|  | Đôi điều về ca dao tục ngữ. Nguyễn Mộng Khôi
 
		
		 *Ca 
		dao ( folk song ) là câu hát phổ thông trong nhân gian. 
		Chữ ca có nghĩa là ngân giọng dài ra. Dao là hát trơn không cần đệm. Ca 
		dao do lưu hành khẩu truyền, không biết ai là tác giả . Nhiều bài mô tả 
		tâm hồn nam nữ, tính t́nh, phong tục tư tưởng nhân gian và thấm nhuần 
		đậm đà mầu sắc quê hương. Do đó ca dao c̣n có tên là phong dao, là câu 
		hát tỏ bày phong tục. *Tục ngữ ( proverb ) là 
		lời nói lập thành sẵn người ta dùng quen, là câu thành ngữ lưu hành 
		trong thế tục. Nhiều câu có ư nghĩa thâm cao, có ư nghĩa luân lư giảng 
		dậy. những câu tục ngữ vốn do người xưa truyền lại th́ gọi là ngạn ngữ. 
		Những câu tục ngữ chỉ lưu hành trong mt xứ môt vùng, môt nghề th́ gọi là 
		phương ngôn.Những câu tục ngữ hay ngạn ngữ có ư nghĩa giảng dậy th́ gọi 
		là cách ngôn hay châm ngôn. ( theo Từ Nguyên )
 ****
 Ca dao, tục ngữ Việt Nam có từ lâu 
		lắm. Nhưng măi đến cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn mới có môt số nhà Nho, 
		góp nhặt những tục ngữ, ca dao trong nhân gian rồi chép thành sách. Ông 
		Trần Danh Án, đậu nhị giáp tiến sĩ năm 1787 viết quyển ‘’Nam-phong 
		nữ-ngạn thi‘’ghi chép được môt số câu ca dao nửa chữ nôm, nửa chữ Hán. 
		Ông Ngô Hạo Phu, đậu giải nguyên năm 1819 dịch tục ngữ ra thơ chữ Hán 
		theo lối Kinh thi...Măi đến cuối thế kỷ xix, khi nước ta bị đô hô mới 
		bắt đầu chịu ảnh hưởng của văn hóa người Pháp, người phương Tây, mà 
		nghiên cứu, phê b́nh loại văn chương b́nh dân này theo lối Tây phương. 
		Ông Edmond Nordeman sưu tập, trích lục văn nôm xưa mà làm sách Quảng tập 
		viêm văn ( Chrestomatie annamite), xuất bản năm 1898 tại Hà nôi.Giáo sư 
		G.Cordier người Pháp soạn quyển Việt nam thi văn hợp tuyển ( litterature 
		annamite,extraits des poetes et des prosateurs annamites ) đầu tiên, 
		tiếp theo là những quyển như, Góp nhặt những câu ca dao ( Recueil de 
		chansons populaires) của Paulus Của. Ông Julien với quyển Lớp tiếng Việt 
		(Cours de langue annamite). Ông Đặng Lễ Nghi cho xuất bản quyển Câu hát 
		huê t́nh năm 1917. Đến năm 1928, ông Nguyễn văn Ngọc ấn hành quyển Tục 
		ngữ phong giao. Tiếp theo là những sưu tập của Giáo sư Dương Quảng Hàm, 
		Thanh Lăng ... Từ đó đến nay đă có hàng trăm tác giả thâu góp và giải 
		thích tục ngữ ca dao.
 Tục ngữ và ca dao-đặc biệt là CA DAO chính là tiếng nói của đồng nôi, là 
		âm vang của làng quê tổ truyền, phản ảnh sinh hoạt nông thôn, chứa chan 
		t́nh cảm dân tôc và mầu sắc xứ sở. Đó là những sản phẩm của tinh thần 
		nung đúc trong bao nhiêu tim óc, chọn lọc từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, 
		từ vùng nầy qua vùng khác và là của chung cả nước của cả dân tôc.
 
		 GIẢNG 
		B̀NH BAI CA DAO CON TRAI NGỎ Ư VỚI CON GÁI
 
 Những người lớn tuổi ở nước ta, phần đông thuc ḷng bài ca dao trữ t́nh 
		nầy:
 Hôm qua tát nước đầu đ́nh,
 Bỏ quên cái aó trên cành hoa sen.
 Em được th́ cho anh xin,
 Hay là em để làm tin trong nhà.
 Áo anh sứt chỉ đường tà,
 Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
 Áo anh sứt chỉ đă lâu,
 Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
 Khâu rồi anh sẽ trả công,
 Đến khi lấy chồng, anh lại giúp cho:
 Giúp em môt thúng sôi ṿ,
 Môt con lợn béo, môt ṿ rượi tăm;
 Giúp em đôi chiếu em nằm,
 Đôi chăn em đắp, đôi chằm em đeo;
 Giúp em quan tám tiền cheo,
 Quan năm tiền cưới, lại đèo bưồng cau.
 Bài này có từ lâu, Cái thuở mà xă thôn 
		tự trị, "phép vua thua lệ làng", thuở mà trai gái c̣n bị phong tục, tập 
		quán khắt khe ràng buôc. Đám cưới phải đóng tiền" cheo" cho làng mới 
		được công nhận: " cưới vợ không cheo, mười heo cũng mất"; Tiền cheo nôp 
		cho làng thường th́ nhiều hơn là tiền tổ chức đám cưới. Cưới vợ "quan 
		năm"mà cheo th́ "quan tám":Giúp em quam tám tiền cheo,
 Quan năm tiền cưới , lại đèo buông cau
 Câu chuyện t́nh bắt đầu bằng cuôc gặp gỡ của cậu trai làng và cô gái 
		cùng thôn ở đầu đ́nh. Những ngày không hôi hè th́ nơi đây là chỗ vắng 
		vẻ. Cậu trai mới lớn. Hôm nay là lần đầu tiên, ngẫu nhiên gặp cô gái mà 
		cậu đă nghe tên từ lâu ; V́ bất chợt, không biết phải mở đầu làm sao. 
		Cậu nói bâng quơ:
 Hôm qua tát nước đầu đ́nh,
 Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
 Thấy cái điệu bô lúng túng và câu chuyện bịa đặt, vô lư nhưng dễ thương. 
		V́, có ai mà lại treo cái aó trên cành hoa sen bao giờ! Cây sen làm ǵ 
		có cành, cái cọng mềm th́ lại nằm dưới mặt nước.
 Tuy chưa biết mặt, nhưng có lẽ cô gái cũng thầm yêu trôm nhớ.Cô không 
		đáp lại, nhưng ánh mắt, nụ cười cởi mở, khiến cho cậu b́nh tĩnh và mạnh 
		dạn . Cậu không nó trỏng nữa :
 Em được th́ cho anh xin,
 hay em muốn giữ cái aó để làm "làm tin":
 Hay là em để làm tin trong nhà.
 Ở nhà quê, giữ chiếc áo của người yêu để "làm tin"là tính đến chuyện hôn 
		nhân sau này:
 Chàng về để áo lại đây,
 Áo thời thiếp mặc, gối mây đợi chờ.
 Chiếc áo của người b́nh dân đă nói lên sự thân mật quen hơi bén tiếng, 
		những yêu thương giữa trai gái:
 Thương nhau cởi áo cho nhau,
 Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay.
 ...Ḿnh về, ta chẳng 
		cho về,Ta nắm lấy áo, ta đề bài thơ.
 hoặc:
 ...Thôi thôi buông áo em ra,
 Để em đi chợ, kẻo mà chợ trưa.
 Trong 4 câu đầu, người con trai chỉ "bày"ra chuyện "để quên cái áo"rồi 
		mượn cớ làm quen. Nhưng khi thấy đă bén lửa t́nh, anh nói thật hoàn cảnh 
		gia đ́nh. Từ việc tầm thường như chiếc áo sứt chỉ cũng không có th́ giờ 
		để vá. Mẹ già th́ nay đă ḷa:
 Áo anh sứt chỉ đường tà,
 Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu.
 Anh kể chuyện cái áo sứt chỉ đường tà mà không ai vá dùm là để gợi ḷng 
		thương, để đánh vào cái tâm lư đa cảm của cô gái chớm có chút t́nh với 
		anh. Cái h́nh ảnh người vợ ngồi vá áo cho chồng là kiểu mẫu môt gia đ́nh 
		đầm ấm ở thôn quê mà nhiều người ước mơ.
 Câu chuyện làm cô gái xao xuyến. Anh lại nói thêm là, không phải mới 
		đây; mà :Áo anh sứt chỉ đă lâu
 Và, từ lâu anh đă mong ước mai này có được "cô ấy"cũng đẹp và dễ thương 
		như em, về nhà anh để khâu cái áo:
 Áo anh sứt chỉ đă lâu,
 Mai mượn cô ấy vào khâu cho cùng.
 Ngày đầu tiên gặp gỡ, anh không muốn đặt vấn đề hôn nhân với nàng, mà 
		chỉ phác họa mt tương lai, mt mơ ước. Nếu "cô ấy" hay "đằng ấy" bằng 
		ḷng th́ anh đă sẵn sàng:
 -Tiền cưới, tiền cheo
 -Môt thùng gạo nếp để đồ sôi ṿ
 -Môt con lợn béo đang nuôi
 -Môt ṿ rượi tăm, ( rượu cất mà sủi tăm th́ uống ngon tuyệt trần )
 -Môt cặp chiếu cạp điều.
 -Môt đôi chăn ấm
 -Môt đôi khuyên ( đôi trằm ).
 -Buồng cau
 Khâu rồi anh sẽ trả công,
 Đến khi lấy chồng, anh lại giúp cho:
 Giúp em môt thúng sôi ṿ,
 Môt con lợn béo, môt ṿ rượu tăm;
 Giúp em đôi chiếu em nằm,
 Đôi chăn em đắp, đôi trầm em đeo,
 Giúp em quan tám tiền cheo,
 Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
 Cái hay của bài này là lời lẽ ư nhị, bóng bẩy và nên thơ. Vào chuyện cái 
		áo, rồi xin trả lại áo, nhờ khâu áo, rồi xin cưới với đầy đủ nghi lễ, 
		hợp với lệ làng ở thôn dă, tuy là môt chuyện lặt vặt thông thường, nhưng 
		bởi đó mà càng khêu dậy cả môt niềm t́nh tứ tư riêng, môt nhớ thương xa 
		xôi nồng nàn; Và cả cái phong tục cưới hỏi từ ngàn xưa ở nước ta.
 Nôi dung bài ca tuy đùa mà thực. Thực mà đùa. Nửa chơi, nửa thực, hư hư 
		thực thực.
 Lối hát ve văn ngỏ ư với con gái ở đồng nôi. Đây là môt bài có giá trị, 
		tiêu biểu được cái tinh thần lém lỉnh, nhanh nhẹn, sắc bén, tài hoa của 
		người thi sĩ đồng rung. Nghe bài hát xong, cô thôn nữ dù muốn chối từ 
		cũng không nỡ đành, muốn bỏ đi cũng không sao đoạn đứt, ḷng bồi hồi, 
		triền miên v́ môt men giống thương nhớ vẩn vơ không thôi./.
 
 
  Bài 
		Ca Dao BUỒN TRÔNG và Nỗi Ḷng Chinh Phụ Đêm qua ra đứng bờ ao,Trông cá: cá lặn, trông sao: sao mờ.
 Buồn trông con nhện chăng tơ,
 Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
 Buồn trông chênh chếch sao mai.
 Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
 Đêm đêm tưởng giải ngân hà,
 Mối sầu tinh đẩu đă ba năm tṛn.
 Đá ṃn, nhưng dạ chẳng ṃn.
 Tào khê nước chảy hăy c̣n trơ trơ.
 
		Bài Buồn Trông được truyền khẩu trong nhân gian 
		từ lâu. Có thể trước cả Chinh Phụ Ngâm của ông Đặng Trần Côn ( không rơ 
		năm sinh, thọ 40 tuổi ) và dịch giả bà Đoàn Thị Điểm ( 1705- 1748 ) v́ 
		căn cứ vào tiếng Việt qua cấu trúc chữ nôm và ngữ âm học, lịch sử..của 
		bài ca dao.Nhận xét bài Buồn Trông, giáo sư Phạm Văn Diêu viết:
 ‘’Đây là môt bài ca dao rất quen thuc mô tả môt niềm nhớ mong thấm 
		thía. Dưới ng̣i bút nhẹ nhàng của thi nhân không tên tuổi, nỗi buồn nhớ 
		nghi ngút kia . H́nh ảnh nỗi buồn ấy thấy trong bóng cá mất tăm, bóng 
		sao xa mờ, bóng nhện bâng khuâng trong đường tơ dang dở. H́nh ảnh nỗi 
		buồn ấy càng thấy trong bóng sao mai chênh chếch nghiêng xế, trong giải 
		ngân hà lạnh nhạt buồn mơ như môt tấm nhung rời rạc u trầm.’’
 
		
		 Nhưng 
		đọc kỹ bài thơ, chúng ta không những buồn mà c̣n thương sót cái hoàn 
		cảnh cô đơn của nàng dâu trẻ phải xa chồng. Nàng lựa lúc đêm khuya, đợi 
		cho mọi người ngủ hết, mới lẳng lặng ra đứng bờ ao với hy vọng nh́n đàn 
		cá bơi lôi cho vui mắt, nhưng đêm khuya, mặt ao lạnh, cá đă lặn sâu từ 
		lâu. Buồn quá! Nàng ngước mắt nh́n những v́ sao trên trời và chợt nghĩ 
		đến người yêu đang nơi quan aỉ xa xăm. Nàng khóc. Qua làn nước mắt, 
		những v́ sao sáng trở nên mờ dần : ‘’Đêm qua ra đứng bờ ao ‘’
 ‘’Trông cá: cá lặn, trông sao: sao mờ.
 Người chinh phụ trẻ trong Chinh Phụ Ngâm có cùng môt nỗi buồn xa chồng:
 ‘’Nỗi ḷng biết ngỏ cùng ai?
 ‘’Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
 Những cô dâu mới cưới thời đó, chẳng bao giờ dám ‘’ ngỏ ‘’ nỗi vui buồn 
		với người trong gia đ́nh chồng:
 ‘’ Làm dâu khổ lắm con ơi,
 ‘’ Vui chẳng dám cười, cực chẳng dám than.
 Chính v́ vui chẳng dám cười, cực chẳng dám than mà những cô dâu trẻ phải 
		lựa đêm khuya để giăi bầy tâm sự.
 Người chinh phụ cũng nh́n sao trời ( thiên chương ), cũng nghĩ đến chồng 
		mà ḷng thẫn thờ như người mất trí:
 Sửa siêm, dạo bước tiền đường,
 Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ.
 Bờ ao vắng, bên cạnh cô dâu trẻ, chỉ có môt con nhện đang âm thầm chăng 
		tơ. Nh́n cái lưới chưa dệt xong, nàng lại nghĩ đến mối t́nh dang dở của 
		ḿnh mà chạnh ḷng. Hay là nhện cũng đang chờ đợi người yêu?
 ‘’ Buồn trông con nhện chăng tơ.
 ‘’ Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
 Người thiếu phụ trẻ đứng ở bờ ao từ đêm tới lúc lúc sao mai chênh chếch 
		nghĩa là lúc trời gần sáng. Môt lần nữa nàng lại khóc. Những giọt nước 
		mắt lại làm lu mờ ngôi sao mai buổi sáng:
 ‘’ Buồn trông chênh chếch sao mai,
 ‘’Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ.
 Trong giải Ngân hà có vô lượng tinh tú và nếu tin tưởng mỗi người có môt 
		ngôi sao hô mạng; th́ nàng tin chắc người chồng yêu kính của ḿnh là 
		ngôi Tinh Đẩu, môt v́ sao sáng nhất của chùm Đại Hùng. Đă ba năm rồi, 
		hằng đêm ngắm v́ sao bản mệnh để cầu nguyện cho chàng sớm về xum họp:
 ‘’ Đêm đêm tưởng giải ngân hà,
 ‘’ Mối sầu tinh đẩu đă ba năm tṛn.
 Người chinh phụ cũng nh́n giải ngân hà, có lúc không cầm được nước mắt: 
		‘’ bóng ngân hà khi mờ khi tỏ ‘’. Bà tin rằng chàng là ngôi sao Khuê ở 
		trên trời. (Sao Khuê là môt trong 28 v́ sao, thập nhị bát tú ) :
 ‘’ Bóng ngân hà khi mờ khi tỏ.
 ‘’ Đô khuê triền buổi có buổi không.
 Người thiếu phụ trẻ xa người thương đă 3 năm, nhưng nàng tự hứa với ḷng 
		là dù xa cách bao lâu đi nữa, nàng vẫn giữ môt ḷng chung thủy:
 ‘’ Đá ṃn nhưng dạ chẳng ṃn.
 Đến câu chót, tác giả vô danh nhắc tới địa danh ‘’Tào khê ‘’mà hầu hết 
		những người nghiên cứu Phật giáo đều biết ; Tào khê hay khe Tào là cái 
		khe suối nhỏ, phía đông huyện Thúc Giang tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa nơi 
		Lục tổ Huệ Năng tĩnh tu .
 Nguyễn Trăi trong ‘’ Quốc Âm Thi Tập ‘’ cũng nhắc tới nơi đây:
 ‘’ Tào khê rửa ngàn 
		tầm suối.‘’ Sạch chẳng c̣n môt chút phàm.
 Như vậy câu ‘’ Tào khê nước chảy ḷng c̣n trơ trơ ‘’ nói lên tấm ḷng 
		trong sạch của nàng như ḍng Tào khê.
 Bài ca dao Buồn Trông và Khúc Ngâm Chinh Phụ được truyền tụng trải qua 
		bao thế kỷ như môt tấm gương trong sáng và ḷng chung thủy tuyệt vời của 
		người đàn bà Việt./.
 Nguyễn Mộng 
		Khôi
   |