- Trong đa phần trường hợp, đồng dao với trò chơi dân gian
luôn gắn bó với nhau như tay với chân, như bóng với hình, thể
hiện qua các trò chơi vận động (dung dăng dung dẻ, giật khăng,
đánh đáo), trò chơi học tập (đánh chuyền, đánh ô), trò chơi mô
phỏng (đi chợ, làm nhà), trò chơi sáng tạo (xếp thuyền, đánh
trận, chơi diều).
- Đối với trẻ em, đồng dao dạy cho các em sự quan sát, phù hợp
với lứa tuổi cùng sự phát triển tư duy ban đầu của các em. Các
trò chơi của đồng dao cung cấp cho trẻ em kiến thức dễ nhớ, dễ
phân biệt, kích động trí tuệ của người tham gia. Trong bài “Vè
nói ngược” có rất nhiều hình ảnh tương phản, gợi sự tò mò, bao
trùm lên nhiều sự việc, kích thích người nghe tuởng tượng với sự
thích thú:
- “Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè nói ngược/ Ngựa đua dưới nước/
Tàu chạy trên bờ/ Lên núi đặt lờ/ Xuống sông bửa củi / Gà cồ hay
ủi/ Heo nái hay bươi/ Nước kém ba mươi / Mùng mười nước dậy /Ghe
không thì đẩy/ Ghe khẳm thì chèo/ Mấy chú nhà nghèo /Cho vay bạc
nợ/ Mấy chú nhà giàu / Thiếu trước hụt sau/ Đòn sóc bửa cau/ Dao
bầu gánh lúa / May áo bằng búa /Giả gạo bằng kim / Đêm rằm trời
tối/ Mùng một sáng trăng...”.
- Một trong những bài đồng dao nổi tiếng vào thế kỷ trước vẫn
còn in đậm trong ký ức của nhiều thế hệ, đó là bài “Tập tầm
vông”. Hầu như, đa phần các thiếu nhi, thiếu niên ở các cùng
nông thôn và cận thành thị trước và sau Cách mạng Tháng Tám 1945
đều biết:
- “ Tập tầm vông / Chị có chồng /Em ở giá/ Chị ăn cá/ Em húp
xuơng/ Chị nằm giường / Em nằm đất /Chị húp mật/ Em nếm gai /
Chị ăn mày/ Em xách bị...”.
- Thao tác của trò chơi nầy là hai người chơi ngồi đối mặt
nhau, vừa hát vừa theo nhịp đập lòng bàn tay vào nhau, hoặc đập
thẳng hoặc đập chéo, hoặc một cao một thấp, hoặc kết hợp nhiều
cách khác nhau.
- Các em thiếu nhi thường hát chung đồng dao rất nhịp nhàng
trong lúc tổ chức trò chơi. Nhiều khi những bài đồng dao được
hát và các trò chơi luôn thay đổi chứ không theo một chủ đề nhất
định. Có nghĩa “thích gì chơi nấy”, gặp đâu nói đó, chỉ cốt cho
vần vè, có khi nội dung bài rời rạc, lẩn quẩn, câu nầy chỏi câu
kia, chuyện kia bắt quàng sang chuyện nọ. Nhưng “vui là chủ yếu”
Ví như :
- “Ông Nỉnh ông Ninh / Ông ra đầu đình/ Ông gặp ông Nang/ Ông
Nảng ông Nang/ Ông ra đầu làng/ Ông gặp ông Ninh/ Ông Nỉnh
ông...” (thường gặp ở phía Bắc)
- Hay:
- “ Kỳ nhông là ông kỳ đà/ Kỳ đà là cha cắc ké/ Cắc ké là mẹ
kỳ nhông/ Kỳ nhông là...” (Thường gặp ở Nam bộ).
- Trong sinh hoạt dã ngoại, hội hè, trẻ em luôn thích thú với
đồng dao và trò chơi dân gian vì nó phù hợp với tuổi của các em,
không đòi hỏi các em tư duy như người lớn. Đồng dao và trò chơi
dân gian tác động vào tâm lý, tình cảm của trẻ qua ấn tượng sâu
sắc về không gian, hình thể, sự vật chứ không phải bằng lý luận
và phép quy chiếu của phương pháp truyền đạt cổ điển, áp đặt.
- “Thả đỉa ba ba” là một trò chơi thường thấy của trẻ em ở
những vùng đồng bằng sông nước. Trò chơi thể hiện việc qua sông,
qua bưng, ruộng ngập nước. Ở dưới nước có đỉa. Cả nhóm làm sao
xuống nước mà đỉa không bám được.
- Trước hết vẽ hai đường song song cách nhau độ 2m (hay qui
định khoảng trống nào đó) ước lệ là sông nước. Đầu tiên một em
ra giữa vòng vừa hát vừa lấy tay ra đập nhịp vào vai các bạn:
- Thả đỉa / ba ba
- Chớ bắt / đàn bà
- Tha tội / đàn ông
- Cơm trắng / gạo trắng
- Gạo thuyền như nước
- Đổ mắm / đổ muối
- Đổ chuối / hạt tiêu
- Đổ niêu / nước chè
- Đổ phải nhà nào
- Nhà ấy.... chịu
- Đến chữ “chịu” trúng em nào thì em ấy xuống sông làm “đỉa”.
Bọn trẻ đứa chạy đầu này, đứa băng qua sông góc nọ. “Đỉa” rượt
để bắt. Bọn trẻ lại hát bài hát ghẹo: Sang sông / về sông /
trồng cây / ăn quả / nhả hạt. “Đỉa” rượt bên này thì bên kia
xuống sông. “Đỉa” quay lại bên kia thì lũ bên nọ lại réo lên: “ăn
quả / nhả hạt” rồi ào xuống. Ai lội qua sông không khéo,
chẳng may bị “đỉa” bám phải thì trở thành “đỉa”. Cứ thế trò chơi
cứ tiếp diễn đến khi nào mệt, xả hơi rồi chuyển sang trò chơi
khác. Có rất nhiều trò chơi vui vẻ và thú vị như: Dung dăng
dung dẻ, Rồng rắn lên mây, Chơi chuyền đũa, Nu na nu nống, Thìa
la thìa lẩy, Bịt mắt bắt dê, Hỏi tuổi, đánh cù (con quay)...
- Các trò chơi thường lặp đi lặp lại. Các em chơi rất say mê,
vui vẻ và ít khi bỏ cuộc, khác với người lớn thường hay chán.
Qua các trò chơi, các em được dịp rèn luyện thân thể và các giác
quan cũng như tăng thêm sự sảng khoái, hưng phấn về tinh thần.
Có thể nói, đồng dao và các trò chơi dân gian là chất xúc tác,
vun đắp tình bạn ngây thơ, trong sáng giữa các em thiếu nhi với
nhau thành những ký ức, kỷ niệm đẹp thời thơ ấu mà sau nầy khó
có thể quên được.
- Kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian của dân tộc ta rất phong
phú và đa dạng. Đồng dao và trò chơi dân gian có tác dụng giáo
dục thiếu nhi, nhi đồng một cách tự nhiên, có hiệu quả. Ngày
nay, cuộc sống văn minh đã sản sinh ra rất nhiều trò chơi mới,
hấp dẫn, hiện đại. Nhưng xét kỹ, cho cùng, có một số trò chơi
không để lại dấu ấn gì cho người chơi, nhất là đối với trẻ em.
Đáng ngại là có rất nhiều trò chơi mang tính kích động bạo lực,
xa lạ với bản chất nhân văn, nhân hậu của người Việt phổ biến
tràn lan.
- Đồng dao và những trò chơi dân gian của trẻ em cần được gìn
giữ phát huy, cần được bảo tồn không chỉ trong giảng dạy ở nhà
trường mà nên phổ biến, tổ chức cho các em được tiếp cận, vui
chơi, ít nhất là trong các dịp lễ hội, bởi đấy là một phần của
bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần giáo dục thiếu niên, nhi đồng
là đối tượng rất nhạy cảm trong sự hình thành nhân cách ở buổi
ban đầu.