| |
|
- MỘT SỐ LỄ HỘI
MÙA XUÂN
- QUA MẤY VẦN CA DAO
-
- ĐÀO ĐỨC NHUẬN
-
- Ở nước ta, nhất là ở miền Bắc từ Nghệ
Tĩnh trở ra, mùa Xuân là mùa của hội hè đình đám. Ca dao
ta có câu:
-
Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,
-
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè.
-
Thế nhưng, không phải chỉ có “tháng Ba hội hè” mà hội hè
trải dài suốt cả mùa Xuân.
- Đây là hội tháng Giêng:
-
Lễ Phật quanh năm,
-
Không bằng hội Rằm tháng Giêng.
- Đây là hội tháng Hai:
-
Ai là con cháu Rồng Tiên
-
Tháng Hai mở hội Trường Yên thì về . . .
- Đây là hội tháng Ba:
-
Tình cờ ta lại gặp ta,
-
Vui bằng mở hội tháng Ba đền Sòng.
-
Có những địa phương như vùng “quan họ” Bắc Ninh còn vạch ra
lịch vui Xuân của từng làng để các làng tổ chức khỏi
trùng nhau và dân chúng các vùng lân cận có thể tham gia:
-
Mồng bốn là hội Kéo Co,
-
Mồng năm hội Ó chẳng cho nhau về.
-
Mồng sáu đi hội Bồ Đề,
-
Mồng bảy trở về đi hội Đống Cao . . .
- Có một số hội Xuân lại được tổ chức vào
thượng tuần tháng Tư:
-
Ai ơi, mồng chín tháng Tư,
-
Không đi hội Gióng cũng hư một đời!
-
Hay: Mồng bảy hội Khám,
-
Mồng tám hội Dâu,
-
Mồng chín đâu đâu
-
Trở về hội Gióng.
-
Tại sao hội hè đình đám lại thường được tổ chức nhiều
nhất là vào mùa Xuân và thứ đến là mùa Thu? Ngày trước,
nước ta là một nước nông nghiệp theo phương pháp canh tác cổ
truyền. Vào ngày mùa, người nông dân phải quần quật suốt
ngày ngoài đồng ruộng. Do đó, họ cần phải có một khoảng
thời gian nào đó để nghỉ ngơi, giải trí, thụ hưởng cái
thành quả lao động dù ít oi của mình. Mùa Xuân chính là
mùa lý tưởng nhất. “Hằng năm họ chỉ có hai dịp rảnh
rỗi sau vụ cấy lúa Chiêm vào tháng Chạp và lúa Mùa vào
tháng Bảy. Giêng, Hai và tháng Tám là lúc dân quê được nghỉ
ngơi, lúa lúc này đã cấy xong và những hoa màu phụ cũng
đã trồng, mùa gặt chưa tới và hoa màu phụ cũng chưa dỡ.
Nhân dịp này các làng tổ chức hội hè cho dân chúng mua
vui.” (1)
- Trong tác phẩm Việt Nam Văn Hóa Sử Cương,
nhà khảo cứu Đào Duy Anh cũng đưa ra nhận xét:
- “Trong
làng thường năm có nhiều kỳ tế lễ để dân làng có dịp “ăn
uống” và “vui chơi”. Những cuộc tế 1ễ lớn nhất là lễ Kỳ
phúc về mùa Xuân và mùa Thu để cầu bình yên cho dân làng,
lễ Nhập tịch hay vào đám vào khoảng tháng Giêng, tháng Hai,
khi thường thì chiếu lệ tế lễ dăm bảy ngày, năm nào hòa
cốc phong đăng dân gian làm ăn thịnh vượng hay nhân lễ rước
sắc thần, hay nhân lễ khánh thành đình mới thì mở Đại
hội, bày những cuộc vui chơi hát xướng đến nửa tháng hay
cả tháng.” (2)
-
Các lễ hội mùa Xuân ở nước ta có từ bao giờ? Thật khó mà
trả lời cho xác đáng. Có một điều ta có thể xác nhận là
ngay từ thời dân ta còn sống dưới chế độ bộ lạc quây quần
ở vùng đất châu thổ sông Hồng ngày nay, tức thời đại Hùng
Vương, thì đã manh nha hình thức của lễ hội mùa Xuân. Trong
tác phẩm Việt Nam Cổ Văn Học Sử, tác giả Nguyễn Đổng Chi
đã viết:
-
“Vào những ngày hội hoặc ngày tế thần,
thường thường là mùa Xuân xa ngày cấy hái, trai gái các bộ
lạc thôn ấp thường tụ tập lại một nơi, đặt ra lời ví hát
ghẹo nhau, trong khi gảy đờn, thổi sáo, đánh trống, múa
nhảy hay là bày các trò vui.” (3)
-
Thường thường lễ hội mùa Xuân được tổ chức ở chùa hay
đình làng.
-
Chùa là nơi thờ Phật. Đình, miếu là nơi thờ Thần.
-
“Miếu là chỗ quỷ thần bằng y, đình là nơi
thờ vọng, và để làm nơi công sở cho dân chúng hội họp.”
(4)
-
“Làng nào cũng có một cái nhà chung
(tức là Đình Làng – ĐĐN chú thích) vừa là nơi thờ Thần,
vừa là nơi tụ hội của dân. Đối với dân làng, thần Thành
Hoàng là biểu hiệu của lịch sử, phong tục, đạo đức, pháp
lệ cùng hy vọng chung của cả làng, lại cũng là một thứ
quyền uy siêu việt, một mối liên lạc vô hình, khiến cho hương
thôn thành một đoàn thể có tổ chức và hệ thống chặt
chịa.” (5)
-
Đình miếu là nơi thờ thần Thành hoàng. Mỗi làng thờ một
vị thần Thành hoàng, có làng thờ hai hoặc ba vị. Các vị
Thành hoàng có thể là những nhân vật huyền thoại của dân
tộc như Phù Đổng Thiên Vương, Chữ Đồng Tử, Liễu Hạnh Công
chúa…hay các nhân vật lịch sử có công với dân tộc như Hai
Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo…Có làng thờ Thành
hoàng là người đã có công xây dựng ra làng như Hoàng Cao
Khải được thờ ở Thái Hà ấp, Nguyễn Công Trứ được làm
Thành Hoàng ở nhiều đình làng thuộc hai huyện Tiền Hải và
Kim Sơn tỉnh Ninh Bình. Lại có nhiều làng, vì niềm tin đặc
biệt vào những người thác sinh vào ngày giờ được xem là
linh thiêng cũng được dân làng thờ làm thần Thành hoàng,
lắm khi các vị thần này là những tà thần ăn trộm, thần
tà dâm v.v. . .
-
Trong các ngày lễ hội, ngoài các chính lễ được thực hiện
một cách trang trọng như lễ mộc dục (tắm cho tượng thần
thờ trong đình) các hình thức tế lễ…còn có một nghi thức
đặc biệt gọi là “hèm”, người ta thường bày một trò tiêu
biểu để nhắc lại tâm tính, sự nghiệp hoặc hành vi của vị
thần làng thờ. Như sau đây chúng ta sẽ thấy trong sự tích
“đánh giặc Ân” của Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương, sự
tích “cờ lau tập trận” của Đinh Bộ Lĩnh tức vua Đinh Tiên
Hoàng, hay trong lệ “rã đám” của làng La Khê ở Hà Đông.
-
Cây có cội, nước có nguồn, người có tổ tông. Dân ta không
bao giờ quên nguồn gốc tổ tông của mình. Thế nên đã từ
ngàn xưa, dân ta không bao giờ quên được ngày giỗ Tổ Hùng
Vương:
-
Ai về Phú Thọ cùng ta,
-
Vui ngày Giỗ Tổ tháng Ba mồng mười.
-
Dù ai đi ngược về xuôi,
-
Nhớ về Giỗ Tổ mồng mười tháng Ba.
-
Và có lẽ cũng đã tự ngàn xưa, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã
được xem là ngày Quốc lễ.
-
Hằng năm, tại Đền các vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc
phủ Lâm Thao tỉnh Phú Thọ, dân làng Cổ Tích vẫn theo cổ lệ
tổ chức hội Giỗ Tổ từ ngày đầu tháng Ba mãi đến ngày
chính lễ là ngày 10 tháng Ba mới rã đám. Dân bốn phương
trong nước lũ lượt đổ về đây dự Hội để tỏ lòng tưởng nhớ
và biết ơn các vị Vua Hùng đã dày công khai sáng Tổ Quốc
Việt Nam. Vào ngày chính lễ mồng mười tháng Ba có Quốc tế
do đại diện triều đình cử về làm chủ tế. Về sau chính
quan đầu tỉnh Phú Thọ thay mặt triều đình đứng chủ tế.
Trong thời gian từ ngày khai hội đến ngày mãn hội, có
nhiều trò chơi được tổ chức cho dân bốn phương về thưởng
thức như trò đu tiên, leo giây, thả diều, đánh còn v.v . . .
-
Đu tiên mới dựng năm nay
-
Cô nào hay hát kỳ này hát lên.
-
Tháng Ba nô nức hội Đền
-
Nhớ ngày Giỗ Tổ bốn nghìn năm nay.
-
Dạo xem phong cảnh trời mây.
-
Lô Đà, Tam Đảo cũng quay đầu về.
-
Khắp nơi con cháu ba kỳ.
-
Kẻ đi cầu phúc, người đi cầu tài.
-
Sở cầu như ý ai ai.
-
Xin rằng nhớ lấy mồng mười tháng Ba.
-
Ngày Giỗ Tổ cũng còn là dịp hẹn hò của bà con gần xa
gặp nhau để nhắc nhở nhau giữ gìn nước Tổ, cầu chúc cho
nhau những lời tốt đẹp mặn nồng:
-
Đến dây sum họp vui cười,
-
Trước là lễ Tổ viếng nơi mộ phần.
-
Sau là tài tử giai nhân
-
Hàn huyên kể nỗi kẻ gần người xa.
-
Gần xa ta cũng một nhà.
-
Cũng dòng Hồng Lạc, cũng là viêm bang.
-
Chúc rằng: phú quí thọ khang.
-
Tổ cho phúc trạch bình an muôn nhà
-
Rời đất Tổ Phú Thọ, chúng ta hãy cùng nhau về thăm vùng
đất phát tích vị anh hùng huyền thoại của Dân tộc: Đức
Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương:
-
Ai ơi, mồng chín tháng Tư,
-
Không đi hội Gióng cũng hư một đời.
-
Làng Gióng tức làng Phù Đổng thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh. Hội đền Phù Đổng Thiên Vương tục gọi là hội Gióng
được tổ chức vào ngày mồng 9 tháng Tư với sự tham dự của
dân 4 làng thuộc tổng Phù Đổng: Phù Đổng, Phù Dực, Đồng
Viên và Đồng Xuyên. Hội tổ chức cuộc rước lịch sử với
những hình ảnh thật rực rỡ diễn lại sự tích “đánh giặc
Ân” của cậu bé làng Gióng mà về sau được các vua phong
tặng là Phù Đổng Thiên Vương.
-
Trước ngày hội Gióng, các địa phương kế cận đã có hội
Khám và hội Dâu :
-
Mồng bảy hội Khám,
-
Mồng tám hội Dâu,
-
Mồng chín đâu đâu
-
Thì về hội Gióng.
-
Hay: Râm râm hội Khám,
-
U ám hội Dâu,
-
Vỡ đầu hội Gióng.
-
Lại có câu :
-
Dù ai buôn bán trăm nghề
-
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
-
Khám tức làng Vân Khám xứ Kinh Bắc.
-
Dâu tức làng Dâu nay là xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành,
tỉnh Hà Bắc. Thiên Ứng Tự nằm trên đất làng Dâu nên dân gian
quen gọi là chùa Dâu. Chùa Dâu nổi tiếng với bốn pho tượng
gọi là tượng Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp
Điện. Chùa thờ Phật mẫu Man Nương, một nhân vật huyền thoại
của Phật Giáo Việt Nam từ thời Bắc thuộc lần thứ nhất,
dưới đời Sĩ Nhiếp làm Thái thú đất Giao Chỉ (187-226). Hội
Dâu được tổ chức mỗi năm hai lần : một lần vào ngày 17
tháng Giêng tương truyền là ngày sinh của Man Nương với tục
thi làm bánh dầy thật hấp dẫn. Ngày hội chính thức được
tổ chức vào ngày Phật Đản (cũ) tức là ngày mồng tám
tháng Tư với đám rước tượng Tứ Pháp thật linh đình, ngoạn
mục.
-
Theo kinh nghiệm của dân chúng địa phương, vào những ngày
đầu tháng Tư, bầu trời thường có mây đen vần vũ và sau đó
là những cơn mưa đầu mùa Hạ, do đó mới có câu “râm râm
hội Khám, u ám hội Dâu”. Hơn nữa, như trong tên gọi Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện (mây, mưa, sấm, chớp) đã
cho ta thấy hệ thống chùa Tứ Pháp trong giai đoạn hình
thành đã nói lên một nhu cầu thiết yếu củasinh hoạt nông
nghiệp: Mưa, và vì vậy, một số trò diễn trong các lễ hội
mùa Xuân của hệ thống Tứ Pháp thường mang hình thức “rước
nước cầu mưa” :
-
Ba bà trẩy hội chùa Un,
-
Mưa gió ùn ùn , thiên hạ lại dễ
làm ăn.
-
Tục lệ rước tượng Tứ Pháp với những điệu múa dân gian đầy
màu sắc ngoạn mục vào ngày mồng 8 tháng Tư luôn luôn là
một hình ảnh đầy sức quyến ru:
-
Dù ai buôn bán đâu đâu
-
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
-
Dù ai buôn bán trăm nghề,
-
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
-
Hội Gióng là nơi qui tụ nhiều khách thập phương đến để xem
diễn lại sự tích “Thánh Gióng đánh giặc Ân” và để tưởng
nhớ lại công ơn của vị anh hùng Dân Tộc. Trẻ con trong làng
và quanh vùng cũng bắt chước “diễn trận” nên mới sinh ra
cái cảnh “vỡ đầu hội Gióng”.
-
Lại có câu:
-
Mồng bảy hội Khám,
-
Mồng tám hội Dâu,
-
Mồng mười hội Bưởi không đâu vui bằng.
-
Làng Bưởi là tên Nôm của làng Đại
Bái, nay thuộc huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc. Làng này xưa
nổi tiếng về nghề gò đồng, thờ ông Nguyễn Công Truyền làm
tổ sư, gọi là Đại Bái tiên sư. Làng này có tục lệ tế Tiên
sư thật đặc biệt, đó là lễ thắp hương của những người
đồng niên canh. “Tất cả dân làng và những người làng đã
đi cư ngụ nơi khác, nếu có điều kiện về lại quê hương đều
theo một quy ước chung: cứ đến tuổi 49 là tuổi ra lềnh,
người nào cũng có nhiệm vụ thắp hương hàng ngày ở đền
thờ Tổ. Lần lượt năm nay số người đồng hương đến lễ, năm
sau sẽ là tốp người kế tiếp vào tuổi ấy, ra thắp hương từ
sáng sớm. Người ở xa không về được, có thể gửi hương về
nhờ bạn cùng lứa tuổi mình thắp hộ.” (6)
-
Rời hội Bưởi của xứ Hà Bắc, chúng ta hãy về Hà Nam tham
dự ngày hội tưởng nhớ công ơn của Triệu Quang Phục tức
Triệu Việt Vương (549-571) người đã có công lãnh đạo dân ta
kháng chiến chống lại tướng nhà Lương của Trung Hoa là Trần
Bá Tiên, một tên Thái thú tàn ác đang cai trị đất Giao Châu:
-
Làng Đọ bơi trải,
-
Làng Nội lãi lèn,
-
Làng Chiền chạy ngựa.
- Ba làng này thuộc xã Chung Lý, huyện Lý
Nhân, tỉnh Hà Nam. Trên bờ sông Long Xuyên chảy qua ba làng có
đền thờ Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục. Hằng năm vào những
ngày đầu tháng Giêng, ba làng này mở hội Xuân để tưởng nhớ
Triệu Việt Vương. Dân làng Đọ tổ chức bơi thuyền trải, một
loại thuyền nhỏ và dài, còn gọi là thuyền ngo. Dân làng
Nội thi hát “lãi lèn”, một điệu dân ca cổ của dân
huyện Lý Nhân. Dân làng Chiền có tục thi múa ngựa giấy.
-
Nước ta có nhiều sông ngòi – sông thiên nhiên và sông đào. Do
đó, tục đua thuyền vào các ngày lễ hội thường được nhiều
làng thực hiện. Thuyền đua có hai hình thức : hoặc thuyền
trải hoặc thuyền rồng – tức loại thuyền có chạm đầu rồng
ở đầu thuyền hay cả hình rồng suốt lườn thuyền :
-
Cầu Quan vui lắm ai ơi,
-
Trên thì chợ họp, dưới bơi thuyền rồng.
- Cầu Quan xưa là huyện lị của huyện Nông
Cống tỉnh Thanh Hóa. Nơi đây có chợ Thượng họp ngay trên bờ
một con sông đào từ thời nhà Lê. Xưa kia, hằng năm đến đầu
mùa Xuân, Cầu Quan có hội đua thuyền rồng cho trai tráng
trong làng thi tài. Dân chúng kéo về chợ Thượng vào ngày
đầu Xuân vừa mở hàng phiên chợ Tết, vừa được xem bơi thuyền
rồng.
-
Hoặc như :
-
Quyển Sơn vui thú nhất đời,
-
Dốc lòng trên giặm, dưới bơi ta về.
- Làng Quyển Sơn nằm trên bờ sông Đáy thuộc
huyện Kim Bảng, tình Hà Nam là nơi có nhiều thắng cảnh kỳ
thú. Hàng năm làng tổ chức hội Xuân vào tháng Giêng với
tục thi hát giặm – một thể điệu dân ca miền Bắc và bắc
Trung Phần, và thi bơi trải.
-
Làng Đạo Chân tức Kẻ Dầu tỉnh Bắc Ninh cũng có tục đua
thuyền :
-
Kẻ Dầu có quán Đình Thanh,
-
Kẻ Hạc ta có ba đình, ba voi.
-
Mười tám cất thuyền xuống bơi,
-
Mười chín giã bánh, hai mươi rước Thần.
-
Rước Thần tức rước tượng thần Thành hoàng của làng.
- Rời xứ Kinh Bắc đa tình, chúng ta hãy về
thăm Ninh Bình, nơi dấy nghiệp của vị Vua đầu tiên của nước
Việt Nam độc lập: Đinh Tiên Hoàng.
-
Ai là con cháu Rồng Tiên,
-
Tháng Hai mở hội Trường Yên thì về.
-
Về thăm đất cũ Đinh Lê,
-
Non xanh, nước biếc bốn bề như xưa.
-
Làng Trường Yên thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình là nơi
có đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng. Hằng năm làng mở hội Xuân
từ ngày 15 đến ngày 20 tháng Hai. Trong những ngày hội có
nhiều trò vui chơi như thi thơ, hát chèo, chọi gà, bơi thuyền
và đặc biệt nhất là diễn lại sự tích “cờ lau tập trận”
của Đinh Bộ Lĩnh thuở hàn vi. Một số trẻ mục đồng được
làng lựa chọn khoanh tay làm kiệu rước một trẻ mục đồng
khác đóng vai Đinh Bộ Lĩnh. Trong cuộc diễn, họ cùng hát
lại bài ca tương truyền là đã có từ thời Đinh Bộ Lĩnh còn
chăn trâu và tổ chức tập trận bằng cờ lau:
-
Cỏ cây ấy, nước non này,
-
Nước non quanh quất, cỏ cây xanh rì.
-
Rừng hoang, cỏ rậm để chi,
-
Phen này ta quyết dọn đi cho rồi.
-
Này này chúng bạn ta ơi!
- Ở trên là một số lễ hội mùa Xuân tiêu
biểu nói lên lòng tín mộ và tri ân các bậc anh hùng liệt
nữ đã dày công xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam thân
yêu qua suốt dọc trường kỳ lịch sử của Dân Tộc. Có thể
nói từ thời Quốc Tổ Hùng Vương qua thời Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, Bố Cái Đại Vương . . . thời kỳ Độc Lập với Ngộ
Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung . . . đến
thời kỳ kháng Pháp với Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng,
Phan Bội Châu . . . hầu như không có một vị anh hùng Dân Tộc
nào lại không được dân ta sùng bái, hương khói phụng thờ.
- “Việc
thờ cúng các danh nhân anh hùng chẳng những do lòng biết ơn
các Ngài mà còn do thành tâm cầu xin các Ngài phù giúp dân
làng họăc tiếp tục góp công bảo vệ đất nước.”
(7)
-
Trong hàng các nhân vật huyền thoại được dân ta thờ phụng
như Phù Đổng Thiên Vương, Chữ Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thần thì
Liễu Hạnh Công Chúa “tuy phải sinh sau ba vị kia cả ngàn
năm, Thánh mẫu Liễu Hạnh lại được sùng kính tôn thờ như
tín ngưỡng dân gian lan rộng khắp nơi, từ Phủ Giầy Nam Định
đến chù Thiên Minh Lạng Sơn, vào đền Sòng Thanh Hóa, ra Tây
Hồ Thăng Long, vào Sóc Hương Nghệ An đâu đâu cũng hiển linh
thiêng liêng.” (8)
-
Đã có nhiều câu ca dao ghi lại ngày hội Thánh mẫu Liễu
Hạnh:
-
Tháng Tám giỗ Cha,
-
Tháng Ba giỗ Mẹ.
-
Hay: Nhất hội Hương Tích,
-
Nhì hội Phủ Giầy.
- Giỗ Cha tức giỗ Đức Thánh Trần. Đức
Thánh Trần là tên gọi cung kính của dân gian đối với Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, vị anh hùng Dân Tộc đã ba lần
lãnh đạo nhân dân Việt Nam chống cuộc xâm lăng của giặc
Nguyên dưới thời nhà Trần vào thế kỷ thứ 13.
-
Đền Thánh mẫu Liễu Hạnh tục gọi là đền Phủ Giầy toạ lạc
tại xã Vân Cát, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Hằng năm đền
mở hội từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 3 tháng Ba mới rã
đám.
-
Hội Phủ Giày còn gọi là ngày hội Thánh Vân Hương thu hút
hàng trăm ngàn người ở khắp các tỉnh miền trung du Bắc
Việt và bắc Trung Việt. Đây được xem là ngày Hội Xuân lớn
nhất đất Bắc và thời trước được xem là ngày quốc lễ. Vào
ngày khai Hội, triều đình cử một vị quan Khâm Sai Đại Thần
hoặc là quan Tổng Đốc Nam Định đứng làm chủ tế. Trong suốt
thời gian lễ hội có nhiều trò vui chơi như ca hát, kéo chữ,
đánh cờ . . . đặc biệt nhất là các cuộc tế lễ rất linh
đình thu hút khá đông các “đồng cô, bóng cậu”. Tưng
bừng và hấp dẫn nhất, đó là đám rước Thánh mẫu từ đền
Phủ Giầy đến xã Phù Chính ở chân núi Gôi vào ngày mồng 6
tháng Ba. Đây là một đám rước đầy màu sắc và hương vị :
màu sắc của cờ xì, áo quần, hương vị của các loại hoa
quả và hương đèn của một rừng người kéo dài hàng năm bảy
cây số ngàn.
-
Ở Thanh Hóa có đền Sòng thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh cũng là
nơi được dân chúng đến chiêm bái rất đông, nhất là vào ngày
húy kị mồng 8 tháng Ba của Đức Thánh Mẫu. Đền Sòng cũng
tổ chức những trò vui chơi như ở đền Phủ Giầy. Phần lớn
đệ tử của Mẫu Liễu Hạnh đến đền Sòng để cầu trừ tà ma
và tật bệnh :
- Tình cờ ta lại gặp ta
-
Vui bằng mở hội tháng ba đền Sòng
- Đạo
Phật du nhập vào nước ta ngay từ những thế kỷ đầu của
thiên niên kỷ thứ nhất. Rồi từ thời kỳ nước nhà giành
được Độc Lập (939), nhất là vào đời nhà Lý (1010-1225) và
nhà Trần (1225-1400), đạo Phật đã giữ một địa vị quan
trọng trong đời sống tâm linh và thế tục của dân tộc ta. Do
đó, tinh thần Phật Giáo đã thấm nhuần vào tâm hồn dân tộc
một cách sâu sắc. Có thể nói trong thời kỳ nầy, và ngay
cả nhiều thế kỷ về sau, người Việt Nam nào cũng có thể
tự xem mình là con Phật. Hầu như làng nào cũng có một ngôi
chùa, chí ít cũng là một ngôi thảo am để thờ Phật, làm
nơi lui tới chiêm bái của thiện nam tín nữ. “Đất vua,
chùa làng, phong cảnh Bụt”. Khi đến lứa tuổi bốn, năm
mươi trở lên, các bà thường đến chùa vào ngày mộng Một,
ngày Rằm để nghe câu kinh, tiếng kệ. “Tục ta tin rằng
trong ngày Rằm tháng Giêng, Đức Phật giáng lâm tại các chùa
để chứng độ lòng thành của các tín đồ Phật Giáo. Trong
dịp nầy, chùa nào cũng đông người đến chiêm bái.” (9)
- Thế nên
trong dân gian đã có câu :
-
Lễ Phật quanh năm,
-
Không bằng hội Rằm tháng Giêng!
- Đất
Bắc là nơi có nhiều ngôi chùa cổ nổi tiếng, quanh năm không
lúc nào vắng hương khói. Đặc biệt là vào những ngày lễ
hội mùa Xuân, khách thập phương qui tụ về chùa càng đông,
hoặc để dâng hương lễ Phật, hoặc để nghe các sư giảng Pháp,
hoặc đến chùa để ngoạn cảnh và thưởng thức các thú vui
trong các dịp hội Xuân.
- Ngôi
chùa nổi tiếng vì phong cảnh đẹp bậc nhất đất Bắc đó là
chùa Hương :
-
Bối Khê, Tiên Lữ, Chùa Thầy
-
Đẹp thì tuyệt đẹp chưa tày chùa Hương.
- Tiên Lữ
còn gọi là chùa Trăm Gian ở tỉnh Sơn Tây.
- Chùa
Thầy nằm trên núi Sài Sơn cũng thuộc tỉnh Sơn Tây. Chùa
Hương tức chùa Hương Tích, dân địa phương vẫn gọi bằng cái
tên nôm na quen thuộc là chùa Trong để đối với chùa Ngoài
chức chùa Thiên Trù nằm ở đầu lối vào cửa động. Chùa
Hương Tích nằm trong một cái động thạch nhũ cùng tên được
mệnh danh là “Nam Thiên Đệ Nhất Động” được khắc ngay lối
vào cửa động với nét chữ sắc sảo, bay bướm của ông Chúa
đa tình Trịnh Sâm tức Tĩnh Đô Vương (1767-1782).
- “Trong
ngôn ngữ thường dùng, chùa Hương gần như đồng nghĩa với
toàn bộ cảnh đẹp Hương Sơn. Nói “đi chùa Hương” tức là nói
“vào thăm cảnh Hương Sơn nói chung” chứ không riêng gì động
Hương Tích.” (10)
- Quả
vậy, chùa Hương là điểm chính của một tập hợp nhiều thắng
cảnh mang di tích Phật Giáo của vùng núi non Hương Sơn. Từ
chùa Ngoài (Thiên Trù) vào đến chùa Trong (Hương Tích) khách
hành hương ngoạn cảnh lần lượt viếng thăm các thắng cảnh
ngoạn mục khác : đó là chùa Tiên nằm trên núi Tiên, chùa
Giải Oan với suối nước trong thiên nhiên tuyệt vời, rồi am
Phật Tích, động Tuyết Quỳnh, đến đền Trần Song tức cửa
Võng thờ Bà Chúa Thượng Ngàn.
- Chùa
Hương nằm trong địa phận tỉnh Hà Đông. Lễ Hội chính thức
là vào ngày Rằm tháng Hai, nhưng theo tục lệ, ngay từ ngày
6 tháng Giêng người ta đã làm lễ mở cửa rừng cho dân chúng
vào làm ăn và khách thập phương ngoạn cảnh chùa vào những
ngày đầu năm.
-
Hội Chùa Hương thu hút khá
đông khách thập phương trước là để lễ Phật, sau là để
ngoạn cảnh.
-
Ngày Xuân con én
xôn xao
-
Nam thanh, nữ tú
ra vào chùa Hương
-
Chim đưa lối,
vượn đưa đường
- Nam Mô Di Phật
bốn phương chùa nầy!
-
Còn khách đa tình
tìm đến nơi nước non kỳ thú nầy để giải tỏa tâm tình :
-
Ai đi trẩy hội
chùa Hương
-
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm
- Mớ rau sắng, quả mơ non
- Mơ chua, sắng ngọt biết còn thương chăng?
-
Hội chùa Hương quyến rũ lòng người nhờ phong
cảnh thiên nhiên kỳ thú thì hội chùa Thầy cũng làm say đắm
lòng người bởi phong cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ không kém :
-
Nhớ ngày mồng
bảy tháng Ba,
-
Trở về hội
Láng, trở ra hội Thầy.
-
Chùa
Thầy tức Thiên Phúc Tự nằm trên núi Thầy tức Sài Sơn
thuộc phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Chùa Thầy, tên gọi của dân
gian địa phương là chùa Cả – là ngôi chùa chính trong vùng
có nhiều di tích kiến trúc Phật Giáo nổi tiếng, gồm có
chùa Thầy tức chùa Cả , chùa Cao, chùa Một Mái hay chùa
Bụt Mọc, hang Thánh Hóa, hang Cắc Cớ . . .
-
Hàng năm
chùa Thầy tổ chức hội Xuân từ ngày mồng 5 đến ngày mồng 7
tháng Ba. Ngày mồng 7 tháng Ba được xem là ngày Thiền Sư
Từ Đạo Hạnh sau khi tu hành đắc đạo đã “hóa” trong một
hang động mà về sau dân gian đã gọi là hang Thánh Hóa.
-
Vào ngày
khai hội, một đàn tràng được dựng lên trước sân chùa Thầy.
Các nhà Sư trình diễn điệu “múa lượn” nhịp nhàng theo dàn
nhạc đệm và tiếng chuông, tiếng mõ tụng kinh.
-
Sau thời
lễ Phật khai hội là những trò vui Xuân. Khách thập phương
tạo nên một dòng người đầy sắc và hương đi từ chùa Cả, qua
chùa Cao . . . đến hang Thánh Hóa, hang Cắc Cớ, động Gió
Lùa rồi lại quay về chùa Cả để xem trò “múa rối nước” –
một nghệ thuật dân gian độc đáo. Tương truyền Từ Đạo Hạnh
là Tổ sư của trò “múa rối nước” nầy.
-
Hội Láng
được tổ chức ở ngôi chùa làng Láng nằm ở phía nam kinh
thành Thăng Long. Chùa Láng cũng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh
và cũng khai hội vào ngày mồng 7 tháng Ba. Điểm đặc biệt
của hội Láng là diễn lại sự tích của Thiền sư Từ Đạo
Hạnh và Pháp sư Đại Điên.
-
Tương
truyền Pháp sư Đại Điên dùng bùa phép đánh chết Từ Vinh là
thân phụ của Từ Đạo Hạnh. Để trả mối phụ thù, Từ Đạo
Hạnh cũng đã luyện tập bùa phép và cuối cùng đã triệt
hạ được Pháp sư Đại Điên. Do sự tích nầy nên vào ngày Hội,
dân làng Láng rước kiệu Từ Đạo Hạnh đi ngang qua đình làng
Thụy Hương là nơi thờ Pháp sư Đại Điên, đám rước hướng ngọn
cờ vào đền Đại Điên, đốt pháo thăng thiên giả bộ gây sự để
diễn lại sự tích xung đột thuở sinh thời giữa hai ông.
-
Cũng bởi
chùa Thầy khá nổi tiếng, nên những chùa quanh vùng cũng
muốn tạo một sự so sánh để được tiếng thơm lây:
- Nhất vui là hội
chùa Thầy
-
Vui thì vui vậy
chẳng tày chùa Ngo
-
Chùa Ngo khánh
đá chuông đồng
-
Muốn chơi thì
trả của chồng mà chơi.
-
Những kẻ
yêu nhau cũng muốn được so sánh với niềm vui của hội chùa
Thầy :
-
Nhất vui là hội chùa Thầy
-
Vui thì vui vậy sao tày đôi ta!
-
Lại có
câu :
-
Chẳng vui cung hội chùa Thầy
-
Chẳng trong cũng thể Hồ Tây xứ Đoài!
-
Xứ Đoài
là tên gọi nôm na của tỉnh Sơn Tây ngày xưa. Hồ Tây nằm trong
kinh thành Thăng Long, nhưng bờ phía tây của hồ này lại
thuộc địa phận tỉnh Sơn Tây ngày xưa.
-
Động
chùa Thầy có hang Cắc Cớ thật nổi tiếng và hấp dẫn :
-
Động chùa Thầy có hang Cắc Cớ
-
Trai chưa vợ thì nhớ chùa Thầy
-
Lại có
câu:
-
Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ
-
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy
-
Hay:
-
Mồng bảy tháng
Ba
-
Vui thay Cắc Cớ
-
Trai chưa vợ nhớ
hội chùa Thầy
-
Gái không chồng
nhớ ngày mà đi!
-
Đã đi
hội chùa Thầy phải nhớ đời hang Cắc Cớ – dân địa phương
còn gọi là hang Thần. Mà cắc cớ thật! Bởi lẽ, muốn vào
thăm hang Cắc Cớ, khách phải men theo con đường độc đạo sát
vách hang mà đi, vô ý sẩy chân là sa xuống vực sâu. Kẻ xuôi,
người ngược, muốn qua mặt nhau phải ôm lấy nhau để khỏi
phải sẩy chân xuống hố! “Trai chưa vợ nhớ hội
cchùa Thầy” và “Gái không chồng nhớ ngày mà đi”
là vì vậy đó !
-
Cũng
thuộc tỉnh Sơn Tây còn có một ngôi chùa nữa cũng thật nổi
tiếng, đó là chùa Tây Phương :
-
Ấy ngày mồng sáu tháng Ba
-
Ăn cơm với cà đi hội chùa Tây !
-
Chùa Tây tức chùa
Tây Phương, tên chữ là Sùng Phước Tự, nằm trên núi Tây
Phương thuộc huyện Thạch Thất. Đây là ngôi chùa cổ khá nổi
tiếng với pho tượng Tuyết Sơn và 77 pho tượng lớn nhỏ khác
được điêu khắc bằng gỗ mít. Chùa có lối kiến trúc thật
đặc biệt với ba dãy nhà có mái hai tầng. Chùa mở hội vào
ngày mồng 6 tháng Ba thu hút đông đảo khách thập phương đến
lễ Phật và chiêm bái các pho tượng quý hiếm.
-
Ở Thái
Bình cũng có một ngôi cổ tự nổi tiếng không kém. Đó là
chùa Keo, tên chữ là Thần Quang Tự, tọa lạc tại làng Giao
Thủy, tục gọi là làng Keo. Chùa Keo được quốc sư Dương Không
Lộ (1016-1094) người làng Giao Thủy cho xây dựng vào năm 1061
dưới thời vua Lý Thánh Tông (1054-1072). Chùa Keo tổ chức
một năm hai lần hội : Hội Xuân tổ chức vào ngày mồng 4 Tết
với các lễ nghi và trò chơi mang đặc tính nông nghiệp như
thi thổi cơm, thi bắt vịt, thi ném pháo . . .
-
Hội Thu
được xem là hội chính tổ chức từ ngày 13 đến ngày Rằm
tháng Chín. Đây là một ngày hội Chùa thật tưng bừng với
nhiều nghi thức trọng thể từ lễ dựng phướn, lễ tắm tượng,
lễ rước tượng Tổ Dương Không Lộ đến cuộc thi bơi thuyền
rồng trên sông Trà Lĩnh. Thế nên dân gian đã truyền tụng câu
ca dao :
-
Cho dù cha đánh, mẹ treo
-
Cũng không bỏ hội chùa Keo hôm rằm!
-
Ở Hà Nôi
có chùa Liên Trì, tục gọi là chùa Quan Thượng do Tổng đốc
Hà Ninh (Hà Nội, Ninh Bình) Nguyễn Đăng Giai, thường gọi là
quan Thượng Giai, cho xây vào năm 1846. Chùa xây cạnh Hồ Tây,
trong chùa có đào 9 cái giếng nên còn gọi là chùa Cửu
Tỉnh. Vào những ngày đầu Xuân, dân chúng Hà Thành lũ lượt
kéo nhau về chùa để lễ Phật. Rất tiếc là chùa đã bị
người Pháp cho triệt hạ để lấy đất xây phủ Thống Sứ. Ngày
nay chỉ còn lại ngọn tháp gọi là tháp Liên Trì :
-
Gần xa nao nức
tưng bừng
-
Vào chùa Quan
Thượng xem bằng động tiên.
-
Lầu chuông, gác
tía đôi bên,
-
Trông ra chợ Mới,
Tràng Tiền kinh đô.
-
Khen ai khéo họa
địa đồ,
-
Trước sông Nhị
Thủy, sau hồ Hoàn Gươm.
-
Phong quang cảnh
trí trăm đường,
-
Trong xây chín
giếng, ngoài tường lục lăng . . .
-
Ở Bắc
Ninh, các hội hát “quan họ” thường gắn liền với các sinh
hoạt của chùa chiền, tức Hội Chùa. Bắt đầu từ ngày mồng
4 Tết, các làng lần lượt kế tiếp nhau mở hội Xuân. Trong 2
tháng Giêng và Hai, có nơi sang tháng Ba, các làng phân bố
các ngày hội Xuân sao cho không trùng nhau để dân chúng có
dịp tham gia nhiều hội của nhiều làng khác nhau :
-
Mồng bốn là hội
Kéo Co
-
Mồng Nam hội Ó
chẳng cho nhau về.
-
Mồng sáu đi hội
Bồ Đề,
-
Mồng bảy trở về
đi hội Đống Cao . . .
-
Làng Hữu
Chấp huyện Võ Giàng và làng Tích Sơn huyện Tam Dương đều
mở hội vào ngày mồng bốn Tết với tục nam nữ “kéo co”.
-
Làng Ó
tức làng Vân Ổ huyện Võ Giàng.
-
Ở Sơn Tây
các hội “quan họ” cũng được phân bố như ở Bắc Ninh :
-
Mười một thì hội Hương Nha
-
Mười hai Gia Dụ, mười ba hội Hiền . . .
-
Hát “quan
họ” đối với dân chúng miền Bắc quả có một sức quyến rũ
kỳ lạ. Ta hãy nghe một cô gái Bắc Ninh mô tả niềm say mê
hát “quan họ” như thế nào :
-
Mồng năm hội Ó,
-
Quan họ dồn về.
-
Hội vui lắm lắm,
-
Chưa kịp đi tắm,
-
Chưa kịp chải
đầu.
-
Trầu chưa kịp
têm,
-
Cau chưa kịp bổ.
-
Miếng lành,
miếng sổ,
-
Miếng lại quên
vôi.
-
Người có yêu tôi,
-
Thì người cầm
lấy.
-
Trong các
hội “quan họ” Bắc Ninh, tuy không phải là “hội Cả” nhưng hội
Lim lại rất nổi tiếng :
-
Hôm nay là buổi
hội Lim,
-
Nhớ em nên phải
đi tìm em đây.
-
Nhất niên nhất
lệ một ngày,
-
Đôi ta tỏ nỗi
niềm tây tự tình!
-
Hội Lim
được tổ chức trên đồi Lim, tức Hồng Vân Sơn, nằm trên địa
phận 3 xã : Duệ Đông, Lũng Sơn và Lũng Giang, tổng Nội Duệ,
huyện Tiên Du. Trên núi có chùa gọi là Hồng Vân Tự với quả
đại hồng chung đúc từ đời Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng
(1740-1786) và lăng ngài Hiếu Trung Hầu, một vị hoạn quan
dưới thời Lê Cảnh Hưng. Vì không con cái, Ngài hiến dâng tài
sản để xây đình cho mấy xã thuộc tổng Nội Duệ. Thế nên,
để nhớ công ơn Ngài, hàng năm đến ngày 13 tháng Giêng, dân
Nội Duệ mở hội Xuân tại lăng của Ngài. Ngày hội nầy được
gọi là ngày Hội Lim. Ngoài các trò chơi Xuân, hội nổi
tiếng với tục hát “quan họ”. Hội Lim đã thu hút khá đông
khách thập phương về tham dự, đặc biệt là các chàng trai
trẻ đất Hà Nội. Sở dĩ Hội Lim đã thu hút được nhiều
người, một phần do phong cảnh hữu tình của đồi Lim, nhưng
phần khác có lẽ vì sức quyến rũ mê hồn của các cô gái
vùng nầy. Tục ngữ đã chẳng có câu: “Trai Cầu Vồng, Yên
Thế ; Gái Nội Duệ, Cầu Lim” đó sao!
-
Và sau
đây là một số hội Xuân mang những sắc thái phong tục kỳ
lạ.
-
Đáng kể
hơn cả là tục “rã đám” của làng La :
-
Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy,
-
Vui thì vui vậy chẳng tày rã La!
-
Làng Đăm
là tên thông tục của làng Tây Tựu xưa thuộc tỉnh Hà Đông.
Làng này có hội Tế Thần vào ngày mồng 9 tháng Ba. Trong
ngày lễ hội này, làng Đăm có lệ thi bởi trải thật linh
đình.
-
Làng Giá
là tên thông tục của làng Yên Sở thuộc huyện Đan Phượng, Hà
Đông. Đình làng này thờ Lý Nam Đế (544-548) làm Thành
Hoàng. Trong lễ hội đầu năm, dân làng Giá tổ chức cuộc
rước Thần thật trọng thể.
-
Hội Thầy
tức hội chùa Thầy.
-
Làng La
tức làng La Khê thuộc phủ Hoai Đức, tỉnh Hà Đông. Theo thần
tích, Thành hoàng làng La Khê nguyên là một tay đạo chích
lại dâm bôn, chết nhằm giờ thiêng nên được dân làng thờ
phụng. Làng vào đám hội Xuân từ ngày mồng 6 đến ngày 12
tháng Giêng. Ngoài các cuộc tế lễ, rước xách và các trò
vui Xuân bình thường, làng lại có một tục lệ thật kỳ lạ :
tục “rã đám”. Vào ngày 12 tháng Giêng, làng tổ chức rước
thần Thành Hoàng vào lúc chạng vạng với sự tham dự đông
đủ của dân làng. Khi kiệu rước thần vào đình làng, đèn
đuốc được thắp lên để tế lễ. Cuộc tế vừa dứt, tất cả
đèn đuốc trong đình, ngoài sân đều tắt. Trong bóng đêm, mọi
người không kể già trẻ đều được tha hồ sờ soạng nhau, ôm
ấp nhau. Đó là “hèm” diễn lại trò của thần “ăn trộm dâm
bôn” mà ! Họ “tự do” cho đến khi đèn đuốc được thắp lên trở
lại. Lệ “rã đám” của làng La chấm dứt!
-
Dân làng
La vẫn tin đây là một biểu lộ mang tính cách tín ngưỡng.
Họ tin rằng, nếu làng không thực hiện lệ “rã đám” như
thường lệ, trong năm đó dân làng sẽ gặp nhiều điều không may
mắn!
-
Dân làng
Văn Trưng, tục gọi là làng Dưng thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh
Vĩnh Yên lại bày tỏ hình thức luyến ái bằng một cách
khác với tục “bắt chạch trong chum”. Dân gian đã có câu ca
dao nói lên sự hấp dẫn kỳ thú của tục lệ nầy:
-
Bỏ con bỏ cháu,
-
Không ai bỏ hội mồng sáu chợ Dưng!
-
Xưa làng
Văn Trưng có một ngôi chợ thật lớn, mỗi tháng họp sáu phiên
thu hút đông đảo dân chúng quanh vùng, tục gọi là chợ Dưng.
Chợ Dưng nằm gần đình làng. Chợ Dưng mở phiên đầu năm vào
ngày mồng 6 tháng Giêng. Đây cũng là ngày làng cho tổ chức
hội Xuân với nhiều trò chơi thú vị như leo cầu phao, chơi cờ
bỏi, đốt pháo thi, đua thuyền trên đầm Dưng, và đặc biệt
nhất là tục “bắt chạch trong chum”.
-
Vào ngày
hội, một dãy chum độ 5 hay 6 chiếc được đặt trước sân đình
làng. Miệng chum nhỏ vừa đủ cho một cánh tay thò vào trong.
Nước chứa hai phần chum. Trong chum thả một con cá chạch.
Khách tham dự : mỗi chum cho một đôi trai gái đã quen thân
nhau từ trước. Các cặp này, một tay phải ôm choàng lấy
nhau, tay còn lại thay phiên nhau khoắng vào chum để bắt
chạch. Các chàng trai lợi dụng cơ hội ngàn vàng này để sờ
soạng nhũ hoa của các cô gái. Các cô không hề phản đối. Mà
ngay cả cha mẹ họ chứng kiến cuộc thi cũng khuyến khích họ
tự do biểu lộ tình cảm. Tục lệ mà ! Cặp nào bắt được
chạch mang ra khỏi chum trước thì thắng cuộc.
-
Làng Dưng
ở Vĩnh Yên có tục thi “bắt chạch trong chum” thì làng Me ở
Sơn Tây có tục thi “đánh cá” ở ao làng. Đây là một hội Xuân
cũng khá hấp dẫn, đến nỗi dân địa phương đã hãnh diện so
sánh trò vui của làng Me với những hội Xuân nổi tiếng khắp
một vùng đất Bắc :
-
Nhất hội Hương
Tích,
-
Nhì hội Phủ
Giầy,
-
Vui thì vui vậy
chẳng tày đánh cá làng Me !
-
Làng Me
là tên thông tục của làng Cung Thuận, huyện Tùng Thiện,
tỉnh Sơn Tây. Làng Cung Thuận thờ Tản Viên Sơn Thần. Hàng năm
làng mở hội Xuân từ ngày mồng 2 đến ngày mồng 10 tháng Hai
với nhiều trò vui như hát đúm – một thể loại dân ca của
địa phương, tổ tôm điếm . . . và đặc biệt nhất là tục
“đánh cá” được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng Hai.
-
Đình
làng có một cái ao thật lớn được thả các loài cá như:
trôi, mè, trắm, chép. Suốt năm không ai được đánh bắt cá ở
ao làng. Để rồi vào sáng sớm ngày mồng 4 tháng Hai, hàng
trăm trai tráng trong làng với nơm, vó trong tay đứng chực
sẵn quanh ao. Sau lưng họ là người nhà và dân chúng quanh
vùng đứng xem. Hồi trống báo hiệu cuộc thi bắt đầu vừa
dứt, tất cả trai tráng dự thi nhảy ào xuống ao thi nhau
đánh bắt cá. Tiếng nơm, vó khuấy trong nước, tiếng reo mùng
của kẻ bắt được cá hòa lẫn với tiếng reo hò cổ vũ của
khách đi xem vang dậy cả một góc trời. Sau nửa buổi, một
tràng pháo nổ giòn báo hiệu cuộc thi chấm dứt. Tất cả cá
bắt được đem nộp cho làng. Ai nhiều cá được thưởng. Ai ít
cá bị phạt. Người bị phạt phải nhận cá của làng đem
nướng để tế Thần. Lễ xong, số cá còn lại được đem chia
đều cho tất cả các gia đình trong làng.
-
Làng Me
có tục thi đánh cá ở ao làng rồi lấy cá chia cho dân làng
thì làng Sơn Đồng ở Hà Đông lại có tục dùng lễ vật cúng
Thần để biếu cho các làng lân cận:
-
Sơn Đồng có tục “múa mo”,
-
Bánh dầy, bánh cuốn đem cho các làng.
-
Hàng năm
làng Sơn Đồng thường tổ chức hội Xuân thật linh đình vào
ngày mồng 6 tháng Hai. Trong các lễ vật dùng để cúng Thần
phải có bánh dầy và bánh cuốn. Sau khi tế Thần xong, bánh
dầy và bánh cuốn được đem biếu cho các làng lân cận để
cầu mong năm sau làm ăn sung túc hơn. Ngoài tục lệ biếu xén
này, làng còn có tục “múa mo” vào ngày Hội. Đây là một
tục lệ mang màu sắc tín ngưỡng: câu mong sự sinh sản. “Múa
mo” chỉ dành riêng cho trai chưa vợ, gái chưa chồng. Trai cầm
kiếm vót bằng tre được sơn son. Gái cầm bông cũng được vót
bằng tre tạo xơ thành 4 tầng nhuộm màu xanh, đỏ, tím, vàng.
Họ vừa múa, vừa hát theo điệu “chầu văn” với ý nguyện cầu
mong tình duyên và sự sinh sôi sung mãn.
-
Ngày xưa,
vào những năm trời làm hạn hán, ở Triều đình cũng như
trong dân gian đều tổ chức lễ “đảo vũ” (cầu mưa) thật trọng
thể để cầu xin trời mưa.
-
Làng
Diềm ở Bắc Ninh tổ chức hội Xuân vào ngày Rằm tháng Giêng
tại đình làng Diềm. Cạnh đình có một cái miếu thờ Vua
Bà, một nhân vật huyền thoại được dân làng Diềm rất sùng
bái. Vào ngày hội, ban ngày tổ chức các trò chơi, đặc
biệt là trò chơi cướp quả cầu nước, ban đêm hát “quan họ”
ngay ở sân đình làng. Thế nhưng, vào những năm hạn hán, cần
phải làm lễ “đảo vũ” để cầu trời mưa thì hội “quan họ”
lại được tổ chức ở miếu thờ Vua Bà thay vì ở đình làng
với lời hát như sau :
-
Trước đền có
một cây đa,
-
Vương mẫu hạ
giới thực bà chúa Tiên.
-
Trăm năm hương hỏa
còn truyền,
-
Dân vì hạn hán
mở đền cầu mưa . . .
-
Ý niệm
về Quê Cha Đất Tổ vẫn hằng in sâu trong tâm khảm của con dân
đất Việt.
-
Xưa dân 13
trại ở kinh đô Thăng Long có lệ trở về quê cũ là làng Lệ
Mật để mở hội Xuân :
- Đợi ngày hăm ba
tháng Ba
-
Dân Trại ta vượt
Nhị Hà thăm quê.
-
Kinh quán, cựu
quán đề huề,
-
Hồ Tây cá nhảy
đi về trong mây.
-
Lệ Mật
xưa là một ngôi làng nhỏ bé nằm xa về phía tả ngạn sông
Hồng (còn được gọi là sông Nhị). Theo thần tích đình làng
Lệ Mật thì vào thời nhà Lý (1010-1225) có một chàng trai
họ Hoàng người làng Lệ Mật đã có công trạng cứu một nàng
công chúa khỏi bị chết đuối trên sông Thiên Đức tức sông
Đuống. Để đền công cho chàng trai, nhà vua muốn ban chức
tước cùng ngọc ngà châu báu cho chàng. Thế nhưng, chàng đã
khéo léo từ chối mọi sự đền ơn hậu hĩnh cho cá nhân
chàng, và chàng chỉ xin cho dân làng Lệ Mật được đến khai
khẩn vùng đất bỏ hoang ở phía tây kinh đô Thăng Long và lập
ra 13 trại. Dân 13 trại luôn nghĩ là mình có 2 quê hương: một
ở Lệ Mật là cựu quán và một ở Thang Long là kinh
quán. Hàng năm, đến ngày 23 tháng Ba là ngày húy kị
của vị Thần Hoàng họ Hoàng, dân kinh quán lại vê cựu quán
Lệ Mật để làm giỗ vị ân nhân họ Hoàng đồng thời mở hội
Xuân thật tưng bừng với dân làng Lệ Mật. Tương truyền vào
ngày này, cá ở Hồ Tây kinh đô Thăng Long đã nương theo mây bay
về đầy giếng nước ở đ́nh làng Lệ Mật (!).
- Lễ Hội Mùa Xuân là dịp để cho
dân làng có cơ hội nghỉ ngơi vui chơi sau những tháng ngày
làm lụng vất vả :
-
Bao giờ cho đến tháng Hai,
-
Cho làng vào đám, cho ai xem chèo.
-
Lễ Hội
Mùa Xuân là dịp để cho dân làng tỏ lòng tôn kính và đặt
niềm tin tưởng vào các đấng thần linh mà làng đã thờ
phụng với những điều ước ao tốt đẹp:
-
Làng ta mở hội vui mừng,
-
Chuông kêu, trống gióng vang lừng đôi
bên.
-
Long ngai Thánh ngự ở trên,
-
Tả văn, hữu võ, bốn bên rồng chầu.
-
Sinh ra nam tử công hầu,
-
Sinh ra con gái vào chầu thánh quân.
-
Lễ hội
mùa Xuân cũng còn là dịp để trai gái bộc lộ niềm khát
khao luyến ái tự do, không bị ràng buộc bởi những lễ nghi
phiền toái của Nho Giáo:
-
Ăn chơi cho hết
tháng Hai,
-
Cho làng đóng
đám, cho trai dọn đình.
-
Trong thì chiêng
trống rập rình,
-
Ngoài thì trai
gái trự tình cùng nhau.
-
Trên đây
là một số Lễ Hội Mùa Xuân được nhắc đến qua một số ca dao
mà chúng tôi sưu tầm được. Những lê hội này phần lớn đã
trở thành dĩ vãng từ những năm cuối cùng của cuộc Thế
Chiến Thứ hai (1939-1945). Có nhiều lễ hội đã biến mất
không biết từ bao giờ và chỉ còn ghi lại trong sách vở cũ
hoặc chỉ còn lưu lại trong trí nhớ dân gian qua mấy vần ca
dao ngắn ngủi.
-
Ngày nay,
dù ở rải rác khắp thế giới, người Việt Nam chúng ta vẫn
tổ chức Lễ Hội Mùa Xuân, thực chất là những hội chợ Tết,
không còn những trò vui Xuân mang sắc thái địa phương làng
xã như xưa nữa.
-
Có một
diều may mắn là chúng ta vẫn còn giữ được
ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, ngày Giỗ Trận Đống Đa, ngày Giỗ
Hai Bà Trưng . . . dù rằng những lễ hội này chỉ được tổ
chức một cách hạn chế về khung cảnh cũng như nhân sự.
-
-
ĐÀO ĐỨC NHUẬN
-
- Ghi chú:
- (1) Toan Oánh –
Hội Hè Đình Đám – quyển Hạ, trang 13.
- (2) Đào Duy Anh –
Việt Nam Văn Hóa Sử Cương trang 132.
- (3) Nguyễn Đổng
Chi – Việt Nam Cổ Văn Học Sử – trang 65.
- (4) Phan Kế Bính –
Việt Nam Phong Tục – trang 60
- (5) Đào Duy Anh –
sđd – trang 207.
- (6) Lê Minh Quốc –
Các vị tổ ngành nghề Việt Nam – trang 35
- (7) Trần Vinh –
Tín Ngưỡng Thờ Cúng Các Danh Nhân Anh Hùng Của Ngưỡi Việt
Nam Ngày Trước – Thế Kỷ 21 số 64/ 1994.
- (8) Lưu Văn Vịnh –
Cơ Bút Đền Sòng – Khởi Hành số 23/1998.
- (9) Toan Oánh – sđd
trang 379.
- (10) Trần Lê Văn –
Văn Hóa, Giai Phẩm Tết Mậu Dần 1998.
|
|