|
Ca dao dân ca - Nét đẹp tâm hồn người
Việt
Làng quê Việt Nam ở đâu cũng
vậy, ẩn chứa trong nó bao điều gần gũi và thân thương. Mỗi một miền quê
đều có những câu ḥ, điệu hát rất chung mà lại rất riêng, mang âm hưởng
của từng vùng, miền. Tất cả cùng ḥa vào câu thơ, giọng hát của những
làn điệu, tạo thành ḍng ca dao dân ca Việt Nam rất đa dạng và phong phú.
Ca dao dân ca, xét về góc độ tư duy của dân tộc, là tấm gương bức xạ
hiện thực khách quan của mỗi dân tộc với lối sống, điều kiện sống và
những phong tục tập quán riêng. H́nh ảnh về thiên nhiên, cuộc sống, về
truyền thống dân tộc, quan hệ xă hội được phạm trù hóa theo những cách
khác nhau, bằng những h́nh thức ngôn ngữ khác nhau. Nghiên cứu về ca dao
dân ca không chỉ cho thấy những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam mà
c̣n làm nổi bật lên tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu người thiết tha. Ca
dao dân ca là kết tinh thuần tuư của tinh thần dân tộc, là nét đẹp trong
văn hóa dân gian Việt Nam. Với cội nguồn lịch sử và chữ viết rất phong
phú đa dạng nên ca dao và dân ca có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Các công
tŕnh nghiên cứu về văn hóa dân gian, cũng như các nhà khoa học có liên
quan đă khẳng định một trong những dấu tích của ca dao cách chúng ta
khoảng trên dưới 2.500 năm. Điều này được thể hiện rất rơ qua các hoa
văn trên trống đồng và các hiện vật khảo cổ cùng niên đại. Phân tích các
họa tiết hoa văn trên trống đồng, nhiều người đă t́m thấy ở đây h́nh ảnh
lễ thờ nữ thần Mặt Trời cũng là nữ thần Nông nghiệp. Trong lễ hội này đă
sử dụng các h́nh thức âm nhạc, thanh nhạc múa hát và các nhạc khí.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện
Văn học phát biểu: "Tất cả các dân tộc trên thế giới suốt mấy ngh́n năm
chỗ nào cũng có dân ca và ca dao. V́ thế nói về ca dao dân ca của một
dân tộc hay ca dao dân ca nói chung là vấn đề rất lớn. Nó tồn tại rất
lâu, từ hàng ngàn năm trước và như các nhà khoa học nghiên cứu trước đây,
các học giả đă nói ca dao ra đời khi trong ḷng ḿnh có những điều muốn
thể hiện ra, muốn nói lên. Những điều đó được gọi là ca dao".
Câu nói, làn điệu, giọng hát là những đ̣i hỏi bức thiết nảy sinh trong
đời sống xă hội, qua thời gian, những câu nói hay, những làn điệu hấp
dẫn đă được nhân dân sưu tập và ǵn giữ. Cùng xuất phát từ hoàn cảnh
thực tế của đời sống xă hội và trí tuệ của nhân dân đúc kết nên. Qua lời
ca, câu hát, ca dao và dân ca Việt Nam là những câu nói đúc kết những
kinh nghiệm sống, những quan niệm về nhân cách, nhân đức ở mỗi con người.
Càng đi sâu vào t́m hiểu ca dao dân ca, chúng ta sẽ thấy được những nét
tài hoa, óc sáng tạo đầy tinh thần thẩm mỹ. Tuy nhiên ở mỗi loại h́nh
lại có những đặc điểm riêng biệt.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện
Văn học phát biểu: "Các cụ ngày xưa có nói bỏ ca đi th́ c̣n lại dao, có
nghĩa là ca dao và dân ca ra đời cùng một lúc. Nhưng cũng không phải tất
cả câu hát của dân ca là ca dao. Đi sâu vào nghiên cứu th́ thấy dân ca
phát triển rất nhiều, c̣n ca dao chỉ có một số chức năng nhất định".
Ca dao dân ca là loại h́nh văn nghệ truyền miệng, là một h́nh thức văn
hóa dân gian đă có từ rất lâu. Nó có thể là một câu nói triết lư bao hàm
một nội dung giáo dục của ai đó. Trải qua thời gian, mọi người thấy đúng
và nghe theo, thậm chí họ có thể thêm vào hoặc bớt đi để đúng với từng
hoàn cảnh cụ thể. V́ vậy, có thể nói ca dao dân ca là của quần chúng
nhân dân sáng tác nên và họ có thể sáng tác trong bất cứ hoàn cảnh nào,
trong lễ hội, trong lao động sản xuất. Như Giáo sư Vũ Ngọc Phan đă viết:
"Nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ xưa và h́nh thức thô sơ của nó
đă được sửa đổi qua các thế hệ của loài người". Có một câu ca dao rất ư
nghĩa, không chỉ nói lên quan niệm triết lư của người Việt Nam mà đó c̣n
là một câu nói thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau, thể hiện
sức mạnh của tập thể.
"Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành ḥn núi cao".
Chất trí tuệ, giàu tư tưởng t́nh cảm trong ca dao dân ca là những nguồn
nhựa sống bổ sung cho văn hóa dân gian thêm phong phú và đậm đà bản sắc.
Tuy cũng là câu nói, giọng điệu cùng với một cái nôi xuất phát nhưng
không phải câu ca dao nào cũng có thể trở thành dân ca và ngược lại, ở
mỗi thể loại lại có thêm những ưu thế bổ sung ứng dụng trong từng hoàn
cảnh của thực tế đời sống. Theo cách hiểu thông thường, ca dao là lời
của các bài dân ca đă tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy hoặc ngược
lại là những câu thơ có thể bẻ thành những làn điệu dân ca. Như vậy giữa
ca dao và dân ca không có ranh giới rơ ràng. Ca dao là những câu nói phổ
thông trong dân gian. Ca dao người Việt thường được cấu tạo bằng hai câu
lục bát, một thể thơ rất âm điệu tiếng Việt. Khi có nhiều câu kết thành
một đoạn ngắn th́ gọi là dân ca, v́ vậy ranh giới giữa ca dao và dân ca
là một sợi chỉ rất mỏng manh. Ca dao là lối văn truyền khẩu, trước tiên
là do một người v́ xúc cảm mà phát hiện ra, rồi v́ lời hay, ư đẹp mà lan
truyền trong dân gian và truyền măi từ đời này qua đời khác. Tuy ca dao
xuất phát trong giới b́nh dân nhưng nhiều câu rất nên thơ và ư nghĩa đậm
đà, dễ xúc cảm người nghe nên được nhiều người để tâm sưu tầm.
"Có cha, có mẹ có hơn
Không cha, không mẹ như đàn không dây.
Mẹ cha như nước, như mây,
Làm con phải ở cho tầy ḷng con".
Câu thơ không chỉ nói về công đức sinh thành, giáo dưỡng của cha mẹ mà
c̣n khuyên nhủ, răn dạy mọi người phải ăn ở sao cho đúng đạo làm con. Âu
đó cũng là triết lư, quan điểm sống của mỗi con người chúng ta. Hoặc đó
cũng có thể là những câu nói khuyên răn về quan hệ giữa anh em, bạn bè.
"Anh em như chân, như tay
Như chim liền cánh, như cây liền cành".
Hoặc là những câu ngợi ca t́nh yêu lao động, trân trọng những giá trị
của sự lao động.
"Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần".
Chính v́ khả năng dễ nói, dễ tiếp thu, ca dao đă đi vào đời sống của
nhân dân một cách rất tự nhiên và trong mọi hoàn cảnh.
Trong mỗi chúng ta ai cũng có một miền quê, quê hương là cánh đồng lúa
thơm ngát, luỹ tre xanh trải dài dọc bờ đê, là những h́nh ảnh thân
thương nhất đối với cuộc sống mỗi con người. Hai tiếng quê hương nghe
gần gũi và thân thương, đó là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi đă nuôi dưỡng
ta trưởng thành. Qua ca dao dân ca những h́nh ảnh của miền quê như trở
nên gần gũi hơn, lung linh hơn nhờ những ca từ đầy h́nh ảnh. Khi nói đến
dân ca, chúng ta không thể quên những lời ru con thiết tha tŕu mến, qua
tiếng ầu ơ mẹ ru con, những h́nh ảnh của miền quê yêu dấu của biển rộng
non cao, của gió Lào cát cháy, những người mẹ năm tháng tảo tần một nắng
hai sương nuôi dậy con khôn lớn. Những lời hát ru của mẹ đă ḥa đồng với
tâm hồn trẻ thơ, vừa đằm thắm nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần trầm
tư sâu lắng. Trong câu hát của mẹ có ánh trăng soi rọi như đưa con vào
giấc ngủ êm đềm, có áng mây trôi bồng bềnh trên đỉnh núi, có ḍng sông
bên lở bên bồi, có mặt biển long lanh ánh bạc và những con thuyền thấp
thoáng ngoài khơi xa. Nghe lời ru của mẹ, trẻ thơ như được tiếp thêm
nguồn dự trữ lớn lao về ḷng yêu quê hương, đất nước, chắp cánh cho tuổi
thơ của con thêm vững bước và sáng ngời niềm tin.
Lấy nguồn cảm hứng từ thực tế cuộc sống, ca dao dân ca được sáng tạo nên,
đó là lời ăn, tiếng nói của ông cha ta tích lũy từ ngàn đời. Đó là những
câu nói đúc kết từ những kinh nghiệm sản xuất răn dậy con cháu, bao hàm
những nội dung mang ư nghĩa triết lư dậy bảo rất sâu sa. Đó là những câu
hát được truyền tải bằng âm thanh giọng điệu ngôn ngữ với nội dung nghệ
thuật phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Giống như đại thi hào
Macxingocki đă nhận định: "con người không thể sống mà không vui sướng
được. Họ phải biết cười đùa, họ sáng tạo nên những bài hát vui tươi, họ
thích nhẩy múa". Bởi vậy, ca dao dân ca là sản phẩm văn hoá tinh thần và
cần thiết đối với mỗi dân tộc, con người.
Trong câu hát ru của người mẹ Thanh Hoá, câu ca dao: "Gừng cay muối mặn
xin đừng quên nhau" như một lời nhắn nhủ của người mẹ với đứa con thơ về
t́nh nghĩa đạo lư ở đời, phải ăn ở thuỷ chung trước sau như một, đầy ắp
t́nh thương và t́nh người. Từ thực tế cuộc sống những câu hát dân gian,
những lối nói chân thành chất phác nhưng cũng không kém phần triết lư
sâu sẵc, thực tế là những cái hay, cái tinh tuư của dân tộc được kết
tinh từ cuộc sống hàng ngày. Trong ứng xử giao tiếp ông cha ta đă có vô
vàn những câu nói đúc kết về những lối nói, những hành vi ứng xử khéo
léo, lịch sự và duyên dáng.
Phó Giáo sư, Phó Tiến sỹ Mai Ngọc Chừ, Đại học Khoa học xă hội và Nhân
văn Quốc gia phát biểu: "Trước hết tôi xin nói về lời chào, người Việt
Nam rất coi trọng lời chào. Người ta thường nói:"Tiếng chào cao hơn mâm
cỗ". Trong ca dao th́ tiếng chào không chỉ nói lên phép lịch sự của con
người Việt Nam mà tiếng chào c̣n là cái cớ để những đôi trai gái làm
quen với nhau, đó là những lời chào bắt duyên trong văn học dân gian. Ví
dụ:
"Gặp nhau ăn một miếng trầu
Mai ra đường cái gặp nhau ta chào"
Hoặc: "Đôi ta như đá với dao,
Năng liếc th́ sắc, năng chào th́ quen".
Nhưng năng chào cũng chưa đủ, chào phải đúng lúc, đúng chỗ:
"Gặp nhau đường vắng th́ chào
Gặp nhau giữa chợ lao xao xin đừng".
Câu thơ, giọng hát với cái đích là phục vụ nhân sinh. Con người luôn có
hoài băo vươn tới cái hay, cái đẹp, cái thanh tao của cuộc sống là chân,
thiện, mỹ, cho nên ca dao dân ca không chỉ là những bài hát ngắn dài,
vần, vè về câu chữ, nhịp điệu trầm bổng du dương để quên nguôi cảnh buồn
tẻ, trống trải mà thực tế nội dung ư nghĩa c̣n mang tính nhân văn sâu
sắc.
"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một ḷng thờ mẹ, kính cha
Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con".
Bên cạnh ư nghĩa là công nuôi dưỡng, sinh thành như trời bể của cha mẹ,
câu ca dao này c̣n được hiểu rộng ra với những nét nghĩa rất phong phú.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện
Văn học phát biểu: "Để hiểu câu ca dao như thế nó vừa lớn, vừa rộng, vừa
có tính dân tộc, bởi v́ núi được công nhận là cao, rộng, công cha đối
với con là không phải bàn. Ḿnh có đặc điểm khác các nước là làm nông
nghiệp, việc bám vào quê hương, đất tổ, bám vào đất, nước là truyền
thống của người Việt Nam. Người Việt Nam luôn bám vào quê hương và trong
quê hương đó là do cha mẹ ḿnh, tổ tiên ḿnh sáng tạo ra, do vậy tấm
ḷng của ḿnh phải hướng về cha mẹ, không thể xa rời được. Nghĩa đấy
cũng như nước trong nguồn, chảy măi. Công cha, nghĩa mẹ để lại măi măi
cho ḿnh, con cháu. T́nh cảm con người đối với cha mẹ đều được công nhận
trên thế giới, nhưng ở Việt Nam có đặc điểm riêng là làm lúa nước, phải
bám đất, bám làng nên t́nh làng nghĩa nước, t́nh cha, nghĩa mẹ luôn đi
với nhau rất trọn vẹn. Từ t́nh cha mẹ rồi mới đến t́nh làng nghĩa nước,
t́nh yêu tổ quốc, 3 cái đó quyện chặt với nhau. V́ vậy công cha như núi
Thái Sơn có thể hiểu là cha cụ thể nhưng cũng có thể là cha Tổ quốc, mẹ
cũng thế, có thể hiểu là đất nước. V́ vậy đất nước ḿnh cũng là cha mẹ
ḿnh, tổ tiên ḿnh. Tổ tiên, đất nước, cha mẹ, tất cả ḥa làm một trong
câu ca dao đó".
Ca dao dân ca là sản phẩm được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân, nội
dung mang tính chất chung cũng lại rất riêng, gần gũi với tập quán sinh
hoạt của con người. Ngay từ thủa lọt ḷng, ca dao dân ca đă giành cho
trẻ những bài hát đơn sơ, mộc mạc nhưng du dương, ngọt ngào để đưa trẻ
vào giấc ngủ êm đềm. Chuyển sang tuổi ấu thơ, các em lại được cất lên
nhưng bài hát đồng dao để vui chơi giải trí, luyện cho trẻ quen với
tiếng nói, tiếp cận với thiên nhiên, t́m hiểu những vấn đề xă hội nảy
sinh trong đời sống hàng ngày. Khi trưởng thành, trai gái lại tụ họp
nhau lại thi hát đố, hát giao duyên và các bài hát vui chơi trong đời
sống. Đó là những tập tục rất phong phú, làm nảy nở thêm tinh thần lạc
quan, yêu đời, yêu người thiết tha.
Với nội dung truyền tải rất đa dạng và phong phú đời sống xă hội cho nên
ở mỗi chủ đề, mỗi một lĩnh vực chúng ta có thể thấy vô vàn những câu nói,
lối nói rất mộc mạc, dễ hiểu. Nhà văn Nguyễn Đ́nh Thi đă nhận xét rằng:
ca dao Việt Nam bắt nguồn từ tinh thần ham sống, ham đấu tranh, vui vẻ,
tế nhị, có duyên nhưng cũng không kém phần dồi dào t́nh cảm, mạnh mẽ sức
lực, nảy nở tự do để đón ánh sáng trời ḥa hợp với cỏ cây, hoa lá. Nó
như một nguồn nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, chắp cánh cho thế
hệ tương lai những hoài băo lớn lao về cuộc sống, thiên nhiên và con
người. Như vậy có thể nói ca dao và dân ca Việt Nam là kho tàng văn hóa,
tri thức dân gian, phản ánh những phong tục, tạp quán, tâm tư nguyện
vọng của con người Việt Nam, tạo thành một hệ thống h́nh ảnh thiên nhiên,
con người và lao động cùng hoà quyện vào nhau, tạo dựng nên cách nghĩ,
cách cảm về cuộc sống, thiên nhiên và con người rất Việt Nam. |