền cho anh đánh 
                      bài. Bây giờ thua hết, em biết ăn nói sao với thầy 
                      bu đây ?! 
                       
                      Ở đây, cô gái chỉ lo lắng, t́m cách nói dối đấng 
                      sinh thành thôi, không hề được ăn cái giải rút ǵ 
                      cả! 
                       
                      Như thế trong các thành ngữ trên, vế sau là chính. 
                       
                      Khi một người bị chê trách là “ăn thật, làm dối”, v́ người 
                      đó làm việc cẩu thả, không đến nơi, đến chốn. C̣n người đó 
                      có được “ăn thật” hay không, chờ hạ hồi phân giải! 
                       
                      Nói chung các câu thành ngữ nếu không có vần như: “Ăn 
                      theo, nói leo”, ít nhầt cũng có điệu, nghe xuôi tai. 
                      Nhất là ca dao rất có vần, có điệu, thường theo thể thơ 
                      lục bát:  
                       
                      Ăn cơm sao đặng mà mời 
                      Nước mắt lênh láng ră rời hạt cơm 
                      Ḿnh ơi đừng đặng cá quên nơm  
                      Đôi ta gá nghĩa danh thơm để đời  
                       
                      Hay là: 
                       
                      Ăn th́ ăn trước ngồi trên  
                      Đến chừng đánh giặc th́ rên hừ hừ 
                       
                      Cũng v́ vậy trong nhiều câu ca dao, câu đầu chỉ là câu 
                      gieo vần, không có ư nghĩa ǵ cả: 
                       
                      Ăn chanh, ngồi gốc cây chanh  
                      Khuyên cội, khuyên cành, khuyên nhánh, khuyên bông  
                      Khuyên cho đó vợ, đây chồng  
                      Đó bế con gái, đây bồng con trai 
                       
                      Hay là: 
                       
                      Ăn sung, ngồi gốc cây sung  
                      Lấy anh th́ lấy, nằm chung không nằm  
                       
                      Tương tự: 
                       
                      Ăn cam, nằm gốc cây cam  
                      Lấy anh th́ lấy, về Nam (Cali) không về  
                       
                      Trong cả ba trường hợp. sự việc “ngồi gốc cây chanh, cây 
                      sung” hay “nằm gốc cây cam” không dính dáng ǵ tới ư chính 
                      trong những câu sau. 
                       
                      Nếu tổng hợp về cấu trúc của thành ngữ: Tách động từ kép
                      ăn nói, ghép với các từ kép khác như: ṃ ốc, 
                      măng mọc, c̣ bay. Người ta đă nói : 
                       
                      Ăn măng, nói mọc 
                      Ăn c̣, nói bay 
                      Ăn ốc, nói ṃ 
                       
                      Nói mọc là bày đặt, nói thêm, nói bớt. Nói bay là nói 
                      khoác, nói lác. Nhưng từ này có vẻ gượng gạo, ít người 
                      dùng. Do đó có người đổi ra là : “Ăn c̣, nói leo“. Nếu xét 
                      về cấu trúc thành ngữ, câu này không “chỉnh“, v́ làm ǵ có 
                      “c̣ leo“. Họa chăng dùng “c̣“ để chỉ một đấng ông chồng 
                      nào đó, mới có vụ c̣ … leo thôi !!! 
                       
                      Như đă phân tích ở trên, vế sau của câu thành ngữ mới là 
                      chính, ăn măng, ăn ốc, ăn c̣ … chỉ là gia vị, mắm 
                      muối, cho thêm vần, thêm điệu mà thôi. Gần giống như “ngồi 
                      gốc chanh, nằm gốc cam” vậy! 
                       
                      Có người dùng “thuyết nhân quả“ để giải thích “ăn ốc, 
                      nói ṃ“, rằng : Ăn ốc thường uống rượu, ruợu 
                      vào, nhời ra, ăn nói lăng nhăng, ba hoa chích cḥe … Như 
                      thế phải nói : “ăn ốc, nói nhảm “, chứ không nói ṃ 
                      ! Người khác bảo : “Muốn ăn ốc phải đi ṃ : Ṃ ốc! 
                      “. Điều này đúng, nhưng giữa chuyện “ṃ“ và “nói“ cách 
                      nhau xa lắc, xa lơ, không bắt quàng được. Cho nên cách 
                      giải thích về cấu trúc, vần điệu là đúng hơn cả. 
                       
                      Tóm lại : Muốn ăn ốc, ra siêu thị, bỏ ra vài t́, 
                      xách về cả bịch, tha hồ nhậu lai rai, chẳng phải đi ṃ, đi 
                      mẫm ǵ sốt. Và đă ăn ốc rồi, không ắt phải nói … ṃ. 
                      Cứ vững bụng thưởng thức các món : Bún ốc riêu cua, ốc 
                      nhồi hấp lá gừng, ốc bung chuối xanh đậu phụ … Khoái khẩu 
                      vô cùng ! 
                       
                      Thạch Bích biên soạn 
                       
                       
                        
                      Ốc xào chuối xanh, nước mắm 
                      gừng 
  | 
                     
                   
                   | 
                 
               
               | 
             
           
           | 
         
       
      
         |