Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Cái t́nh Trong Ca Dao Việt Nam

Tác giả: Vơ công Liêm

Ca dao là tiếng nói trung thực, phản ảnh rơ nét nhất trong văn chương b́nh dân,  được miêu tả sự việc xẩy ra hằng ngày giữa cuộc đời và trở thành những câu ḥ,  điệu hát của nhân gian như những bản t́nh ca bất diệt,  đượm màu thế tục; t́nh yêu, t́nh đời với một ẩn dụ tự nhiên làm cho người ca ngâm cũng như người nghe có một cảm nhận gần gủi, tuyệt vời. Ca dao c̣n hóa giải mọi t́nh huống uẩn khúc, lời ca ấy làm cho con người không c̣n cảm thấy đau khổ nữa “L’homme souffre, mais en chantan sa souffrace, il la dépasse”.

V́ vậy;  nói đến văn chương b́nh dân chúng ta không thể quên thi ca b́nh dân mà ca dao nắm một vai tṛ chủ lực và những thể loại quen thuộc,  không ước lệ, không qui cách, tuy nhiên lời thơ của ca dao vẫn giữ đúng vần điệu có khi rất chuẩn về luật bằng trắc nhờ đó mà dể đả thông tư tưởng,  trực chỉ vào ḷng người một cách sâu lắng.

Ca dao là ca hát, tự nó trở thành khúc đi thẳng vào ḷng và bày tỏ được nội giới dù dưới một không gian hay thời gian nào ngoài ra ca dao c̣n là gia-huấn-ca, một tâm lư đạo đức, dạy làm người…đôi khi văn thơ phải mượn ngôn từ của ca dao để nói lên cái t́nh người, t́nh đời một cách chính xác hơn.

                                               Công cha như núi Thái Sơn

                                      Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

giáo dục con trẻ khi mới lớn:

                                               Trai thời trung hiếu làm đầu

                                          Gái thời tiết hạnh làm câu giao t́nh

hoặc một ư nghĩa thâm sâu khác:

                                                Cá không ăn muối cá ương

                                           Con căi cha mẹ trăm đường con hư

Những câu ca dao lục bát như thế ắt phải nằm sẳn trên môi của mọi người một cách dể dàng và thông đạt lắm!

                                                        

Đó là cái nh́n nội giới trong ca dao mà  mỗi khi chúng ta phóng vào hiện tượng;  đó là bản thể của “cái t́nh” trong ca dao. Tuy mỗi câu ḥ điệu hát có khác nhau nhưng cái nh́n của t́nh yêu vẫn là một và cái gặp gỡ đó, nói chung;  là cái đồng t́nh bất biến của con người. Sự gặp gỡ chính nơi ḷng ư thức, nơi thức tỉnh của ư thức trước những hiện hữu đời và gia đ́nh hay chính là nơi những ǵ mà con người kêu lên thiết tha hay để bộc lộ sự thống khổ. H́nh ảnh của thi ca nói chung và của ca dao Việt Nam nói riêng là tiếng kêu thức tỉnh của con người tạo nên,  dùng để ví von của người dân quê trước cuộc đời. Mà cuộc đời này;  con người đă gắng bó chặt chẽ trong mọi hoàn cảnh trong mọi t́nh huống của đời người, từ những t́nh cảm của cái t́nh đó đă nói lên được một cái ǵ âu yếm và thầm kín.

                                            Anh đi ba bửa nhớ về

                                     Rừng sâu nước độc chớ hề ở lâu

H́nh ảnh “anh đi ba bửa”rồi”chớ hề ở lâu” nó biến ca dao thành thi ca, từ những hiện tượng thực thể biến thành tha thể xuất phát từ ngoại giới đi vào nội giới giữa mối liên hệ tha nhân và chủ thể nó cặp kè, sánh vai trong hoàn cảnh đối đáp để nên vợ nên chồng, ca dao không c̣n hiện diện với ca với hát  mà biến dạng thành ḥ, câu ḥ trực diện với thực tại như một sự hiến dâng!

                                            Trai nào nỗi tiếng anh hào

                                 Anh mà đối đặng má đào em xin trao ơ…ơ

Cái vũ trụ mộng mơ ấy hoàn toàn ở trong đôi mắt chiêm ngưỡng của con người khi phóng cái nh́n vào tương lai giữa sự viên măn của t́nh yêu. Vũ trụ này chưa hiện thực rốt ráo nhưng đă xuất phát một ước vọng thực hữu. H́nh ảnh cuộc đời không bị tha hóa mà bắt nguồn từ vũ trụ thực hữu; v́ vũ trụ ấy có thực trong cuộc đời này.

                                            Trai nước Việt nỗi tiếng anh hào

                                 Anh đà đối đặng vậy má đào xin trao dâng ơ…ơ

Hẳn nhiên;  ư thức giữa trai gái rất đặc thù trong phạm vi lứa đôi, nói trắng ra là t́nh yêu qua mọi lứa tuổi,  đặc biệt t́nh yêu nông thôn,  ư thức ấy bừng lên từ cuộc sống và chiếu sáng cuộc sống đó là lối tả chân mà cảnh đời không có hoặc chưa có nên chi vũ trụ dự ước của con người cũng là những cảnh đời có thực mà được phóng nhiệm  lên cảnh đời có thực trong ca dao. Cho nên ca dao phát ra giữa chốn đồng quê, giữa nơi xa phố thị tự nó dâng tràn trong nhân gian, v́ thế t́m đến một tác giả trong ca dao đều trở nên không cần thiết và có muốn biết chăng nữa cũng không được v́ mọi người đă đi vào cảnh đời một cách tự nhiên và tự nhiên như ḿnh là tác giả vậy! Nó vượt thoát cả không gian và thời gian kể cả hiện tại, quá khứ và tương lai, vượt thoát từ những người sáng tạo ra ca dao, ca dao bỗng nhiên độc lập để tạo cái đắm đuối, rụt rè, e lệ nhưng đầy tính lăng mạn cho dù mối t́nh chân lấm tay bùn.

                                            Ngó em chẳng dám ngó lâu

                                        Ngó qua một chút đở sầu mà thôi!

Cái ngó ấy là cái ngó thức tỉnh, một cái ngó của kẻ t́nh si và cũng là cái nh́n mơ mộng của người đồng quê đứng trước cuộc đời có thực. Chính đó là sự sáng tạo của ca dao. Nói đến mơ mộng h́nh như chúng ta đụng phải một phản ứng tâm lư. Theo tâm lư học giài thích: khi mơ mộng th́ đó không phải là một trạng thái thức tỉnh. Tâm lư học quan niệm như thế nầy”En suivant la pente de la reverie”Tiếp đó là cái mơ về của ư thức thức tỉnh “đở sầu” nằm trong ư thức mơ về (rêver à/daydreaming)mà ở đây mơ không có nghĩa là buông xả theo gịng đời và ch́m dần trong mộng để rồi mất luôn tính sáng tạo nghệ thuật v́ ư thức thức tỉnh thường đối lập với ư thức thức tỉnh nghệ thuật và làm lu mờ ư thức mơ về cho dù trong chiêm bao chăng nữa đă cho thấy một ư thức thức tỉnh.

                                              Một duyên,  hai nợ,  ba t́nh

                                     Chiêm bao lẫn quất bên ḿnh năm canh

Thành ra mơ chiêm bao ở đây là cái nh́n sáng tỏ của cái mơ về giữa duyên, nợ và t́nh đă bừng lên trong ư thức về thân phận của người phụ nữ.

Mơ về hay chiêm bao không c̣n là mối sầu buông xuôi của tâm lư học mà trái lại mơ và chiêm để phóng thể ngôn từ”bên ḿnh năm canh”trong giấc mơ nữa đêm trở nên ư thức chớ không phải chiêm bao vô thức.

Trong cái nh́n vũ trụ quan như thế đă cho ta thấy được ca dao là một lối sáng tạo hết sức đặc biệt mà chất liệu là cảnh đời, cô đọng trong từng câu ḥ điệu hát mượn từ ca dao để mơ về…

 

Ca dao không đ̣i hỏi tác giả là ai, nó đă trở thành của chung, tác giả chung giữa cuộc đời này mà trong thi ca vốn có sự bừng tĩnh đầy sáng tạo, ca dao đại diện cho những cuộc t́nh trọn vẹn hay tan hợp, nói lên nỗi nghẹn ngào, uất nghẹn tất cả qui về sự mơ về cơi thực để t́m thấy được chân lư của cuộc đời. Giờ đây ngôn từ sáng tạo của ca dao đă thành thơ, những thể thơ mới như ngày nay.

                                                  Cá lư ngư sầu tư biếng lội

                                        Chim phượng hoàng nhớ cội biếng bay

                                            Anh thương em đừng vội nắm tay

                                                   Miệng thế gian ngôn dực

                                                       Phụ mẫu hay sẽ rầy

Ca dao như thế đấy! mỗi khi đọc lên đă cho chúng ta cái cảm giác tợ như ức chế, như phụ rẫy như khoa phân tâm học quan niệm. Lối thoát bằng ức chế chỉ xẩy ra với cảnh đời, những người bị tập quán kiềm chế mới lâm vào khát vọng của bản năng cho nên mới t́m lối thoát bằng lối này hay h́nh thái khác để tránh né. Quan điểm đó đôi khi cũng có tính vơ đoán và không hoàn toàn đúng hẳn, cho nên đừng để cái nh́n ức chế vào đây. V́ sao? V́ “anh thương em” có nghĩa là đừng vội đánh mất cái đẹp mà đây là tiếng nói mặn mà, bất luận ở đâu nơi chốn nào người phụ nữ Việt Nam đoan trang trong tiếng nói ấy tức tiếng nói của ca dao, tiếng nói soi sáng, tiếng nói của ái t́nh.

                                                       Em có thương anh

                                                     Em nói cho thiệt t́nh

                                                        Để anh lên xuống

                                             Ơ…ơ chớ một ơ…ơ ḿnh ơ bơ vơ

Đó là một thứ ǵ vô biên chân thật của t́nh đồng quê một bày tỏ cao nhất trong đời nhưng biết nói làm sao khi ư thức vô biên chưa có th́ nói làm sao  khi cái nh́n tuyệt đối chỉ ngưng trong hiện tượng của đất trời cho nên họ không ngần ngại bộc bạch một cách chân t́nh cho dù ngập ngừng bày tỏ “ơ. .  ơ chớ một ơ. .  ơ ḿnh ơ. . bơ vơ” Ca dao nông thôn nó diễn tả tích cực như thế đó!diễn tả cái mùi vị chất phát mặn mà,  đượm bạc, cái ngập ngừng dể yêu ấy.

Đó là hướng đi lên của ngôn từ ca  dao Việt Nam thoát ra  từ tiếng nói văn chương b́nh dân để đạt tới hiệu năng của sự bày tỏ. Cho nên h́nh ảnh của ca dao; dù sao đi nữa nó vẫn có cái mới của riêng ḿnh, mở ra một ngôn từ sáng lạn và nó cũng đánh dấu những bước thăng trầm của sức diễn đạt giữa người với người, những h́nh ảnh của ca dao vô h́nh chung trở nên tư liệu của cảnh đời:người, cảnh vật, nhân sinh và t́nh yêu. Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng nhờ ư thức chuyển vị đẹp đẻ đó của con người cuộc đời trở nên tươi đẹp hơn “the beautiful-life”nhờ đó t́nh cảm con người được tỏa rạng. Cho nên khi bắt gặp một h́nh tượng trong ca dao, dù có mộc mạc bao nhiêu cũng mở rộng cho chúng ta một chân trời mới đầy ư nghĩa hơn nhất là t́nh yêu có một sắc màu luôn luôn lung linh của người con gái xuân th́ dưới một cái ǵ lả lướt của ca dao. Ngôn ngữ ca dao rất cô đọng và tràn đầy.

                                             Tóc em dài em cài bông hoa lư

                                          Miệng em cười anh để ư anh thương

Ư nghĩa của ca dao là ở cái chỗ mộc mạc đơn sơ nhưng lại là một sự thức tỉnh nội tại, một sự khám phá của con người vừa hào hứng vừa can đảm mà chúng ta phải đón nhận như chính chúng ta đón nhận cuộc đời này.  Đó là cái nh́n khám phá:

- Khám phá nội tâm bằng cái nh́n ngoại giới.

- Khám phá ngoại giới bằng cái nh́n nội tâm.

Chính hai cái nh́n tuy nghịch đảo nhưng bổ sung cho nhau để nh́n thấy giấc mơ của người nghệ sĩ ca dao.  Đó là một vũ trụ hiện thực để góp phần hạnh phúc cho đời.

Cho nên cái mộc mạc của nông thôn đă làm cho họ cảm thấy hạnh phúc, sung sướng và mỗi câu ca dao nói lên cảnh đời; dù trong mơ vẫn trung thực với đời. V́ vậy cái nh́n của họ như bao trùm từ ngoại giới đến nội giới đều đúc kết thành lời thơ, lời thơ đó chúng ta gọi là ca dao.

                                                Nàng về nàng nhớ ta chăng

                                          Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười

Mỗi lúc cái nh́n hay cái nhớ càng phóng ra rộng răi,  càng thấy cuộc đời đẹp và bao la diệu vợi, kể cả nụ cười nhe răng”cần cẩu” vẫn là niềm nhớ không quên, bởi v́;  chán ǵ những cái nhớ mà lại đi nhớ hàm răng em cười, biết đâu trong cái nhớ đó có một chút ǵ lăng mạn của ca dao(?), tầm thường thật nhưng bao la và mênh mông vô cùng đối với ngôn từ của ca dao.

 

Thật ra đi vào cuộc đời,  đi vào vũ trụ không dể dàng như thế mà chính là một sự khám phá không ngừng. Trong sự khám phá ấy, con người bắt gặp vừa ḿnh vừa vũ trụ một lối khám phá t́m ra được hai hiện tượng.  Đối tượng của sự t́m gặp chính là khám phá cái nội giới mà ca dao lănh một phần trách nhiệm trong ngôn từ(kể cả đối thoại) và ư nghĩa. Nhưng trong hai tượng ấy người ta có thể phân biệt được;

-         Bản ngă tự tại

-         Vô ngă vũ trụ

Những cái vô ngă vũ trụ được hữu ngă hoá cho nên cái bản ngă tự tại ngay phút đầu đă trở thành cái vô ngă của bản ngă.  Đó là sự cố đă khua động bản ngă của con người để sáng tạo và giúp cho con người thực hiện câu thơ để chia xẻ với tha nhân; con người đă nh́n cái đẹp một cách siêu thoát đó là cái vô ngă được hữu ngă hoá nhờ cái nh́n của bản ngă từ “một thương cho tới mười thương” là đề cao cái đẹp phong phú vừa cao đẹp vừa thẩm mỹ học và chính cái tôi bày tỏ lại đứng sau và được hữu ngă hoá vũ trụ để làm tan biến ngoại giới mà trở về với bản ngă mà không có cái tôi trong đó .

                                               Một thương tóc bỏ đuôi gà

                                        Hai thương ăn nói mặn mà có duyên

                                               Ba thương má lúm đồng tiền

                                     Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua

                                               Năm thương cổ yếm đeo bùa

                                      Sáu thương nón thượng quai thao dịu dàng

                                               Bảy thương nét ở khôn ngoan

                                        Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh

                                                Chín thương em ở một ḿnh

                                        Mười thương con mắt đưa t́nh với anh

Do đấy con người của ca dao là con người của cuộc đời, của vũ trụ chớ không phải con người chỉ là con người như một ư thức bi đát về người. Lối về của vũ trụ đă chiếm cứ hiện tượng bằng bản ngă của ḿnh, chính là lối đi về của t́nh thương, cái t́nh mà con người t́m thấy; tất cả ca dao là ở chỗ ấy và có thể nói ca dao có hai bề mặt là bản ngă và vô ngă cả hai mảng nầy dùng để xoa dịu những xót thương hay thương mong về t́nh cảnh khi con người mới dấn thân vào đời và vũ trụ. Bởi v́ tâm thức và trí tưởng của ta đủ khả năng giúp ta sáng tạo những ǵ mà ta nhận thức được.

Từ những vị trí đó giấc mơ về vũ trụ giúp cho con người thoát được thời gian, không c̣n thấy sự lôi cuốn của thời gian. Từ bản thể nh́n ra đó là trạng thái của tâm thức và ca dao mở rộng trước mắt ta bằng hiện tượng của trạng thái tâm hồn.

                                                  Chiều chiều ra đứng ngơ sau

                                               Ngó về quê mẹ ruột đau chít ch́u

Tất cả là biểu tượng để biểu dương trạng thái mơ về(Rêve a/daydreaming) đó là trạng thái thắc mắc về nhớ thương. Đấy là tâm hồn hiến dâng cho vũ trụ “chiều chiều” là  thời gian thuộc khách thể, trong cái đau đớn “ruột đau”là thế giới của nội tại. Với ca dao những ngôn từ thường chứa đựng một nội dung mới của từ ngữ đều qui định một tâm thức trước cuộc đời và vũ trụ.

Mọi sự vật đều hướng tới với con người và đó là cơ hội để người nghệ sĩ đưa vào ca dao những khát vọng yêu đương một khát vọng đầy hứa hẹn, như cuộc t́nh hay cuộc đời mong muốn.

                                                    Đèn Sài G̣n ngọn xanh ngọn đỏ

                                                       Đèn Mỹ Tho ngọn đỏ ngọn lu

                                                            Anh về học lấy chữ nhu

                                                   Chín trăng em đợi mười thu em chờ

Đó là hiện thực của sự bày tỏ về cảnh giới giữa thành thị với nông thôn và ngôn từ của cuộc sống đă lư giải cái tâm sự tha thiết và chân thật của người yêu, chân thật ở cái chỗ ẩn dụ đó. Người nghệ sĩ b́nh dân sắp xếp ngôn từ trong thơ để có cái nh́n sự vật và chính cái nh́n đó thoát ra một số tâm lư của con người và chính cái tầm thường đó chẳng hạn như “râu tôm”hay”ruột bầu” ở những nơi thôn dă đ́u hiu được người nghệ sĩ cho sống lại cái t́nh chân đó như một đ̣i hỏi cần thiết mà nghe rất b́nh dị của lớp người muôn đời trong ao tù nước đọng. Ca dao b́nh dân nói lên được cái khát vọng đó mà nhà thơ b́nh dân của chúng ta hoà nhập một cách tài t́nh giữa vũ trụ đầy khát vọng t́nh người.

                                                            Râu tôm nấu với ruột bầu

                                                  Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon

Đọc lên ta cảm nhận được phần nào lẽ sống, một lẽ sống nồng đượm của t́nh yêu khát khao đi từ chủ thể con người đến cuộc đời. Ca dao diễn đạt được cái mối giây liên lạc ấy. Mối giây đó không phải hai chiều giữa người và sự vật. Vũ trụ khát vọng của ca dao là h́nh ảnh cuộc đời mà con người mơ về một cái ǵ tầm thường nhưng ước sống. Ca dao tạo được cảnh giới mơ về cho những người thành thị và những người xa tầm vóc b́nh thường. Ngay cả việc mơ về của t́nh yêu trong cái dung dị đó nó đă hàm chứa một tương lai, một lối đi về của cuộc đời. Mơ về ở đây là cuộc đời có thực chính đấy là phần ư nghĩa hiện hữu của con người. Ca dao tạo nên những giấc mơ hiện thực như vậy đó;  cho nên cuộc đời mà ca dao vốn có ư nghĩa và sống có ư nghĩa để đưa tới cảnh đời hiện thực.

                                                                Trầu vàng ăn với cau xanh

                                                        Duyên em sánh với t́nh anh tuyệt vời

Cho nên văn chương b́nh dân thường nói lên tâm trạng khát vọng đôi khi nó pha lẫn màu sắc triết lư tiềm ẩn trong ca dao, nó có cái ǵ mầu nhiệm trong cuộc đời t́nh ái,  đầy bí ẩn trong cái nh́n ẩn dụ(metaphorical) của con người đó là biện-chứng-tức-th́ trong mỗi tâm trạng, một t́nh cảm đơn thuần. Nhưng với triết học có một sự tương quan tối thiểu giữa ta và cuộc đời như một tương quan giữa chủ thể và tha thể;  đó là tương quan giữa con người với cuộc đời. Nên chi vượt qua cái nh́n đối tượng và cũng nhờ cái nh́n đó  mà vượt qua được giới hạn để đi tới một giá trị trực tiếp.

Duyên, nợ, t́nh là khát vọng của t́nh cảm song hành với công việc và sự vật đó là cái nh́n mơ về của hạnh phúc, một gắng bó thực hữu giữa t́nh yêu vợ chồng một lối mơ về của ca dao, một khát vọng trung thành phát xuất từ cảnh đời hiện thực cho nên lối mơ về đó tạo nên một hiện hữu đồng nhất giữa người và vũ trụ. Con người trôi chảy vào đời nhờ những h́nh ảnh thuần đơn mà khát vọng đó đă tạo nên thơ; một nguồn thơ nhất thể. Thành thử vũ trụ khát vọng của ca dao là vũ trụ bắt nguồn từ cuộc đời thực hữu để tiến tới khát vọng. V́ thế ca dao là tiếng kêu chân thành của con người ham sống, yêu đời, yêu người. Ca dao không yêu cầu cái ủy mị đài các, mơ mộng viễn vông, ca dao đi gần với quần chúng, nhất là đồng bào miền quê và hoá giải mọi uẩn khúc, vui buồn đưa con người về với hạnh phúc. Tác giả của ca dao muốn vậy! Đó chính là cuộc đời mà người nghệ sĩ miền quê yêu cầu.

                                                  Sớm mai gánh nước mờ mờ

                                               Đi qua ngơ giữa t́nh cờ gặp anh

                                                   Vào vườn hái quả cau xanh

                                                Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu

                                                     Trầu nầy ăn thật là cay

                                                Dù mặn dù lạt dù cay dù nồng

                                                  Dù chẳng nên vợ nên chồng

                                          Xơi năm ba miếng kẻo ḷng nhớ thương

                                                  Cầm lược th́ nhớ tới gương

                                           Cầm trầu nhớ túi, nằm giường nhớ nhau.

Ca dao c̣n là h́nh ảnh,  ở đây là những hiện tượng của bản thể. Do đó h́nh ảnh không c̣n là hiện tượng đơn thuần mà hiện tượng có nội dung cho nên mới được gọi là h́nh ảnh. Chính những chất liệu trong ca dao đă tạo nên h́nh ảnh, h́nh ảnh của vật thể, h́nh ảnh của vũ trụ, h́nh ảnh của t́nh yêu.  Đó là những cái nh́n khai phóng của chúng ta để t́m ra cái nội dung đó; với cái nh́n của ca dao luôn luôn có sự ẩn dấu, tiềm ẩn,  đẩy cái h́nh ảnh đó như thúc dục người nghệ sĩ ca dao phải ẩn ḿnh,  đấy là cái nh́n thuở ban đầu. Cái nh́n hai chiều song phương từ bản thể đến hiện tượng để rồi từ hiện tượng qui về bản thể tạo nên một nội dung h́nh thể như thế là cái nh́n trực tiếp của ca dao nói riêng và thi ca nói chung do đó những sự vật cùng từ ngữ tham dự vào cuộc đời và tạo nên h́nh ảnh và từ h́nh ảnh tạo nên ư nghĩa của ḿnh. Cái nh́n đồng hoá ḿnh với sự vật như vậy là cái nh́n trực tiếp đi vào bản thể không cần t́m đến bản thể mà thấy hiện tượng từ bản thể và từ đó t́nh yêu được bừng sáng lên và hiện hữu “Tôi đặt trái táo trên bàn, rồi tôi hoà ḿnh vào trong trái táo.  Ôi!tuyệt vời biết là bao…”(Henri Michaux) Tuy không trực tiếp bằng cái nh́n phối hợp của ca dao nhưng cũng tương đồng ư nghĩa. Tâm trạng đó người ta gọi là ư thức biểu tượng.

                                                      Qua đ́nh ghé nón trông đ́nh

                                           Đ́nh bao nhiêu ngói, thương ḿnh bấy nhiêu

Cho nên cái nh́n trong ca dao dù chỉ là cái nh́n ban đầu là truyền thừa vào biến tŕnh diễn đạt của dân tộc, nội dung ư nghĩa vẫn c̣n vang vọng nhờ những h́nh ảnh đó. Cái ngôn từ trong ca dao Việt Nam trước sau vẫn vướng vít h́nh ảnh của t́nh yêu mà ca dao là môi giới trong lănh vực của t́nh yêu.

Kết.

Ca dao là mạch thở của thơ, là nguồn sáng tạo vô tận, là ngôn từ của văn chương b́nh dân chứa đựng hết thảy t́nh người trong đó. Ca dao càng mộc mạc bao nhiêu th́ càng chan chứa bấy nhiêu, ca dao không đỏm dáng, chải chuốt bóng bẩy mà thường xử dụng những ngôn từ thực tế của cuộc đời, mà chúng ta thường gắn liền với nhau:con người và cuộc đời, nó trở thành như định lệ. Nhưng nghĩ cho cùng đó chính là sức sống, chính bản thể thôi thúc, con người với hiện tượng t́nh yêu và từ hiện tượng nầy thoát ra hiện tượng khác bằng ư thức bản thể có ư hướng của ḿnh. Valery có lần nói:”Le vrai poète

est celui qui inspire”Gịng thơ thực chỉ đến với người có tâm hồn bộc phát; người nghệ sĩ ca dao thực thi đúng tinh thần ấy,  đó là ca dao khua động bản thể của con người, gợi lên sức sống để đi vào cuộc đời và hoà ḿnh với hiện tượng rồi từ hiện tượng ấy hoà ḿnh với sự vật để đột biến thành h́nh ảnh cho ca dao, lúc đó sự hiện diện của ca dao sáng tỏ không c̣n ǵ gọi là ẩn tàng hay ẩn dụ nó biến thành thi ảnh mang nội dung ư nghĩa biến động của bản thể con người. Do đó ca dao trở nên hiện hữu như ta đă thấy trong ca dao.

Cho nên những nhà nghệ sĩ nông thôn, không phải là nhà nghệ sĩ của văn chương bác học mà họ từ những người thợ cày, thợ gặt, trẻ chăn trâu đều có con mắt nh́n vào thực tế,  họ nh́n thấu suốt giữa người và vật, ca dao nông thôn đầy cảm hứng thi vị. Nghệ sĩ ca dao b́nh dân thể hiện được ư thức đó nghĩa là muốn xây dựng một h́nh ảnh phải phóng bản thể của ḿnh vào hiện tượng cho bản thể sống trong hiện tượng và trở thành hiện tượng của bản thể và cho sự vật là ta như ta trong sự vật. V́ đó;  là khi bản thể giao tiếp với cuộc đời.

Tóm lại ca dao đă du nhập những gịng thơ của văn chương b́nh dân, biến h́nh từ câu ḥ điệu hát, trao đổi, ḥ đối đáp, cắt xén, rút gọn, dể dàng truyền khẩu từ đó được gọi là ca dao, nó thường mô tả t́nh người dưới muôn h́nh vạn trạng,  từ nội giới tới ngoại giới.  Đấy cũng là một phần bản thể dân tộc, một văn hoá văn minh truyền thống.  Điều đặc biệt của ca dao , ngôn từ không ước lệ, ca dao nói những ǵ thực hữu giữa cuộc đời, nương theo chiều sáng tạo của thi ca qua bao thế kỷ và chế ngự cả thơ Việt lẫn thơ Đường bằng những câu rất đơn sơ mà đầy ư nghĩa và đi sâu vào mọi tầng lớp trong xă hội một cách dể dàng và nhanh chóng. Một ngôn từ thiết tha, một đường giây giữa nội tâm và ngoại giới.  Đó là nhân tố trong văn chương b́nh dân Việt Nam. Một thứ triết lư của văn chương b́nh dân cần phải tô điểm và nghiên cứu chiều sâu của nó . /.

@ VƠ CÔNG LIÊM

 

Post ngày: 12/08/18 

Nguồn: cadaotucnguvietnam

 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18