Trần thị LaiHồng
ĐỒNG
DAO và TRÒ
CHƠI TRẺ CON
Tranh minh họa dân gian của
Henry Oger và
Võ Đình
Đồng
dao, đồng diêu:
câu hát chơi, con nít hay hát. Đó là
định nghĩa đơn giản nhất của Huình Tịnh Paulus
Của, trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị,
cuốn tự
điển đầu tiên của Việt Nam, xuất bản năm 1895
tại Sàigòn.
36
năm sau, Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức khởi
thảo Việt Nam Tự Điển,
Mặc Lâm xuất bản
tại Hà Nội năm 1931 và Nhà In Imprimarie Trung
Bắc Tân Văn phát hành, cũng định nghĩa ngắn gọn.
Đồng dao: câu hát trẻ
con. Hơn
thế kỷ sau, tức là cả 103 năm sau,
Đại Từ
điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, do Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa
Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin phát hành năm 1998, định nghĩa
đồng dao: lời hát truyền miệng của trẻ con,
nhưng không đưa ra một câu nào.
Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ,
vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi
sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng.
Tác giả hẩu hết vô danh, hay nói đúng hơn, chính
dân gian là tác giả.
Dạy con từ thuở lên ba,
nhưng từ lúc lọt lòng mẹ qua
ba tháng biết
lẩy bẩy tháng biết bò cho đến khi lổm ngổm
tập ngồi bi bô tập nói lựng chựng bước đi, với
Việt Nam ta, tiếp nối lời mẹ ru, đồng dao giữ
phần quan trọng trong giáo dục gia đình, chuẩn
bị cho trẻ đến trường với khoa sư phạm áp dụng
phương pháp giúp trẻ con vừa vui chơi giải trí
vừa học hỏi, phát triển các khả năng cơ thể và
mở mang trí tuệ. Hát mà chơi. Hát mà học.
Hát chơi mà học thật.
Thuở ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng,
nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn hoặc năm
chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu
nhịp nhàng nên rất dễ hiểu dễ nhớ. Về sau, rất
nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ
biến rộng rãi. Trong hàng trăm bài đồng dao
truyền miệng và hàng ngàn bản nhạc, chúng tôi
chỉ nêu một số bài đồng dao truyền miệng từ Bắc
qua Trung vào Nam, còn nhớ hoặc tìm tòi sưu tầm
được, và đồng dao được phổ nhạc, cùng một số
nhạc phụ lục. Chuyện bổ túc theo đà tiếp nối
rất dễ dàng thuận tiện.
Chơi Diều, tranh
Võ Đình, UNICEF 69
Những
trò chơi đầu tiên chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt
ngủ ngày, tức vào khoảng một tháng sau khi ra
đời, trẻ bắt đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu
tiên có thể chỉ tập cho con theo dõi, nhận xét,
ghi nhận. Mẹ chỉ cho con biết những phần trên
cơ thể, cả danh từ lẫn động từ tĩnh từ: mắt mở
mắt nhắm, mắt đen mắt nâu, miệng nói môi cười,
răng trắng, tai nghe, tóc đen tóc trắng, tóc
ngắn tóc dài, tay nắm, chân đạp …
Trẻ chưa biết ngổi, có thể cùng mẹ chơi trò
Cất Rớ Chống Rớ , đặt con nằm ấp trên hai
ống chân mẹ, mông con an vị trên hai bàn chân
mẹ, hai tay nắm chặt hai tay con, mẹ nằm ngửa,
vừa nâng hai chân lên cao vừa đọc:
Cất rớ lên! Bỏ rớ xuống!
Cá chi? Cá bống! Chống rớ!
Cá chi? Cá rô! Chống rớ!!
Cá chi? Cá hồng! Chống rớ! …
Vẫn vị thế đó, có thể đổi cách chơi qua trò cỡi
ngựa, hát mà chơi, nhún nhẩy đong đưa
theo bài đồng dao:
Nhong nhong nhong nhong
Ngựa ông đã về
Cắt cỏ bồ đề
Cho ngựa ông ăn
Nhong nhong nhong nhong …
Mẹ
tập con chơi mà học, quan sát theo dõi:
Một ngón tay nhúc nhích này/ một
ngón tay nhúc nhích này
Một ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta
vui vầy…
Hai ngón tay nhúc nhích này/ hai ngón
tay nhúc nhích này!
Hai ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta
vui vầy! …
và
cứ thế tiếp tục cho đến mười ngón. Bài này có
phần nhạc ở phụ lục.
Tay mẹ tay con có nhiều trò thú vị. Hát mà
chơi với bài đồng dao Kéo Cưa Lừa Xẻ,
khi con biết ngồi, hai mẹ con cùng nắm tay nhau
kéo qua kéo lại:
Kéo cưa lừa xẻ/ ông thợ nào khỏe/ về
ăn cơm trưa
Ông thợ nào thua/ về bú tí mẹ
hay:
Cút ca cút kít/ làm ít ăn nhiều/ nằm
đâu ngủ đấy
Nó lấy mất cưa/ lấy gì mà kéo!!!
Vẫn tay mẹ tay con:
Xỉa cá mè/ đè cá chép
Tay nào đẹp/ đi hái hoa
Tay nào thô/ đi mót củi
Tay dính bụi/ đừng dụi mắt …
Cũng bài
Xỉa Cá Mè nhưng chơi với hai
chân:
Xỉa cá mè/ đè cá chép
Chân nào đẹp/ đi buôn men
Chân nào đen/ ở nhà làm… chó
(hay
mèo) và sủa gâu gâu như chó hoặc
kêu meo meo như mèo để mẹ con cùng vui.
Mẹ
con vuốt tay vỗ đập tay nhau nhịp hai theo bài
đồng dao Vuốt hột nổ
nói đến những vật
dụng hàng ngày. Bảo con chắp tay lai, mẹ cũng
chắp tay xong mở ra vuốt hai bàn tay con, vừa
vuốt vừa đọc, mỗi lần vuốt xong là vỗ tay, và có
thể tiếp nối vô tận:
Vuốt hột nổ
Đổ bánh bèo
Xao xác … quạ kêu
Nồi đồng vung méo/ cái kéo thợ may
Cái guộng đắp bờ/ cái cờ làng tế
Cái ghế để trèo/ cái khoèo mót củi
Cái chủi tòe loe/ cái khe nước chảy
Cái xảy xảy rơm/ cái nơm chơm cá
Cái ná bắn chim/ cái kim may áo
Cái gáo múc nước/ cái lược chải đầu
Cái câu câu cá/ cái rá vo gạo …
Mẹ
con ngồi đối mặt nhau, mẹ vừa hát vừa tập con vỗ
tay. Hát mà học, vì khi lớn lên bé sẽ
cùng vui chơi với anh hoặc chị, và cách chơi khó
hơn: vừa đọc bài đồng dao
vừa tự vỗ tay
mình xong vỗ tay trái chéo vào tay trái người
kia; trở lại tự vỗ tay, rồi vỗ tay phải mình
chéo qua tay phải người kia, và tiếp tục ban đầu
chậm sau nhanh dần cho đến hết bài. Một bài
đồng dao khác cho trò chơi này là:
Tập tầm vông
Chị lấy chồng/ em ở góa/ chị ăn cá/ em
mút xương
Chị nằm giường/ em nằm đất/ chị húp
mật/ em liếm ve
Chị ăn chè/ em liếm bát/ chị coi hát/
em vỗ tay
Chị ăn mày/ em xách bị/ chị làm đĩ/ em
thâu tiền
Chị đi thuyền/ em đi bộ/ chị kéo gỗ/
em lợp nhà
Chị trồng cà/ em trồng bí/ chị tuổi
Tý/ em tuổi Thân
Chị tuổi Dần/ em tuổi Mẹo
Chị kéo kẹo/ em nấu đường/ chị trồng
thơm/ em trồng khóm
Chị đi xóm/ em coi nhà/ chị thờ cha/
em nuôi mẹ
Chị trồng hẹ/ em trồng hành/ chị để
dành/ em ăn hết
Chị đánh chết/ em la làng/ chị đào
hang/ em chui tuốt …
Vẫn trò chơi dùng hai tay nhưng đông người hơn,
có thể dùng một cái gậy hay thanh trúc để các em
nắm tay chồng lên nhau lần lượt và tiếp tục cho
hết bài. Không có gậy thì chỉ cần chồng tay lên
nhau. Trò chơi này gọi là Hát Đúm/
Cùm nụm cùm nịu hay Tay tí tay tiên:
Cùm nụm cùm nịu/ tay tí tay tiên
Đồng tiền chiếc đũa/ hột lúa ba bông
Ăn trộm ăn cắp trứng gà
Bù xa bù xít/ con rắn con rít
Thì ra tay này!
Vẫn tay mẹ tay con, khi con biết xử dụng tay
chân, mẹ con cùng chơi trò thi chân đẹp
hoặc mẹ giúp con theo dõi chơi
Nu na Nu nống
cùng các anh chị. Ngồi trong lòng mẹ, bé chỉ
tập trung theo dõi, chăm chú nghe và nhìn, lanh
mắt lẹ tay nhanh chân học mà chơi theo
luật chung:
Nu na nu nống/ cái cống nằm trong
Cái ong nằm ngoài/ củ khoai chấm mật
Phật ngồi Phật khóc/ con cóc nhảy ra/
con gà ú ụ
Nhà mụ thổi xôi/ nhà tôi nấu chè
Tè he cống rụt!
Nu na nu nống/ thằng công cái cạc
Đá xỉa đá xoi/ đá đầu con voi/ đá lên
đá xuống
Đá ruộng bồ câu/ đá râu ông già
Đá ra đường cái/ gặp gái đi đường
Có phường trống quân/ có chân thì rút!
Nu na nu nống/ đánh trống phất cờ/ mở
cuộc thi đua
Thi chân đẹp đẽ/ chân ai sạch sẽ/ gót
đỏ hồng hào
không bẩn tí nào/ được vào đánh trống!
Khi trẻ khá lớn đi đứng chạy nhảy vững vàng và
đến trường, gia nhập những trò chơi tập thể dễ
dàng cũng như học những bài đồng dao dần dà dài
khó hơn, và mẹ chỉ để mắt theo dõi, hướng dẫn
hoặc nhắc nhở giúp đỡ khi cần.
Có
những bài đồng dao kết cấu liên hoàn lập đi lập
lại, làm điệu bộ theo lời diễn đi diễn lại cho
đến khi mệt nghỉ:
Con vỏi con voi/ cái vòi đi trước
Hai chân trước ịch đi ịch trước
Hai chân sau ịch đi ịch sau
Còn cái đuôi thì đi là sau rốt
Tôi xin kể nốt cái chuyện con voi i í
ị con voi
Cái vòi í i ị đi trước …
Con công hay múa/ nó múa làm sao?
Nó rụt cổ vào/ nó xòe cánh ra
Nó đỗ cành đa/ nó kêu ríu rít
Nó đỗ cành mít/ nó kêu vịt chè
Nó đỗ cành tre/ nó kêu bè muống
Nó đỗ dưới ruộng/ nó kêu tầm vông
Con công hay múa …
Lúa ngô là cô đậu nành/ đậu nành là
anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang/ dưa gang
là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu lúa ngô/ lúa ngô là cô
đậu nành …
Ba
bài liên hoàn khác về chim:
Ác- là là cha ca-cưỡng/ ca-cưỡng
là dượng bồ câu
Bồ câu là dâu ác- là/ ác-là là cha
cà- cưỡng …
Bồ-các là bác chim gi/ chim gi là dì
sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen/ sáo đen là em
tu-hú
Tu-hú là chú bồ-các/ bồ-các là bác
chim gi …
Cái cò mày mổ cái tôm/ cái tôm quắp
lại mà ôm cái cò
Cái cò mày mổ cái trai/ cái trai quặp
lại mà nhai cái cò
Cái cò mày mổ cái tôm …
Một bài đồng dao liên hoàn khác được Đức Quỳnh
phổ nhạc và hát từ Bắc vào Nam, lời lẽ ngụ ý hài
hước châm biếm:
Con chim chích chòe/ nó kêu chích
chòe
Nó đậu cành chanh/ nó kêu chích chòe
Tôi ném hòn sành/ nó quay lông lốc
Tôi làm một chốc/ được ba mâm đầy
Ông thầy ăn một/ bà cốt ăn hai
Cái đầu cái tai/ đem về biếu chúa
Chúa hỏi chim gì? – Là con chim chích
chòe!
Nó kêu chích chòe/ nó đậu cành chanh …
Bài đồng dao có nhạc trong Nam lời hát như sau:
Con chim manh manh/ nó đậu cây
chanh
Tôi vác miểng sành/ tôi liệng nó chết
Tôi làm được bảy mâm/ tôi dâng cho ông
một mâm
Tôi dâng cho bà một đĩa/ bà hỏi tôi
con chim gì?
Tôi nói con chim manh manh …
Có
một trò chơi trong Nam gọi là
Bắc Kim thang,
dùng bài đồng dao ngô nghê ngộ nghĩnh khi
các em làm thành vòng tròn, chân trái xỏ rế
ngoéo vào chân trái bạn, vừa vỗ tay vừa nhảy lò
cò bằng chân phải và giữ không bị té, cùng hát:
Bắc kim thang, cà lang bí rợ
Cột qua kèo là kèo qua cột
Chú bán dầu qua cầu mà té
Chú bán ếch ở lại làm chi?
Con le le đánh trống thổi kèn
Con bìm bịp thổi tò te tí te ……
Em
nào không vững thăng bằng bị té là thua, bị phạt
búng tai hoặc khẻ tay nếu là con gái, hoặc phải
cõng bạn cùng cặp chạy một vòng nếu là con
trai. Vui tếu thì phạt bằng quẹt
nhọ nồi/ lọ
nghẹ lên mặt. Các em trai còn bị phạt làm
ngựa cho bạn cỡi, nhẹ thì dùng bài đồng dao ngắn
Nhong nhong nhong nhong, mà phạt nặng
hoặc trẻ lớn thì dùng bài Lý Ngựa ô.
Lý
Ngựa ô cũng có ba điệu phổ nhạc, Bắc, Trung và
Nam.
Trò trốn tìm/ ú tim/cút bắt
được trẻ con
khắp thế giới vui chơi, và đồng dao ta có
rất nhiều bài cả đám cùng loạt đọc lên để chọn
người phải đi tìm. Bài đặc biệt có tính cách
một bài sấm dính đến lịch sử, nói về
giai đoạn rối loạn của triều đình Nhà Nguyễn và
phong trào Cần Vương, thời ta bị Pháp đô hộ:
Chu tri rành rành/ Cái đanh nổ lửa
Con ngựa đứt cương/ ba vương tập đế
Cấp kế đi tìm/ ú tim … òa ập!
Bài đồng dao
trốn tìm/ thả đỉa ba ba:
Thả đỉa ba ba/ con đỉa đeo bà
Con gà tục tác/ mỏ-nhát cầm chầu
Con mèo cầm lái/ con rái chạy buồm
Con tôm tát nước/ vọc nước giỡn trăng
Bài Thả đỉa ba ba khác:
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà/
phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông/ gạo tiền như
nước
Sang sông về đò/ đổ mắm đổ muối
Đổ nải chuối tiêu/ đổ niêu cứt gà
Đổ phải nhà nào/ nhà ấy phải chiu!
Khi đám trẻ chạy tìm chỗ nấp, em còn lại phải
bịt mắt đọc bài đồng dao khác đến hết mới được
mở mắt đi tìm:
Mít mật mít gai/ mười hai thứ mít
Đi vào ăn thịt/ đi ra ăn xôi
Bởi chẳng nghe tôi/ tôi bịt mắt chú
Ăn đâu ẩn kín/ lúa chín thì về!
Chơi bịt mắt bắt
dê, tranh Võ Đình
Ngoài Bắc có bài đồng dao khác và Phạm Duy đã
mượn ý phổ nhạc:
Ông trẳng ông trăng
Xuống chơi với tôi/ có bầu có bạn
Có oản cơm xôi/ có nồi cơm nếp
Có nệp bánh chưng/ có lưng hũ rượu
Có chiếu bám đu/ thằng cù xí xoại
Bắt trai bỏ giỏ/ cái đỏ ẵm em
Đi xem đánh cá/ đem rá vo gạo
Có gáo múc nước/ có lược chải đầu
Có trâu cầy ruộng/ có muống thả ao
Ông sao trên trời …
Hoặc:
Ông tiễn ông tiên
Ông có đồng tiền/ ông giắt mái tai/
ông cài lưng khố
Ông ra hàng phố/ ông mua miếng trầu/
ông nhai tóp tép
Ông mua con tép/ về ông ăn cơm
Ông mua mớ rơm/ về ông đánh thổi
Ông mua cái chổi/ về ông quét nhà
Ông mua con gà/ về cho ăn thóc
Ông mua con cóc/ về thả gậm giường
Ông mua nén hương/ về cúng ông cụ!
Tranh dân gian
của Henry Oger đầu thế kỷ XX,
chú thích bằng
chữ Nôm: Đánh Cờ Chân Chó
Làm Hùm Bắt Lợn
Khi trẻ đã lớn, đã đi học và có nhiều bạn cùng
lứa, có rất nhiều trò chơi dùng những thứ kiếm
được ngay chung quanh hoặc tự chế lấy, ví như
bắn ná làm bằng nạng ổi, bắn súng bẹ
sống
lá chuối, bắn súng ống hóp đạn hạt sầu
đông hoặc hạt mâm xôi, bắt chuồn chuồn, buôn bán
bằng hoa lá, cái lung tung/ cái trống bỏi, chong
chóng bằng lá dừa, con gà đất có gắn ống cói ống
sậy thổi te te, con giống, cối xay làm bằng hạt
xoài cưa hai, đánh căn với hai khúc tre hay gỗ,
đánh bi, đánh cờ chân chó, cờ gánh bằng vỏ
nghêu vỏ sò, đánh đáo, đánh đu dựng bằng tre,
đánh trận giả với cây cành hoa lá như Cờ Lau Tập
Trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở còn chăn trâu, đánh
thẻ, đánh vụ làm bằng gỗ, đá kiện làm bằng đồng
xu buộc lông, đá cầu lông,
đạp mạng, đạp
lon, đi chợ về chợ, kéo co với giây dừa, làm hùm
bắt lợn, lộn cầu vồng, lộn chuồn chuồn, liệng
cống, năm tiền liền quan, ném còn làm bằng vải
vụn, ném vòng làm bằng tre hoặc mây vào cọc tre
hay gỗ, nhảy giây làm bằng giây dừa, nhảy lò cò
với mảnh ngói mảnh sành mảnh sứ , rải ô quan/
rải ô làng dùng sỏi, sạn hay hạt đậu, xây khăn/
bỏ khăn/ chuyền khăn, thả diều làm bằng tre dán
giấy … vô số kể.
Cờ Lau Tập Trận,
tranh Võ Đình
Những trò chơi hầu hết cần vận dụng đầu óc bén
nhạy tinh tế tính toán chính xác, điều động tay
chân nhanh nhẹn, thích nghi với môi trường thiên
nhiên và luyện tập quen dần với đời sống tập thể
trong cộng đồng. Hát chơi mà học thật.
Bài đồng dao trò chơi
Xây khăn trong Nam,
trẻ ngồi thành vòng tròn, một em cầm khăn chạy
ngoài, cùng đọc cho đến hết thì bỏ khăn sau lưng
một bạn. Em này phải chú ý theo dõi để nhặt
khăn chạy vòng, nhường chỗ cho bạn, nếu không
biết sẽ bị loại khỏi cuộc chơi.
Đá cầu bằng đồng
xu, tranh dân gian của Henry Oger
Xây khăn, khăn nổi khăn chìm
Ba bên bốn phía đi tìm cái khăn
Thằng chăn bận áo rách vai
Không ai may vá, thằng chăn bận hoài
Trò chơi
Chuồn chuồn miền Trung và Lộn
Cầu Vồng ngoài Bắc có cách chơi giống nhau
nhưng khác bài đọc:
-
Chuồn chuồn đạp nước kim cang/
bên tê mở cửa bên ni sang lòn
- Lộn cầu vồng nước trong nước chảy
Có anh mười bảy có chị mười ba
Hai chị em ta cùng lộn cầu vồng
Bài đồng dao trò
Dung giăng dung giẻ đọc
khi đi quanh nhiều vòng tròn, những vòng này
luôn thiếu một để đến cuối khi ngồi xệp xuống sẽ
có một em chậm chạp bị loại:
Dung giăng dung giẻ/ dắt trẻ đi
chơi
Đi tới cổng trời/ gặp cậu gặp mợ
Cho cháu về quê/ cho dê đi học
Cho cóc ở nhà/ cho gà bới bếp
Ngồi xệp xuống đây!
Một bài đồng dao về cuộc sống luẩn quẩn loanh
quanh trong nhà ngoài vườn trong xóm ngoài làng
là Ông Ninh Ông Nang được Lê Thương phổ
nhạc:
Ông Nỉnh ông Ninh/ ông ra đầu đình/
ông gặp ông Nảng ông Nang
Ông Nảng ông Nang/ ông ra đầu làng/
ông gặp ông Nỉnh ông Ninh
Nang Ninh đầu đình/ và Ninh Nang đầu
làng
Nang Ninh làng đình/ rồi Ninh Nang
đình làng
Nang Ninh làng đình Nang Ninh/ Ninh
Nang đình làngNang Ninh
Nang Ninh làng đình Ninh …
Cô
Chiểu cô Chiêu/ cô qua cầu Kiều/ cô gặp cô Thỏa
cô Thoa
Cô
Thỏa cô Thoa/ cô qua vườn cà/ cô gặp cô Chiểu cô
Chiêu
Thoa Chiêu cầu Kiều/ và Chiêu Thoa vườn cà
Rồi Thoa Chiêu cầu Kiều/ rồi Chiêu Thoa vườn dừa
Cả
Chiêu Thoa cầu Kiều Chiêu Thoa/ Thoa Chiêu vườn
cà Chiêu Thoa
Thoa Chiêu vườn cà Thoa …
Em Thở em Thơ/ em qua hàng dừa/ em gặp
em hải em Hai
Em Hải em Hai/ em qua vườn xoài/ em
gặp em Thở em Thơ
Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa
Rồi Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn
dừa
Cả Thơ Hai vườn xoài Thơ Hai/ Hai Thơ
vườn dừa Thơ Hai
Thơ Hai vườn xoài Thơ …
Một bài đồng dao khác được phổ nhạc là
Trằng
Bờm, nói lên đầu óc thực tiễn của dân quê
không cần xa hoa phù phiếm cung ngũ long lầu ngũ
phụng dinh thự cao ốc hay đặc sản miếng ngon vật
lạ, mà chỉ muốn no bụng:
Thằng Bờm có cái quạt mo/ phú ông xin
đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu/ phú ông
xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè/ phú ông xin
đổi ba bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim/ phú ông
xin đổi một đôi chim mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi… Bờm cười!!!
Thuở nhỏ tôi nghịch ngợm hát bài đồng dao
Thằng Bờm và có nhịp điệu khác:
Thì ra
mo cau vàng mới tinh/ phú ông lập tâm mua liền!
Thằng Bờm mà biết cóc chi/ Thằng Bờm mà biết cái
cóc chi! Chăng chẳng lấy trâu/ Bờm rằng thì là
Bờm chăng chẳng lấy trâu đâu!!!
Trò chơi tôi thích nhất hồi còn tiểu học là
đánh thẻ chuyền/ đánh banh đũa,
nhưng đến
nay không nhớ được trọn bài đồng dao đọc đệm.
Duyên may quen một gia đình nhà quê mộc mạc, bà
mệ tám mươi sáu và bà mạ
sáu mươi,
không biết đọc biết viết nhưng còn nhớ kỹ. Bỏ
một ngày thăm hỏi cùng ôn trí nhớ, ghi trọn được
trò chơi này.
Dùng tay phải nắm nguyên bó đũa 6 chiếc hoặc
nhiều hơn, cùng một trái banh, có khi chỉ là quả
chanh hay một bó vải vụn cuộn thành hình trái
banh. Vừa thảy banh lên là trải đũa ra nhanh
cho kịp bắt chụp lại trái banh, rồi lần lượt ném
banh vừa bắt từng cây đũa một, rồi hai, ba, bốn
… tức là phải tính chính xác làm sao vừa ném
banh lên là phải nhanh mắt nhanh tay tính toán
nắm đúng số đũa cần lấy đưa ngay sang tay kia và
kịp thời bắt chụp lại trái banh. Trò chơi này
hình như chỉ có trẻ Việt Nam ta yêu thích và hợp
với con gái. Bài đồng dao đọc theo lúc ném
banh, bắt đầu ném banh và bắt một đũa, đọc tối
đa đến cuối câu phải tóm lại được trái banh, nếu
trật phải nhường người kia chơi:
Cái mốt (bắt một đũa)
Cái mai/ con trai/ con hến
Con nhện/ giăng tơ/ quả táo/ cái gáo
Lên đôi
(bắt hai đũa)
Đôi cái mõ/ đôi nồi chõ
Đôi thổi xôi/ đôi nấu chè/ đôi cành
tre
Lên ba
(bắt ba đũa)
……….
Khi nhặt hết đũa thì bỏ tất cả xuống để ném banh
bốc cả nắm đổi sang các giai đoạn kế tiếp là
con ba lại, con gang, sang tay cầm, kẹp nách,
cầm quạt rẽ xương, sang tay giã, giã đơn
hoặc giã đôi tùy giao ước ban đầu, nhập giã,
rút ống, nhập ống, sang tay tao
tức là
chuyền. Mỗi giai đoạn này đọc tên báo sự
thay đổi chuyển tiếp. Giai đoạn chuyền, một vòng
hoặc hai vòng tùy giao ước trước khi chơi, vừa
chuyền vừa ném banh rồi chụp banh lại và đọc:
Chuyền chuyền một/ chuyền chuyền
hai/ chuyền chuyền ba
Chuyền chuyền bốn/ chuyền chuyền năm/
chuyền chuyền sáu
Cuối cùng là
nẻ hay khẻ, tức là
đập cả bó đũa vào chân người thua cuộc, vừa đập
vừa thảy banh vừa đọc đoạn cuối bài đồng dao:
Qua cầu, lặn cỏ/ núi đỏ như ma/ hầm
sa/ mây sắc
Bắt con cá, chặt đuôi, chặt đầu
Têm miềng trầu, hầu chén rượu
Ai có tiền, ngồi liền lên ghế
Ai không tiền, liệu thế liệu thần
Sang tay nẻ, khẻ chân
Nẻ/ khẻ
chân xong là thắng, Đoạn đồng dao cuối này lại
khác nếu do các nữ sinh Đồng Khánh mà nay là
những mệ có cháu nội ngoại đề huề:
Ai muốn cao, ngồi ghế/ ai muốn thấp,
ngồi đòn
Ai muốn đỏ, bôi son/ ai muốn vàng, bôi
nghệ
Qua cầu Chợ Kệ/ về cầu Thanh Lương
Sang tay bắt con một. – Ăn!
(tức là thắng)
Đoạn cuối lúc
nẻ, mấy mệ ngoài
Bắc lại đọc khác:
Đầu quạ quá giang/ sang sông về đò
Cò nhẩy gãy cây/ mây bay bèo trôi
Ổi xanh, hành bóc/ róc vỏ, đỏ lòng
Tôm cong đít vịt
Sang cành nẻ/ bẻ cành xanh
Vét bàn thiên hạ
(tức là thắng)
Trong số 54 sắc dân sinh sống tại Việt Nam,
người Mường là chị em của người Việt, cùng thờ
Vua Hùng, cùng chung truyền thuyết một mẹ trăm
con, cùng mặc yếm váy và áo tứ thân và đặc biệt
cùng nói chung ngôn ngữ. Trẻ con Mường cũng có
đồng dao kèm trò chơi. Ghi lại sau đây một:
Lếu lêu làng lộc
Tộc ngộc ngọn
cơn bo
(cây hoang nhỏ có trái trẻ hay hái ăn)
Bò ăn no bò ngứa củ ráy
Ngứa củ ráy ngứa cả
cơn rư
(cây nưa)
Đưa bò về Mường Tráng
Tám mươi người kiếm cỏ/ bò đỏ bò nhà
lang
Bò vàng, bò nhà đạo Ống
Tùng tùng tùng tùng/ ai đánh trống
mường trên
Lền khên
con ca trống
gáy
(con gà)
Gáy gáy trong rẫy ngoài mường/ vườn
như vườn nhà ai
Ông mo biểu mụ máy/ trấy bín biểu
trấy bù
(trái bí/bầu)
Măng mu biểu măng nứa/ bố đạo biểu
mệ nàng
Quan sang biểu kẻ khó/
bó ló
biểu bó nếp
(bó lúa)
Cơm nếp biểu cơm
chim/ cào cào
biểu châu chấu
(một loại gạo ngon)
Cắt nứa rào cho ta chào cấm/ lấy lưỡi
lấm cho ta cầm tiền
Lấy lưỡi liềm cho ta cắt
bái
(cỏ tranh)
Lấy lưỡi hái cho ta hái ló
(lúa)
Náng lấy chó cho ta ăn thịt/
náng con vịt cho ta ăn đùi
(nướng)
Nuôi con ca cho ta lấy mỡ
(gà)
Dệt lấy mớ lụa điều/ dệt nhiều
nhiều cho ta cưới vợ …
Trẻ con miền Bắc ngày trước rất thích chơi
Phụ đồng Phụ chổi, có tính cách huyền bí như
lên đồng. Bài đồng dao được đọc đi đọc lại cho
đến khi đứa trẻ ngổi đồng được
vía nhập:
Phụ đồng phụ chổi/ thổi lổi mà lên
Ba bề bốn bên/ sôi lên cho chóng
Nhược bằng cửa đóng/ phá ra mà vào
Cách chuôm cách ao/ cách ba ngọn rào
Cũng vào cho lọt
Cái roi von vót/ cái vọt cho đau
Hàng trầu hàng cau/ hàng hương hàng
hoa
Là đồ cúng Phật
Hàng chuối hàng mật/ hàng kẹo mạch nha
Nào cô bán quế/ vừa đi vừa tế
Một lũ học trò/ người cầm quạt mo
Là vợ Ông Chổi
Thổi lổi mà lên …
Một trò chơi được đám trẻ gái yêu thích, cách
chơi giống nhau nhưng ngoài Bắc gọi là là
Trồng Nụ Trồng Cà/ Trồng Nụ Trồng Hoa,
và
miền Trung gọi là Đi Chợ Về Chợ. Phải có
bốn em, chia làm hai cặp. Một cặp ngồi, lần
lượt duỗi chồng từng bàn chân lên nhau rồi chồng
bàn tay làm hoa, trong khi cặp kia đi qua đi lai
rồi nhảy qua nhảy lại, vừa đọc:
Đi chợ/ về chợ (chưa
đưa chân)
Đi canh một/ về canh một
(đưa một bàn chân)
Đi canh hai/ về canh hai
(chồng thêm một chân, là hai bàn chân)
Đi canh ba/ về canh ba
(chồng thêm, ba bàn chân)
Đi canh tư/ về canh tư
(chồng thêm, bốn bàn chân)
Đi sen búp/ về sen búp
(chồng thêm một bàn tay chụm lại)
Đi sen nở/ về sen nở
(chồng thêm bàn tay hơi xòe nở)
Đi sen tàn/ về sen tàn
(bàn tay hoa nở xòe rộng hết cỡ)
Đi Chợ Về Chợ,
tranh Võ Đình, XI-07
Trong trò chơi này, hai em ngồi chồng chân và
xòe tay phải giữ thăng bằng, nếu bị đổ chân là
thua. Hai em đi qua đi lại nhảy qua nhảy về nếu
bị đụng chân hay tay hai em kia là thua. Cặp
thua bị loại để hai em khác vào thay.
Nhưng trong mấy trò chơi tập thể nhân Tết Trung
Thu và Ngày Nhi Đồng Việt Nam, trẻ con Bắc Trung
Nam đểu thích trò Rồng Rắn, gồm một đoàn
ôm eo ếch nhau nối dài đi vòng vòng quanh sân,
vừa đi vừa reo hò theo một em dẫn dầu làm thầy
thuốc đọc :
- Này, rồng kia!
- Dạ!
- Rồng đen hay rồng trắng?
- Rồng trắng!
- Rồng trắng lấy nước gạo mùa
Rồng đen lấy nước cho vua đi cày!
- Anh em ta cùng kéo lúa về!
Dô ô ô ô ô ô ô …
Ttranh dân gian
của Henry Oger
Chú thích bằng
chữ Nôm: Trẻ Con Làm Rồng Rắn
Bài đồng dao
Rồng Rắn cản thầy thuốc cầm
cái quạt mo không cho ông bắt em nào trong đoàn,
vừa đi vừa hát:
Rồng rồng rắn rắn/ kéo rắn lên mây
Thấy cây lúc lắc/ hỏi ông thầy thuốc
có nhà hay không?
-
Có!
-
Mở
cửa cho vào!
-
Vào làm gì?
-
Mượn cái liềm
-
Liềm làm gì?
-
Hái củi
-
Củi làm gì?
-
Nấu bánh chưng
-
Cho thầy ăn không?
-
Không!
Trò chơi
Rồng Rắn không rõ có từ giai
đoạn lịch sử nào, có thể liên hệ đến thảm kịch
thời Trịnh Nguyễn phân tranh chiến tranh đẫm máu
giữa Đàng Ngoài Đàng Trong, hay gần hơn, là cuộc
nội chiến Quốc Cộng
xốc nổi đến tận cùng đời
sống … với những nhân vật níu áo số mệnh nhau,
như truyện dài Rồng Rắn
của Lê Thị
Huệ dẫn nhập. Trò
Rồng Rắn được
trẻ con tham dự đông đảo nhất, cũng ôm eo ếch
nối dài làm con rồng, vừa chạy vòng vòng vừa
cùng đọc:
Rồng rắn lên mây có cây xúc xắc
Xúc xắc xúc xẻ
… Có thầy thuốc ở nhà không?
Một trẻ lớn làm ông thầy thuốc cầm quạt nan phe
phẩy đi ra, đủng đỉnh hỏi:
Thầy thuốc:
- Rồng rắn đi đâu?
Rồng rắn:
- Rồng rắn đi lấy thuốc
cho con.
Thầy thuốc:
- Con lên mấy?
Rồng rắn:
- Dạ, con lên một.
Thầy thuốc:
- Thuốc chẳng ngon!
Rồng rắn:
- Con lên hai.
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng rắn:
- Con lên ba.
Thầy thuốc:
- Thuốc chẳng ngon!
Rồng rắn:
- Con lên bốn.
Thầy thuốc:
- Thuốc chẳng ngon!
Rồng rắn: …..
Thầy thuốc: …..
Rồng rắn: - Con lên chín.
Thầy thuốc:
- Thuốc chẳng ngon!
Rồng rắn:
- Con lên mười.
Thầy thuốc:
- Thuốc ngon vậy! Xin khúc
đầu!
Rồng rắn: - Những xương cùng xẩu!
Thầy thuốc: - Xin khúc giữa!
Rồng rắn:
- Những máu cùng me!
Thầy thuốc: - Xin khúc đuôi!
Rồng rắn:
- Tha hồ mà đuổi!
Đến đây thì đoàn rồng rắn vẫn ôm eo ếch nối nhau
chạy đuổi bắt ông thầy thuốc cho kỳ được mới tan
cuộc, giữa những tiếng vỗ tay reo hò cổ võ của
những người đứng xem, trong số có những bà mẹ
chứng kiến con mình lớn khôn trong tập thể,
trong cộng đồng. Bài đồng dao này có giá trị
như một bài sấm, một bài học lịch sử, và cũng là
một bài luân lý giáo khoa thư nói lên tình đoàn
kết nhất trí của Rồng Rắn, toàn dân quyết giữ
gìn trọn khối chung, đánh đuổi quân xâm lược lăm
le chiếm đất đai, đã hớt khúc đầu Nam Quan, lại
xén đoạn giữa Trường Sa và gây tai hại đồng bằng
Cửu Long miền Nam.
Những
bài đồng dao và trò chơi trẻ con góp nhặt ở đây
chưa đầy đủ và cần bổ túc, nhưng có chủ đích góp
phần gìn giữ kho tàng văn học dân gian trước khi
bị thất truyền hay quên lãng, chôn vùi dưới hàng
hàng lớp lớp đồ nhựa lắp ráp máy móc Toys ‘R’
Us, CDs, DVDs, video games, PC Games, puzzles,
dominos, bingo, i-pods, cell phones … và vô số
trò khác ào ạt trên mạng lưới điện tử của thời
đại @ còng. Ngay tại các nước Âu Mỹ, nhiều tài
liệu cũng sưu tầm ghi lại trò chơi trẻ con kèm
những ballads, là thơ xưa từ thế kỷ XV/
XVI được phổ nhạc có điệp khúc lập đi lập lại,
và Shakespeare từng trích dẫn vào tác phẩm.
Chúng
ta đang ở đầu thế kỷ XXI.
Mai sau, dù có bao
giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ nhoi này
mong còn được đôi khi lần giở trước đèn,
để may ra có người mở trang sách cũ tìm hiểu về
đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho tàng
văn học dân gian đặt nặng giáo dục gia đình trên
vai người mẹ. Những lời ru ca dao
ạ ơi ời
hà hơi văn hóa mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc mở mắt
chào đời cho đến khi chập chững lững thững những
trò chơi đi kèm đồng dao, để từ đó vững bước vào
xã hội. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát
chơi mà học thật. Học làm NGƯỜI.
Trần thị LaiHồng
Từ
tiểu bang xanh 1987 qua Hoa bang 2007
Xem Thêm
Những bài
đồng dao xưa
Tác Giả HẢI-VÂN
Cuối Tháng Mười Một. Thành phố Santa
Ana chìm trong giá lạnh. Chẳng thấy mây bay chẳng
nghe gió thổi, nhưng rét buốt vẫn thấm vào đến tận
linh hồn người ta. Nắng thủy tinh rạng rỡ lẩn khuất
giữa hư vô, nhường chỗ cho mưa rơi từng giọt nhẹ.
Không gian mênh mông phủ trùm vạn vật trong màu khói,
mở sẵn con đường dẫn đưa lòng tôi trở về kỷ niệm.
Quá khứ là thơ, đem thơ phổ thành ca khúc, hát lên
niềm vui dung dị của thời lên năm lên bảy:
“- Cái mốt,
cái mai. Con trai, con hến. Con nhện giăng tơ. Quả
mơ, quả mận. Cái cận, lên bàn đôi. Đôi chúng tôi.
Đôi chúng nó. Đôi con chó. Đôi con mèo. Hai chèo ba.
Ba đi xa. Ba về gần. Ba luống cần. Một lên tư. Tư củ
từ. Tư củ tỏi. Hai hỏi năm. Năm em nằm. Năm lên sáu.
Sáu lẻ tư. Tư lên bảy. Bảy lẻ ba. Ba lên tám. Tám lẻ
đôi. Đôi lên chín. Chín lẻ một. Mốt lên mười. Ngả
năm mươi. Mười vơ cả. Ngả xuống đất. Cất lên tay.
Xoay ống nhổ. Đổ tay chuyền. Chuyền chuyền một, một
đôi tay…”
Đánh bổng, Đánh Thẻ, Đánh Đũa, Chơi
chuyền
Tôi mơ hồ nhìn thấy trái banh đánh bổng, tiếng nẻ
kêu răng rắc, đôi tay thoăn thoắt chuyền. Lại nhớ
“- Qua cầu lặn cỏ, núi đỏ
như ma, hầm sa mây sắc. Bắt con cá, chặt đuôi, chặt
đầu. Têm miếng trầu, hầu chén rượu. Ai có tiền, ngồi
liền lên ghế. Ai không tiền, liệu thế liệu thần.
Sang tay nẻ, khẻ chân…”
Bài đồng dao ngỡ
đã quên, bất ngờ giữa ngày đông chí hiển hiện rõ
ràng trong tâm tưởng. Đánh thẻ chuyền - đánh banh
đũa là trò chơi thuở xưa bé gái nào cũng thích. Nắm
nguyên bó đũa sáu chiếc hay nhiều hơn trong tay, khi
vừa thảy banh lên phải trải đũa ra thật nhanh, để
bắt cho được trái banh. Cứ thế tuần tự vừa ném banh,
vừa bắt từng chiếc đũa. Bắt đầu là một chiếc, hai
chiếc, rồi ba chiếc, cho đến khi hết. Banh vừa được
tung ra, tay nắm đúng số đũa cần lấy, rồi bắt lại
trái banh; bởi vì nếu để banh rớt xuống đất xem như
thua, phải nhường cho bạn khác chơi. Tuổi thơ thuộc
thế hệ của tôi là như vậy đó, ai cũng say mê các trò
chơi đơn thuần, bàng bạc những câu đồng dao đầy vần
điệu.
Mỗi bài đồng dao đều đi kèm với một trò chơi, như
bài đồng dao “Đánh Thẻ Chuyền.” Hay đi kèm với động
tác minh họa, như bài
“Con Công.”
“- Con công hay múa, nó múa làm sao? Nó rụt cổ vào,
nó xòe cánh ra. Nó đỗ cành đa, nó kêu ríu rít. Nó đỗ
cành mít, nó kêu vịt chè. Nó đỗ cành tre, nó kêu bè
muống. Nó đỗ dưới ruộng, nó kêu tầm vông. Con công
hay múa ...”
Nhưng cũng có
những bài chẳng dính dáng gì đến trò chơi hay động
tác, chỉ cốt giúp trẻ em khi ngân nga đọc sẽ thấy
vui. Chẳng hạn bài
“Ông Tiển Ông
Tiên.” “- Ông tiển ông tiên. Ông có đồng tiền. Ông
giắt mái tai. Ông cài lưng khố. Ông ra hàng phố. Ông
mua miếng trầu. Ông nhai tóp tép. Ông mua con tép.
Về ông ăn cơm. Ông mua mớ rơm. Về ông đánh thổi. Ông
mua cái chổi. Về ông quét nhà. Ông mua con gà. Về
cho ăn thóc. Ông mua con cóc. Về thả gầm giường. Ông
mua nén hương. Về ông cúng cụ!”
Hầu như bất cứ
ai sinh ra và lớn lên trong thập niên 1950, 1960, và
những năm đầu của thập niên 1970 đều biết các trò
chơi của tuổi thơ:
“Đánh Thẻ
Chuyền, Dung Dăng Dung Dẻ, Trồng Nụ Trồng Cà, Rồng
Rắn, Thả Đỉa Ba Ba, Chơi U Mọi, Tay Trắng Tay Đen”…v.v…
Và những bài
đồng dao quen thuộc
“- Nu na nu
nống. Cái cống nằm trong. Cái ong nằm ngoài. Củ
khoai chấm mật. Phật ngồi Phật khóc. Con cóc nhảy ra.
Con gà ú ụ. Nhà mụ thổi xôi. Nhà tôi nấu chè. Tè he
cống rụt...Nu na nu nống. Đánh trống phất cờ. Mở
cuộc thi đua. Thi chân đẹp đẽ. Chân ai sạch sẽ. Gót
đỏ hồng hào. Không bẩn tí nào. Được vào đánh trống.
Nu na nu nống…”
Văn minh khoa học tiến bộ, tất nhiên sự giải trí
cũng phải thay đổi cho phù hợp với thời đại kỹ thuật
số. Trên khung trời cyber, có muôn vàn trang web
chuyên trình bày các trò chơi. Người ta say mê những
màn đấu trí mới, bị cuốn hút vào thế giới phong phú
đa dạng của trò chơi điện tử. Không cần một nhóm
người ôm nhau rồng rắn lên mây cũng chẳng cần tập
tầm vông tay không tay có, người ta có thể chọn
những games mình ưa thích ngồi thinh lặng hàng giờ
chơi trên máy tính, trên Laptop, trên iPhone, chơi
với bạn hữu ở khắp năm châu bốn bể. Những người tham
dự chỉ biết nickname của nhau, rất hiếm khi biết rõ
ai là ai, thành viên không cố định, nay “gặp” người
này mai “thấy” người khác. Không giống như xưa, mỗi
một trò chơi đều phân chia thành nhóm thực tế, dù
còn thơ ấu trẻ em cũng chỉ chơi với những ai được
gọi là bạn hữu thân tình. Bây giờ cõi ảo không tỏ
mặt người, game over mỗi người một ngả, rất hiếm có
những tình bạn chân thực, chẳng hề liên lạc lâu bền.
Cũng không thể nói ngày xưa kết giao có tình có
nghĩa hơn, hay bây giờ mối quan hệ giữa người với
người thật hời hợt. Bởi vì mỗi thời đại mỗi thế hệ
có một xu hướng riêng. Cõi người ta tự giao lưu thư
giãn theo cách mà họ cho là thích hợp nhất, thoải
mái nhất, vui vẻ nhất. Chỉ biết rõ một điều: Những
bài đồng dao gắn liền với các trò chơi dung dị ngày
xưa, đã không còn sức thu hút. Hương đồng gió nội
của những câu có vần có điệu càng xa vắng, khi người
ta chọn đất khách là nhà.
Qua biết bao hừng đông, qua biết mấy chiều tà, những
cô bé cậu bé ngày xưa bây giờ đã thành lão niên, hay
đã bước vào tuổi trung niên. Trong tiềm thức của họ
cũng như tôi, may ra còn sót lại dư âm những bài
đồng dao gần như đã mai một theo năm tháng. Hàng
trăm bài đồng dao, hàng trăm trò chơi, hàng trăm bài
hát của các tác giả vô danh, truyền khẩu khắp ba
miền Bắc-Trung-Nam của Việt Nam từ đời trước nối
tiếp đời sau, từ vùng này qua vùng khác, đã bị biến
đổi, bị sai lạc, bị thất truyền, và bị quên lãng.
Người hoài cổ muốn tìm một thoáng hương xưa, phải
đọc những quyển sách biên khảo về văn học dân gian
của các học giả Nguyễn Văn Vĩnh, Ôn Như Nguyễn Văn
Học, Vũ Ngọc Phan, Trương Tửu, Trương Anh Thụy…v.v…Vì
ghi chép theo ký ức và theo địa phương nên có nhiều
dị bản, khó có thể khẳng định văn bản nào đúng nhất.
Thí dụ như chỉ riêng bài “Chi Chi Chành Chành,” đã
có hai văn bản. Một là “Chi chi chành chành. Cái
đanh thổi lửa. Con ngựa chết trương. Ba vương ngũ đế.
Chấp chế đi tìm. Ù à ù ập.” Hai là “Chu tri rành
rành. Cái đanh nổ lửa. Con ngựa đứt cương. Ba vương
tập đế. Cấp kế đi tìm.Ú tim òa ập!”
Lặng nghe tiếng mưa rơi giữa đêm khuya, tôi nhớ ngày
xưa đã cùng bạn hữu ngâm nga “nu na nống, đánh
trống phất cờ,” đã chơi “oẳn-tù-tì, bàn tay
trắng bàn tay đen, tay ma-rốc đen xì, tay Việt Nam
trắng nõn, đã đếm…năm, mười, mười lăm, hai mươi, hai
mươi lăm, ba mươi… một trăm…Những người muôn năm cũ
bây giờ ở đâu? Làm sao có thể nhìn thấy nhau khi quá
khứ đã lùi vào bóng tối, khi đường xa thăm thẳm viễn
phương, bên ni bên nớ vô thường cõi chơi. Thời gian
ly tán xa vời, câu thơ kỷ niệm sầu rơi bến nào. Từ
bến luân hồi thương cảm, tiếng gọi thuyền sang sông
vang trên mặt nước tối om. Gió nghiêng chiều say.
Gió lay ngàn cây. Gió nâng thuyền mây. Gió gieo sầu
miên. Gió đau niềm riêng. Gió than triền miên….[1]
Tưởng như tìm nhau giữa rừng thu ảo. Tìm nhau trở
giấc chiêm bao. Tìm nhau sắc không pháp bảo. Tình
khúc đông phương kiếp nào. Tưởng như cõi ngoài mây
trắng đông hiên, tình trong ý ngỏ thương hiền hữu
ca. Buông dây phím mộng hoàng hoa, tiếng đàn kỳ ngộ
giang hà quán không. Thật xa đồi núi mênh mông, còn
chăng chiếc bóng về trông gặp hình. Một thoáng gió
vào làm mắt cay, xui giục lòng tôi thương nhớ những
bài đồng dao thuở ấu thời.
[1]. Ca khúc “Đêm Đông.” Nhạc: Nguyễn Văn Thương.
Lời: Kim Minh