|   | 
		
		
			- 
			
			Cát Bủn Đường Giồng
 
			- 
			NAM SAN
 
			- 
			  
 
			- 
			Gió đưa gió đẩy về rẫy 
			ăn còng,
 
			- 
			Về sông ăn cá về giồng 
			ăn dưa. 
 
			- 
			Có khi hát: 
 
			- 
			Gió đưa gió đẩy về rẫy 
			ăn còng.
 
			- 
			Về sông ăn cá về đồng 
			ăn cua.
 
			- 
			 
 
			- 
			Tùy theo cảnh huống mà 
			nói, câu nào cũng đúng cả. Nếu ta định nghĩa phân biệt thế nào là 
			rẩy và ruộng, thế nào là đồng và giồng thì càng rõ thêm.
 
			- 
			Ruộng có ruộng gò ruộng 
			sâu, nhiều vùng nê địa lại có cả lung cả quằng; nhưng ruộng thì phải 
			cách xa sông. Trong khi rẩy, dù xa hay gần sông, nước rẩy vẫn là 
			nước sông tràn vào. Nước ra vào nên có một loại cỏ bắc lá mướt như 
			mạ non nhưng rất bén. Khi tới mùa gió chướng, nước mặn ngoài biển 
			tràn vào nên sông có nước pha chè, lờ lợ mặn. Đương nhiên thòi lòi 
			và còng gió rất nhiều. Cá bóng trứng, bóng nhảy, bóng sao đầy nhoi 
			các lổ chưn trâu. Hai bên bờ sông là dừa lá dày đặc. Cá bóng dừa là 
			loại đặc biệt ở trong các bẹ bộp dừa. Dưới bãi sông có nghêu có hến, 
			lòng lạch sông là cá tép đủ loại. Rẩy trồng lúa không tốt, chỉ lên 
			bờ trồng khoai dương ngọc, trồng mía trồng thơm. Rẩy rất dễ biến 
			thành vườn dừa vì có huê lợi nhiều hơn, nhưng rẩy vẫn được duy trì 
			là để nuôi vịt, nuôi trâu bò. Ở rẩy buồn, chỉ có còng là nhiều, nói 
			lên sự thiệt thòi nghèo nàn ở miệt rẩy. Khói đốt đồng thì buồn, 
			nhưng có người canh lửa cháy lan, và tro bụi trở thành phân bón cho 
			mùa năm tới. Trái lại, khói đốt rẩy thì chỉ có le te bìm bịp kinh 
			hoàng tung bay, không ai canh chừng, vì cỏ bắc tươi xanh khó bén lửa 
			như rạ khô ở đồng, vã lại cạnh bờ sông nước chảy lờ đờ, còn gì buồn 
			hơn.
 
			- 
			Về rẫy 
			ăn còng là 
			cách nói bóng bẩy, chứ ít ai ăn con còng gió, mặc dù còng cũng có 
			gạch có càng. Người ta chỉ ăn con rạm con nga, tương tợ như con ba 
			khía.
 
			- 
			
			   
			- 
			Về sông 
			ăn cá thì 
			khỏi phải giải thích. Nhưng về 
			đồng ăn cua thì sao? 
			Đồng ruộng cách sông, nhưng phì nhiêu sung túc hơn ở rẩy. Đồng có 
			nhiều cá tôm cua ốc. Con cua dính liền với đồng ruộng. Nhà nông 
			thường bắt con cua con, ăn sống nhai cả vỏ cả ngoe và hớp vào một 
			ngụm rượu đế, vừa trừ nạn cua cắn lúa non, vừa trị bịnh. Người bị té 
			nội thương, dùng con cua đồng đâm nhỏ hòa với nước tiểu hài nhi mà 
			uống, sẽ thấy công hiệu.
 
			- 
			Rẩy với ruộng với đồng 
			khác nhau, còn giồng thì sao?
 
			- 
			Tại quê tôi, nếu kể thì 
			không bao giờ kể hết tên giồng. Có lẽ phải tham khảo thêm các bài 
			viết của
 
			- 
			nhà văn Xuân Vũ hay “Cây 
			Cỏ Miền Nam” của Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ mới liệt kê đầy đủ. Như là 
			Giồng Tre, Giồng Trôm, Giồng Quít, Giồng Cát, Giồng Duối, Giồng 
			Luông, Giồng Chùa, Giồng Khuê, Giồng Trường, Giồng Keo, Giồng Thủ... 
			Trở về nguồn gốc thảo mộc thì ở giồng chỉ nơi đất cao và đặc biệt 
			tượng trưng cho một loại thảo mộc thích nghi. Do đó giồng khác biệt 
			với “cái”. Cái chỉ nơi có bến nước và cũng có loại thảo mộc thích 
			nghi như Cái Vẹt, Cái Khế, Cái Quao, Cái Bần. Nếu đồng trồng được 
			nhiều loại cây trái khác nhau thì giồng chỉ thích hợp riêng cho loại 
			chịu đất cao và khô, như cây vú sữa, cây cau, cây đào và đặc biệt là 
			dưa. Nếu trồng loại lạ, thì phải tưới thật nhiều nước, như dây bầu 
			dây bí trồng ở giồng cũng rất sai trái, nhưng phải tưới đủ nước. Dưa 
			trồng ở giồng có dưa hấu, dưa gan, dưa leo, dưa chuột, sau này có 
			giống dưa hoàng kim, dưa sugar baby.. Dưa cũng như mướp, cũng có 
			bông đưa bông cái, nhưng bông đực truyền phấn rồi rụng, còn bông cái 
			đậu và lớn dần thành trái. Dưa hấu lúc còn nhỏ gọi là dưa hường hay 
			dưa hồng, kho lạt với cá lóc rất ngon:
 
			- 
			Mẹ mong gả thiếp về 
			giồng,
 
			- 
			Ăn bông bí luộc, dưa 
			hồng nấu canh.
 
			- 
			 
 
			- 
			Về dưa hường dưa hấu còn 
			có câu đố như sau:
 
			- 
			 
 
			- 
			Ngoài xanh trong đỏ 
			như vang
 
			- 
			Khen ai khéo đặt một 
			chàng hai tên.
 
			- 
			 
 
			- 
			Chuyện dưa ở giồng cũng 
			là chuyện dài không kể hết. Từ quả dưa đỏ An Tiêm trong cổ học Việt 
			Nam đến chuyện đá cá lăn dưa, đến trợt vỏ dưa sợ vỏ dừa, đến dưa gan 
			đổ hột... không nhắc hết ở đây..
 
			- 
			Thơ văn và ca dao cũng 
			thường hay nhắc đến dưa:
 
			- 
			 
 
			- 
			Ví dầu ví dẫu ví dâu
 
			- 
			Ăn trộm hái bầu, ăn 
			cướp hái dưa.
 
			- 
			 
 
			- 
			Hoặc như:
 
			- 
			 
 
			- 
			Chị kia kẹp tóc đuôi 
			gà
 
			- 
			Nắm đuôi chị lại hỏi 
			nhà chị đâu.
 
			- 
			Nhà tôi ở dưới đám dâu
 
			- 
			Bên trên đám đậu, đầu 
			cầu ngó qua
 
			- 
			Ngó qua đám bắp trổ cờ
 
			- 
			Đám dưa trổ nụ đám cà 
			trổ bông
 
			- 
			 
 
			- 
			Hoặc như Bồ Tùng Linh đã 
			viết trong Liêu Trai Chí Dị:
 
			- 
			 
 
			- 
			Cô vọng ngôn chi cô 
			thín chi
 
			- 
			Giậu bằng qua giá vũ 
			như ti
 
			- 
			Liệu ưng yếm tác nhân 
			gian ngữ
 
			- 
			Ái thín thu phần quỷ 
			xướng thi
 
			- 
			 
 
			- 
			Tản Đà dịch:
 
			- 
			 
 
			- 
			Nói láu mà chơi nghe 
			láu chơi
 
			- 
			Giàn dưa lún phún giọt 
			mưa rơi
 
			- 
			Sự đời hẳn chán không 
			buồn nhắc
 
			- 
			Thỏ thẻ nghe ma đọc 
			mấy lời
 
			- 
			 
 
			- 
			Ở đây tôi muốn nói đến 
			giồng, đến cát bủn quê nhà, nơi mà hơn 50 năm qua tôi còn ghi trong 
			ký ức. Trên bước đường lưu vong hải ngoại, nhìn cảnh sa mạc xứ 
			người, thấy cảnh sóng cát gờn gợn, tôi chợt thấy nhớ tới cát bủn quê 
			nhà. Cũng có gió trốt thổi cát mịt mờ, cũng có cảnh đá chạy cát bay. 
			Cũng có những con rắn liu điu tim đèn chun vùi dưới cát. Cũng có 
			những con dế dủi độn cát như Thổ Hành Tôn trong truyện Tàu. Cũng có 
			những con kiến nhọt, kiến nẻ ghê hồn, những ổ kiến lửa đùn cát bọt 
			lúc tinh sương. Cũng có những con kỳ nhông chạy lẹ giữa trưa hè. 
			Những ai đạp phải ổ
 
			- 
			kiến cắn sưng làm độc chỉ 
			có cách là tìm thầy Lổ Bang để khoán theo lối “đau Nam chữa Bắc” thì 
			mới biết.
 
			- 
			 
 
			- 
			Giồng sẽ trở thành đồi 
			cát hay sa mạc nếu không có giếng. Giồng và giếng phải đi đôi với 
			nhau. Miệt giồng rất khó đào giếng, vì phải đào thật sâu mới có 
			nước. Lớp trên là cát, nếu gặp mưa thì cát sụp thành giếng lạn. Do 
			đó miệng giếng phải rộng và thoải độ để tránh cát chuồi. Nước giếng 
			ngọt và trong veo vì lớp cát lọc tinh khiết.
 
			- 
			Giếng và gàu cũng là hình 
			ảnh nên thơ của miệt giồng. Gàu đươn bằng lá dừa nước còn non trong 
			cây cần bắp. Một cây cần bắp hay tàu lá dừa có thể dài đến 5 hoặc 6 
			thước. Chỉ một cần bắp là chầm được một cái nón lá hay đươn được một 
			gàu múc nước. Gàu đươn hình như con ốc, nhỏ lớn có thể múc đầy 5 đến 
			10 lít nước. Gàu lá nhỏ thì chắc, ít bể, xài lâu hơn. Gàu được nối 
			bằng sợi dây thật chắc thật dài để xách nước giếng. Có thể là loại 
			dây bố đánh lại hoặc là bẹ bộp dừa xé ra. Những loại dây này xuống 
			nước càng dẽo dai. Nhiều khi dùng dây chuối để xài tạm. Gàu bể mà 
			xách giếng sâu, phăng dây dài là cả một nghệ thuật, nhưng đó cũng là 
			hình ảnh đáng thương:
 
			- 
			 
 
			- 
			Tưởng giếng sâu tôi 
			nối sợi dây dài
 
			- 
			Nào hay giếng cạn, tôi 
			tiếc hoài sợi dây.
 
			- 
			 
 
			- 
			Có những giếng rộng thoai 
			thoải, có bực đi xuống. Có giếng có bèo đặc gừ. Muốn múc nước phải 
			khỏa bèo. Bèo vớt lên để ủ gốc cây, dây bầu dây bí thật là tốt. Khỏa 
			bèo thường xách nước bằng thùng thiếc, bằng thùng dầu lửa cắt ra và 
			đóng cây ngang để xách. Thùng chứa 20 lít nước. Nếu đóng cây xuôi 
			thì người ta xách một lúc 2 thùng, 40 lít nước, hai thùng nối vào 
			dây và một đòn gánh ngắn ngang vai, hay tay kềm hai thùng nước...
 
			- 
			Ngoài ra còn đặc trưng 
			của miệt giồng, người ta còn trồng cây bông vải. Sau thời kỳ tơ tằm 
			và tang dâu, người ta trồng cây bông vải để may mặc. Dụng cụ xe kéo 
			chỉ hay khung dệt với go, con thoi vẫn giữ như cũ. Bông vải gieo 
			bằng hột nhỏ và đen cở giọt nước rơi. Lá bông vải hình trái tim như 
			lá bồ đề, mặt dưới có nhiều gân và lông nhỏ để hút sương như các 
			loại cây sa mạc. Bông búp nụ như bông bần, đài bông có 4 hoặc 5 
			cánh. Bông thành trái cũng gọi là trái bông, có hình trái tim. Khi 
			nứt vỏ cũng hình trái tim, 4 múi hình trái tim trắng tinh như là múi 
			trái măng cụt cắt ra. Nếu hái không kịp, giữa trưa nắng để gió thổi 
			qua, bông sẽ túa bay như tuyết, hoặc cát bụi sẽ bám vào. Cho nên 
			phải canh mà hái bông lúc sáng sớm, phơi nắng vài tiếng và tách bông 
			ra. Gở bông khỏi vỉ, đem phơi và dùng xe cán bông mà cán cho hột rời 
			ra. Xe cán bông có hai trục cán, tay có nắm như trái bần để quay. 
			Bông được bọc trong tấm khăn mỏng đem phơi và mang vào phòng kín để 
			bắn, Dùng cung và dây, như một dũng sĩ ngồi bắn. Người bắn bông 
			thường là thiếu nữ dịu hiền. Dây cung dương thẳng nẹt vào bông nghe 
			bình bịch. Xong lại dời đống bông sang bên dùng roi quất tron trót. 
			Mục đích là làm cho hột rời ra hết và làm cho bông nhuyễn ra và 
			trắng mịn. Bông phải trắng trong như suốt thì mới dùng se chỉ mà dệt 
			thành vải được:
 
			- 
			 
 
			- 
			Trắng như bông lòng Em 
			không có chuộng
 
			- 
			Đen như cục than hầm, 
			mà lòng Em muốn, dạ Em ưng.
 
			- 
			 
 
			- 
			Hột bông có thể ép làm 
			dầu hay ủ làm giá, ăn ngon hơn giá đậu, Vỏ trái bông làm củi chụm, 
			tro rất
 
			- 
			mặn rất tốt. Người ta chỉ 
			gọi là bông vì vừa là hoa vừa là quả. Cũng như lúa, vừa là bông vừa 
			là hột, cũng như bông súng, vừa là hoa vừa là trái. Bông lúa bông 
			vải có hột để truyền giống. Bông súng chỉ có củ nẩy mầm, còn bông 
			sung còn gai là trái sung, không truyền giống bằng hột. Tôi sẽ kể 
			lại nghề nuôi tằm ươm tơ và trồng dâu ở miệt giồng và đặc biệt trồng 
			cây thuốc lá...
 
			- 
			Những đợt mưa giông, nước 
			tràn trên cát cùng với bọt bèo, lá cây, đổ về nơi trũng thấp. Cát 
			mịn lại và dợn sóng như đồi cát sa mạc dưới cơn gió thổi. Có những 
			con cua con, con ếch con bằng đầu đủa, lẫn lộn trong bọt cát. Đấp bờ 
			cát đón nước trôi mà tìm bắt cua con, ếch con giữa sấm sét ầm ì, là 
			thú vui của tuổi thơ. Mưa xong là mặt giồng khô ngay, vì nước rút 
			theo cát và chảy về chỗ trũng. Đi trên cát sau cơn mưa mới tạnh, vừa 
			êm vừa mát tưởng không thảm nhung nào trên đời mịn hơn.
 
			- 
			Cát quê tôi là cát bủn, 
			mịn có thể làm “Lầu Sa” thay “Nhựt Khuê” như thuở xưa. Ngày xưa quan 
			niệm đêm năm canh ngày sáu khắc. Ban đêm đo canh bằng “lầu sa”, tức 
			là bình chứa cát thật mịn, nếu cát nhiễu xuống hết là hết canh, ra 
			đánh kiểng. Còn “nhựt khuê” là cắm một cây cọc, dùng bóng mặt trời 
			ngã mà đo khắc ban ngày:
 
			- 
			 
 
			- 
			Lầu sa đã cạn cát vàng
 
			- 
			Sao Em còn hãy mơ màng 
			chi đây?
 
			- 
			Nhựt khuê ngã đậm bóng 
			ngày
 
			- 
			Sao Em còn mãi thở dài 
			hởi Em?!
 
			- 
			 
 
			- 
			Ở giồng nghe tiếng 
			“quốc-oa” vào trưa hè thật không gì áo não hơn. Con quốc kêu đều đều 
			từ trong bụi tre gai:
 
			- 
			 
 
			- 
			Tu-oa quốc quốc
 
			- 
			Tu-oa quốc quốc
 
			- 
			 
 
			- 
			Quốc phải khổ sở lắm mới 
			vào được trong bụi tre gai, vì nếu ở ngoài sẽ bị chồn đèn rình bắt 
			ăn thịt. Chồn đèn rất khôn, nhỏ con gan dạ, đủ mánh lới, cũng len 
			lỏi vào các bụi tre để săn mồi. Hể nghe quốc kêu ròng rả mà kết thúc 
			bằng tiếng thất thanh “quốc, quốc, quốc” là biết quốc đang lâm nguy. 
			Thuở nhỏ tôi thương con bìm bịp và con quốc-oa, nên không bao giờ 
			gài bắt,
 
			- 
			Trưa hè ở giồng mới thấy 
			nắng đổ lửa trên đầu. Nắng chang chang, cát chập chờn bốc hơi. Tôi 
			thương nhớ Anh, nhớ Chị và nhớ Mẹ già mỗi khi nhắc tới cát bủn đường 
			giồng. Nếu không có Anh đòng đòng trên cổ, không có Chị cõng trên 
			lưng, không có Mẹ bồng bên hông, tôi không thể nào qua vùng cát bủn 
			để lên lộ cái mà đi chơi với bạn bè. Chạy sát bờ chuối hay hàng đào 
			thì sẽ đạp gai. Đó là gai xương rồng và gai mắc cở, nhiều khi còn bị 
			kiến cắn. Chạy giữa giồng thì cát sẽ phỏng chưn. Khoảng cách từ nhà 
			lên lộ chỉ 400 mét, thế mà đối với tôi, như một biển lửa hực trời. 
			Phải tới lộ cái, ngồi dưới tàn vú sữa mà chơi nhà chòi, gở vỏ cây 
			tìm con bửa củi giữa trưa hè mới là thú vị. Những ngày ui ui không 
			nắng, ngồi trên tàu mo cau cho bạn kéo đi trên bãi cát, êm như là 
			ghe đi trên sông lặng tờ.
 
			- 
			Khi lớn lên đôi chút, học 
			lớp sơ cấp tại Giồng Trường, tôi cũng không dám đi trên lộ cái về 
			Chợ Mới mà phải đi tắt bờ mẫu. Băng bờ mẫu thì phải qua đám mã dưới 
			hàng cây sao bên Giồng Trường rất sợ ma. Qua vài vuông đất đầy tre 
			gai mới tới bờ mẫu. Trên bờ mẫu thì tha hồ tướt cỏ may, hái trái cối 
			xay, trái bông gạo. Trái bông gạo như hột cườm hình thoi màu trắng 
			xỏ chung với hột cườm rắn màu đỏ tươi có điểm chấm đen, đẹp rất đẹp. 
			Tôi hái trái bù ngót màu hồng màu trắng mọc hoang bên bờ. Hái trái 
			cỏ xuốt gở ra như hình con cá rô mén, hái trai ké đầu ngựa mà chọi 
			nhau. Hái trái hột nổ màu nâu đen ngậm cho ướt lén bỏ lên đầu nhau 
			chờ nổ răng rắc tung hột mà cười. Đi bờ mẫu chỉ lúc gần tới nhà là 
			phải qua hàng keo già mé triền ruộng. Cũng gần như cây bã đậu, nhưng 
			gai keo nhỏ hơn, dễ bị đạp nhưng cũng dễ lể ra.
 
			- 
			Cát bủn quê tôi chỉ có 
			cây mắc cở là mọc được. Cây mắc cở là loại bò sát đất, là mịn màng 
			như lá me, hể đụng đến là xếp lại như e thẹn, nên mang tên mắc cở. 
			Bông màu hồng lúc sáng tinh sương, hình tròn như bông bình linh, 
			trưa phai thành màu hồng lợt. Cây mắc cở có nhiều gai bén và cong 
			ngược như lưỡi câu.
 
			- 
			Ngoài việc trồng bông như 
			đã kể, ở giồng còn trồng mía, đậu phọng, khoai lang, khoai mì. Đất 
			cứ trở mại cho phì nhiêu. Phân bón thường là phân mặn, tức vỏ vụn 
			tôm khô miệt Bạc Liêu, các con cá con vụn phơi khô miệt Bình Đại, Ba 
			Tri. Sau mỗi mùa hoa lợi, phân vẫn còn đọng trong cát, nên trồng 
			thêm loại nào cũng trúng cả. Nếu muốn cải bẹ xanh hay củ cải trắng, 
			thì lên liếp và ủ thêm phân cỏ tưới nước cho im. Muốn trồng bầu bí 
			thì đào trũng, ủ thêm thân cây chuối mục và tưới thật nhiều. Các dây 
			khoai lang cũng thấy trồng bên các gốc cây cho bóng mát.
 
			- 
			Ngoài giếng ở giồng còn 
			có ao, có hào. Cạnh bờ ao bờ hào, ngoài tre còn có các cây me chua, 
			cây mít, cây khế...
 
			- 
			 
 
			- 
			Đừng chê khế rụng bờ 
			ao
 
			- 
			Dẫu rằng núi lở còn 
			cao hơn đồi
 
			- 
			 
 
			- 
			Các cây bình bát, mồng 
			tơi, nhà lồng mọc um tùm. Trên các cành cao còn có cây ráng bay, cây 
			chùm gởi quyến rũ loài chim sâu sặc sở. Chim sáo, chim chìa vôi, 
			chim dòng dọc kêu ríu rít tranh ăn những trái keo phồng. Ổ chim dòng 
			dọc tòng teng lắc lơ theo gió như những lồng đèn. Nắng chiều phản 
			chiếu trên tàng vú sữa lá hai màu như hào quang. Những ngọn cau tầm 
			vung ngất trời vang vội tiếng chim gỏ kiến như mỏ liên hồi. Cò trắng 
			theo sau những con trâu chậm chạp trên đường về, là hình ảnh quen 
			thuộc của quê tôi.
 
			- 
			Tôi học theo Anh làm vòng 
			tóm câu để gài bắt con kỳ nhông. Như loại sấu, nếu con kỳ đà to lớn, 
			con cắc ké sần sùi, con cắc kè sặc sở, con rắn mối vải láng, con 
			thằn lằn nhỏ ôm cột nhà, thì con kỳ nhông ở hang, lớn cở cổ tay, dài 
			độ 4 tấc, chạy lẹ mắt không nhìn kịp. Mình xám như con thằn lằn và 
			mát lạnh. Ít ai bắt được kỳ nhông vì nó rất nhát và sợ tiếng dộng. 
			Kỳ nhông sợ nhứt là tiếng sét lúc sa mưa. Đào hang con kỳ nhông còn 
			khó hơn đào hang con tôm tít, con tèn hen. Hang cũng có ngách, nghe 
			động là chui nẽo khác, nếu đào tới nơi cũng ít khi chụp bắt kịp vị 
			nó vọt quá nhanh. Bắt kỳ nhông chỉ còn cách là gài bẩy. Bẩy tóm như 
			nhợ câu, đặt thành vòng trên miệng hang. Mắt kỳ nhông sáng và láu 
			lia. Tôi gài bắt được và chạm phải thân nó mát lạnh như cục nước đá 
			giữa trưa hè, nó vùng vẫy và đảo mắt láo liên, tôi thương hại mà thả 
			nó ra ngay. Thịt kỳ nhông nghe nói ngon hơn thịt kỳ đà và thơm béo 
			hơn thịt rắn mối, nhưng ít ai ăn được vì khó bắt.
 
			- 
			Miệt giồng là như vậy, 
			không gì huy hoàng, chỉ có nắng chang cát bủn. Những cây vú sữa, cây 
			đào, cây xoài, cây mận, bụi chuối chung quanh không giúp nổi tôi 
			vượt qua vùng cát nóng. Nhưng tôi lúc nào cũng mơ về giồng cát bủn 
			quê nhà. Ở đấy có Đọc Giảng Đường, có Nhà Thờ, có Thất Cao Đài, có 
			Chùa Giồng Khuê, có Miểu Điền và có những ba Ngôi Đình. Quê tôi hay 
			nhắc đến ba Châu: Châu Bình, Châu Phú, Châu Hòa, ba Mỹ: Mỹ Nhiên, Mỹ 
			Chánh, Mỹ Lòng và ba Tân: Tân Thanh, Tân Hào, và Tân Thanh Trung.
 
			- 
			Cát bủn Tân Thanh đã giúp 
			cho Nghĩa Quân đá cát tung mờ chạy thoát mỗi khi Tây rượt đuổi đến 
			Miễu Điền. Cát bủn Tân Thanh đã không đốt cháy gót ngọc tuổi thanh 
			xuân của tôi, nhưng ót tôi vẫn bị chai vì tôi đã phải dẫm đá xanh, 
			đá ong lộ đứt; phải băng sông lội xình mà thêm cát bủn quê nhà. Hơn 
			50 năm rồi còn gì! Gót tôi đã rạn nứt phong trần. Nếu có ai dẫm trên 
			gai mắc cở hay lội trên cát bủn bốc hơi giờ này chắc cũng không nóng 
			bằng lửa đốt lòng tôi, không đau xót bằng gai nhói tim tôi.
 
			- 
			Hột cát trong giày, nếu 
			là cát quê tôi thì có gì đáng ngại, vì nó mịn và êm. Cát quê tôi nếu 
			lọt vào mắt thì mới xốn xang mà thức tỉnh chăng?
 
			- 
			Ôi, cát bủn quê hương, 
			tôi chỉ cần một hột cát mà thôi, dù là một hột cát trong mắt cũng 
			không có được! Tôi cần một hột cát trong mắt để dụi mà thấy rằng 
			mình không mơ!!!
 
			- 
			 
 
			- 
			(Trích Đặc San TRÀ 
			VINH)
 
		 
		Nguồn: saigontimesusa |