“Đi chợ tính tiền” là một bài ca dao lục bát.
Ng Khắc Phước
Bài đă được in làm Bài HọcThuộc Ḷng cho học sinh lớp "sơ
đẳng" (tức lớp 3) trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư năm
1948. Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về,phải
tŕnh bày minh bạch ,rơ ràng việc chi tiêu với chồng.
Ngày xưa khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ư như
rứa,đồng thời nêu bật tính đảm đang,khéo vén của người phụ
nữ xưa....sau đó yêu cầu học sinh học thuộc.Thầy không giảng
về bài toán ẩn trong bài thơ,có lẽ v́ thời thế đă khác (Khoảng
năm 1958,chưa được vào trường công lập,người viết học với
Ông giáo... ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn,không
biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?)đồng
tiền cũng đă đổi thay, hoặc giải bài toán chắc chi những học
tṛ nhỏ hiểu được.
Đă hơn năm mươi năm, bây giờ người học tṛ xưa đang ngồi ôm
tóc trắng... một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm
cũ ngày xưa chừ không c̣n, nhưng bài thơ vẫn c̣n đọng măi
trong đầu của bài Học thuộc ḷng thửa ấy.Bèn t́m giấy giải
thử.
Ngay câu thơ đầu tiên đă gặp ngay vấn nạn."Một quan tiền tốt
mang đi".Một quan là bao nhiêu? Quan là đồng tiền cổ,những
người muôn năm cũ giờ không c̣n,biết hỏi ai đây? Chợt nghe
vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:
Một quan là sáu trăm đồng.
Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.(Thơ của Nguyễn Bính).
Vận dụng cả 4 phép tính cộng trừ nhân chia,đảo xuôi
ngược,lên xuống...măi vẫn không đủ 600 đồng cho một quan
tiền!
Lại phải đi t́m trong lịch sử.Trong một ngàn năm Bắc
thuộc,dân Việt không có đồng tiền riêng . Măi đến sau khi
Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán ,dân Việt vẫn c̣n dùng đến
đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968,Đinh Bộ Lĩnh sau khi
dẹp loạn 12 sứ quân ,lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên
Hoàng,niên hiệu Thái B́nh. Năm 970 nhà vua đă cho đúc những
đồng tiền Thái B́nh Hưng Bảo.Đây chính là những đồng tiền
đầu tiên của người Việt.Từ đó tiếp đến những triều đại sau
đều theo .
Đơn vị để tính tiền xưa gồm có :quan,tiền ,đồng.Mỗi quan có
giá trị là 10 tiền,mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy
định của mỗi thời đại.Theo sử sách giá trị đồng tiền các
thời đại như sau:
1/ Năm 1225,vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền.1 quan
bằng 10 tiền.1 tiền bằng 70 đồng.
2/ Năm 1428 vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên.1 quan
bằng 10 tiền.1 tiền bằng 50 đồng.
3/ Năm 1439,vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền ,1
tiền bằng 60 đồng.
Như vậy 1 quan=10 tiền=600 đồng.
Từ đó các triều đại về sau,mỗi khi đúc một loại tiền mới đều
theo tỷ lệ này,cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có
tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.
Năm 1905, chính quyền bảo hộ Bắc kỳ cho phát hành loại tiền
đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp,
mặt sau ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền
đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo, Thiệu Trị
Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.
Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn c̣n có thêm hai đồng
tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo, hai
loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập
bằng máy dập nhập từ nước Pháp.
Đến đây chắc chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đă
giải được. Ghi lại như sau, bên phải là các phép tính đă
giải.
ĐI CHỢ TÍNH TIỀN
Một quan tiền tốt mang đi, 600
Nàng mua những ǵ chàng tính chẳng ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà, 3x60 = 180
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu. 60+30+3 = 93
Trở lại mua sáu đồng cau, = 6
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng. (1,5x60)+10 = 100
Có ǵ mà tính chẳng thông?
Tiền rưỡi gạo tẻ,sáu đồng chè tươi. 60+30+6 = 96
Ba mươi đồng rượu chàng ơi, = 30
Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng. 30+20 = 50
Hai chén nước mắm rơ ràng,
Hai bảy mười bốn,kẻo chàng hồ nghi. 2x7 = 14
Hăm mốt (21) đồng bột nấu chè, = 21
Mười đồng nải chuối, chẵn th́ một quan. = 10
CỘNG = 600
Trong sách QVGKT, bên dưới bài học thuộc ḷng này có 3 từ
giải nghĩa, ghi nguyên văn như sau:
"GIẢI NGHĨA: Tiền tốt =tiền tiêu được.
Vàng =đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi.
Hồ nghi =ngờ vực,không biết rơ".
Những giải nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học tṛ tóc
c̣n để chỏm, dễ hiểu,dễ nhớ. Đi chợ tất phải đem theo tiền,
tiền phải có giá trị trong mua bán... là chuyện đương nhiên.
Nhưng sao gọi là tiền tốt? Một bài cao dao được lưu truyền,
được in trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (Bản in đầu tiên
năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi, không lẽ v́ bí vần mà
viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi t́m tiếp.
Có một giai thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm.Chuyện kể
rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5
quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến, đếm hoài vẫn chỉ
thấy có 3 quan. Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho mượn
tiền:
Sao nói rằng năm chỉ có ba.
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.
Nhớ hái cho xin nắm lá đa.
Chiêu Hổ họa lại:
Rằng gián th́ năm,quư có ba.
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Trong bài họa của Chiêu Hổ có chữ gián và quư.Đây là cơ sở
dẫn người viết đi t́m tiếp. Đă "có công tất ...chồng không
phụ", kết quả đă t́m được:
Khoảng thế kỷ 18, dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền
lưu hành. Đó là tiền quư và tiền gián, tỷ lệ như sau: 1quan
quư = 600đồng. 1 quan gián chỉ bằng 360 đồng.
Khi hỏi mượn tiền, Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan, không
nói là quan ǵ. Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên
chỉ cho mượn số tiền thấp xuống, nhưng vẫn đủ 5 quan:
Quan quư : 3x600 =1800 đồng
1800:360 = 5 quan gián
Giá trị của các loại tiền xưa như thế nào? Đây là những số
liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng.
-Quan Nhất Phẩm lănh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70
quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo quần.
-Quan Chánh ngũ phẩm, hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43
phương gạo, 9 quan tiền Xuân Phục.
-Lính, thơ lại, phục dịch ...lương mỗi tháng 1quan tiền, 1
phương gạo.
Đồng quan ngày xưa nó to thế. Chẳng trách người ta bỏ
...quan ra để mua phẩm hàm ,chức tước...để được làm quan!
Chẳng trách người phụ nữ " thời xưa"(tên khác của bài thơ
Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân, gác tạm những ẩn
ức, dồn nén để một ngày chồng vinh qui về làng... cùng nhau
trăi trọn trong một đêm trăng!
Qua những số liệu vừa t́m được, ta có thể thấy rơ bài ca dao
"Đi chợ tính tiền" xuất hiện sớm nhất phải từ thời Minh
Mạng. Bởi từ lúc này mới có "Một quan tiền TỐT"mang đi. Tiền
tốt chính là tiền quư, phân biệt với tiền gián có giá trị
thấp hơn. Cũng thấy được,người phụ nữ trong một buổi chợ quê
đă tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính. Nhà nàng
chắc phải có chuyện quan hôn, kỵ giỗ chi đây!
Thật thú vị, để giải bài toán ẩn bên trong bài ca dao, đă
phải đi loanh quanh, ḷng ṿng. Gặp những bài thơ hay, giai
thoại đẹp, biết thêm vài điều về lịch sử... Nếu không có
Internet chắc ǵ người viết đă giải được bài toán ẩn bên
trong bài ca dao cổ? Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục t́m,
những thư viện phải đi đến... đă thấy chồn chân chẳng muốn
trèo !