Quê hương thời có, cửa nhà thời
không
Nửa đời Nam, Bắc,Tây, Đông...
Tản Đà đă tự giới thiệu về ḿnh như thế. Tản Đà sinh vào hồi
giao thời, lúc thơ cổ sắp tàn, và thơ kim đang phôi phai, Tản Đà
đại diện cho hai ḍng thơ ấy. Hoài Thanh và Hoài Chân trong "Thi
nhân Việt Nam" đă xác nhận điều ấy: "... Anh em ở đây tuy người
sau kẻ trước, nhưng ai nấy đều là con đầu ḷng của thế kỷ 20.
Trên Hội Tao Đàn, chỉ tiên sinh là người của hai thế kỷ. Tiên
sinh sẽ đại biểu cho một lớp người để chứng giám công việc lớp
người kế tiếp, ở địa vị đó, c̣n ai xứng đáng hơn tiên sinh".
Bên cạnh những vần thơ cổ là những vần thơ mới mà Tản Đà là
người dạo nên những bản đàn mở đầu cho một cuộc ḥa nhạc tân kỳ
sắp đến, Tản Đà c̣n làm những vần ca dao, phong dao đầy chất dân
dă của những người b́nh dân lao động trong thơ ḿnh.
Tản Đà đă tắm ḿnh trong ḍng suối quan họ Kinh Bắc quê của mẹ
của ông. Thơ Tản Đà là ngôn ngữ của ca dao, của những bài hát ru,
hát ví... hay đó là lời ăn tiếng nói của quần chúng .
Đó là tiếng hát bên thửa ruộng, vườn cau, luống thuốc:
Trời mưa xắn ống quần cao
Hỡi cô bán thuốc nhà gần hay xa
Thân anh đă xác như vờ
Đồng cau xin chị cho già chớ non
Ảnh hưởng của những câu hát ghẹo của nam nữ nông thôn trong thơ
ông rất đậm đà. V́ thế mà ca dao của Tản Đà cũng mang nội dung
cợt ghẹo và tỏ t́nh rất là... ca dao:
Ai xui anh lấy được ḿnh
Để anh vun xới ruộng t́nh cho xanh
Ai xui ḿnh lấy được anh
Bỏ công bác mẹ sinh thành ra em
"Bỏ công bác mẹ sinh thành..." Bài phong dao phảng phất câu ca
xứ Lạng: "Tay cầm bầu rượu nắm nem" để đến nỗi "mảng vui quên
hết lời em dặn ḍ".
Nhiều khi Tản Đà bám sát những câu ḥ, câu ví ghẹo hỏi, tiễn đưa
dân dă mà xây dựng nên phong cách của ḿnh. Ai mà chẳng thuộc
câu ca:
Ḿnh về ḿnh có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng ḿnh cười
Vậy mà nó đă đi vào thơ Tản Đà t́nh ư như vậy:
Ḿnh ơi, có nhớ ta chăng?
Nhớ ḿnh đứng tựa bóng trăng ta sầu
Trăng kia soi nửa ṿng cầu
Mà ai t́m cái phong hầu thấy chưa?
Đó là lời cô gái trách chàng trai, v́ đường công danh kiếm ấn
phong hầu như chàng chinh phu trong khúc ngâm Chinh phụ, bỏ nàng
lẻ loi, sầu tủi? Câu ca đượm buồn và thắm thiết t́nh người, thi
sĩ cảm thông với từng số phận con người.
Ca dao có câu:
Ai ơi chớ lấy học tṛ
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm
th́ Tản Đà đă vận dụng ngay vào thời buổi của ḿnh trong một bài
phong dao:
Ai xui em lấy học tṛ
Thấy nghiên, thấy bút những lo mà gầy
Người ta đi lấy ông Tây
Có tiền, có bạc cho thầy mẹ tiêu
Phải, "Người ta đi lấy ông Tây" hết cả rồi, c̣n "Ai xui em lấy
học tṛ" , khổ lắm. Câu ca cũng chạnh đến nỗi đau xót v́ thế
cuộc, thấy hé mở ở Tản Đà một tấm ḷng v́ nhân thế và thời thế,
của một con người v́ nước của buổi đầu "Thề non hẹn nước", mong
cho nước đi rồi nước lại về. Tâm sự thầm kín nhưng dễ cảm thông
với Tản Đà qua những vần phong dao.
Đọc phong dao của Tản Đà ta thấy ngồn ngộn những tâm t́nh của
con người sau lũy tre làng. Đó tính hồn nhiên chất phác của nam
nữ thanh niên thôn dă:
Năm nay em mới mười ba
C̣n hai năm nữa thời là mười lăm
Mong cho trời chóng hết năm
Năm sau dâu tốt cho tằm hơn tơ
Đôi lúc cũng là tiếng nói cho thân phận của người chân lấm tay
bùn, một nắng hai sương:
Người ta đi vơng đi xe
Thân em cấy mướn đi về lấm chân
Trời xa xích lại cho gần
Phong lưu sẽ với phong trần cho ai
Th́ ra, bên cạnh những vần thơ rất điêu luyện của một nhà thơ
nổi tiếng là "ngông" ấy, c̣n có những vần thơ se sắt ruột, rất
mộc mạc, giản dị khi Tản Đà cảm thông với cảnh t́nh của người
phụ nữ xa chồng v́ lư do nào đó:
Đêm thu gió đập cành cau
Chồng ai xa vắng ai sầu chăng ai?
Đêm thu gió hút ngoài tai
Gió ơi! Có biết chồng ai nơi nào?
Đêm thu gió lọt song đào
Chồng ai xa vắng gió vào chi đây?
Đêm thu gió lọt đôi mày
Gió ơi có biết nỗi này cho chăng?
Những vần thơ nhẹ nhàng, phất qua như gió, những câu ca có
duyên, những đoạn phong dao mộc mạc... thi sĩ Tản Đà làm rất
thuần thục, rất trong trẻo như hơi thở tự nhiên của phong cảnh
Việt Nam. Có thể nói Tản Đà là thi sĩ rất Việt Nam, hoàn toàn
Việt Nam.