| |
Hát chèo Việt Nam
Đàm Ngọc Huy
(trích " Câu Lạc Bộ Văn
Hóa")
http://vietnamnet.vn/vnn3/vhvietnam
Nguồn gốc và thời điểm h́nh thành chèo
Những
ư kiến phát biểu về nguồn gốc và sự h́nh thành chèo
Chèo
không h́nh thành từ bất cứ nguồn gốc ngoại lại nào
Chèo bắt
nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian, dân tộc
Hát múa
thời Trần và Chèo thuyền bản
Quá tŕnh chuyển hóa và phát triển của chèo sân đ́nh
Thử
phác quá tŕnh chuyển hóa phát triển của sân khấu kịch hát chèo qua thực
tiễn mấy vở truyền thống
Mấy nhận
xét về quá tŕnh chuyển hóa và phát triển của chèo sân đ́nh
Chèo văn minh và chèo cải lương
Từ
chiếu diễn sân đ́nh chuyển dần vào sân khấu hộp
Nguyễn Đ́nh Nghị, chủ suư của phong trào chèo cải lương
Mấy
nhận xét về nghệ thuật chèo thời thuộc Pháp.
Chèo cổ có những đặc điểm sau:
Chèo thuộc loại
sân khấu khuyến giáo đạo đức
Chèo thuộc loại
kịch hát dân tộc, một dạng hát - múa - nhạc - kịch mang tính tổng hợp
Chèo thuộc loại
kịch hát bi - hài dân tộc
Chèo thuộc loại sân
khấu kể chuyện Việt Nam (c̣n gọi là sân khấu tự sự dân tộc)
Chèo thuộc loại sân
khấu ước lệ và cách điệu
Đặc điểm chuyên
dùng và đa dùng nghệ thuật bộc lộ quy luật phát triển của chèo cổ
Làm cách nào để giữ ǵn và phát huy nghệ thuật chèo
truyền thống?
Lời giới thiệu
"Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi qua ngơ
Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay"
Từ bao đời nay hát chèo đă trở thành một
loại h́nh sinh hoạt văn hóa nghệ thuật quen thuộc của người dân Việt Nam,
nuôi dưỡng đời sống tinh thần dân tộc bởi cái chất trữ t́nh đằm thắm sâu sắc.
Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian dân tộc chèo là một loại h́nh sân
khấu kịch hát đậm đà tính dân tộc, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của hàng loạt
yếu tố: hát, múa, nhạc, kịch mang tính nguyên hợp vô cùng độc đáo. Vùng
trung châu và đồng bằng Bắc bộ là cái nôi của chèo, từ cái nôi ấy sau bao
nhiêu thăng trầm của lịch sử nghệ thuật chèo ngày càng phát triển và khẳng
định được tầm quan trọng trong nền văn hóa dân gian dân tộc.
Có
thể nói nghệ thuật chèo mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam, chèo sử dụng ngôn
ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự trữ t́nh.
Đặc biệt hơn là tính tổng hợp của sân khấu chèo từ bản tṛ, đến đề tài nhân
vật với sự "pha âm cách điệu" giữa âm nhạc, hát và múa. Sân khấu chèo xưa ra
đời từ các làng chèo với các múa hội hát. Cứ mỗi độ xuân sang người muôn nơi
lại bồi hồi bởi sự thúc giục của trống chèo và những lời ca tiếng hát của
nghệ nhân làng chèo. Người xưa có câu "nhất cử động giai điểm vũ" điều đó
biểu hiện nét đặc trưng của nghệ thuật chèo là "tính múa", những diễn xuất
tinh tế của nghệ nhân chèo đều ở điểm này mà ra. Với đôi bàn tay khéo léo
từng cử chỉ, động tác đă toát lên cái "thần" của nhân vật, qua đó thấy được
thành công của người diễn. Từ mùa xuân rồi tới mùa thu trong các hội hè đ́nh
đám ở khắp vùng đồng bằng Bắc bộ không khi nào thiếu vắng tiếng hát chèo.
Cũng chính v́ thế mà chèo mang tính quần chúng và được gọi là loại h́nh sân
khấu của hội hè. Công chúng đam mê chèo bởi khi đến với sân khấu chèo có thể
tận hưởng niềm vui từ những tiếng cười châm biếm đả kích sắc và tinh tế.
Trong mỗi vở diễn, mỗi t́nh tiết, mỗi lớp nhân vật của chèo đều có cái hài
xen kẽ với cái bi, người xem bao giờ cũng coi trọng những yếu tố đó. Người
xưa thường nói "có tích mới nên tṛ" điều đó khẳng định tích chuyện là linh
hồn của vở diễn. Cũng chính v́ vậy mà chèo được đánh giá là loại h́nh sân
khấu kịch hát kể chuyện dân tộc. Điều này đă làm nên đặc điểm cơ bản của
nghệ thuật chèo cổ. Không những thế chèo c̣n thuộc loại sân khấu ước lệ cách
điệu, sự khoa trương- tô phóng có tính chọn lọc đă làm nổi bật hơn những góc
cạnh đặc trưng của nghệ thuật chèo- những mảng chèo đặc sắc được ra đời từ
nhân tố đó.
ở
thời nào nghệ thuật đều chứng tỏ những nét tương đồng với lối sống của xă
hội thời đó. Thời xưa chèo mang đậm dấu vết của những điệu múa dân gian,
hàng loạt lễ tiết của phần cúng tế trong các hội làng ở miền bắc Việt Nam.
Trong con đường phát triển của nghệ thuật chèo có h́nh thức tương hợp song
song với sự phát triển và sáng tạo. Cá nhân các nghệ sĩ, những nhà nghiên
cứu... đă đóng góp một phần vô cùng quan trọng trong bước đường hoàn thiện
thể loại kịch hát dân tộc có tính bác học. Chèo hiện đại (chèo cải biên) đă
khẳng định được vị thế của ḿnh với những vở diễn và h́nh tượng con người
mới nhờ sự bảo tồn và phát huy truyền thống của nghệ thuật chèo cổ, xứng
đáng tiêu biểu cho nghệ thuật sân khấu dân tộc.
Trải qua biết bao thế hệ, đến hôm nay những
người con đất Việt - cả những người đang sống trên đất nước Việt Nam và
những kiều bào ở xa tổ quốc, luôn coi nghệ thuật chèo là một "viên ngọc long
lanh sắc màu" trong kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian dân tộc. Bắt nguồn
từ đó, CLB Văn hoá xin trân trọng giới thiệu về nghệ thuật chèo với những
nét độc đáo, tiêu biểu: quá tŕnh h́nh thành và phát triển, đặc điểm cơ bản
của chèo cổ-chèo hiện đại, trong đó không thể thiếu một số gương mặt của các
nghệ sĩ "làng chèo". Những người làm chương tŕnh hy vọng rằng, đây sẽ là
một tư liệu cần thiết và bổ ích cho những ai yêu mến tiếng hát chèo và nền
văn hoá nghệ thuật dân tộc Việt Nam.
Xin cảm ơn Nhà nghiên cứu chèo Trần Việt
Ngữ và Đoàn chèo Hà Nội đă giúp đỡ VNN3 thực hiện chuyên mục này.
VNN3
|
Nguồn gốc và thời
điểm h́nh thành chèo
Việt Nam có cả một
kho tàng sân khấu cổ truyền gồm nhiều kịch chủng như: múa rối, tuồng, chèo;
mà mỗi loại lại có những đặc điểm nghệ thuật độc đáo, sinh sắc, không thể
lẫn lộn. Nẩy sinh và lớn lên trong xă hội nông nghiệp lạc hậu, chúng tiến
triển tương ứng với tŕnh độ và nhu cầu nhiều mặt của mỗi thời kỳ lịch sử,
mặc nhiên trong những món ăn tinh thần không thể thiếu của đông đảo con dân
đất Việt, trong đó sân khấu chèo giữ một vị trí hết sức quan trọng. Để chèo
có được vị thế như ngày hôm nay, chúng ta cùng nhau quay trở lại nguồn gốc
của nó.
1. Những ư kiến đă
phát biểu về nguồn gốc và sự h́nh thành chèo
Có
nhiều ư kiến khác nhau về nguồn gốc và sự h́nh thành của chèo, tuy nhiên có
thể tóm tắt một số ư kiến đă phát biểu từ trước đến nay, về nguồn gốc và
thời điểm xuất hiện của Chèo như sau:
- Chèo có nguồn gốc
ngoại lai, bắt đầu từ sự kiện quân ta cầm giữ nghệ nhân Lư Nguyên Cát ở trận
Tây Kết;
- Chèo khởi lên từ
Trịnh Trọng Tử cho quân hát khúc Long ngân đang khi đưa tang vua Trần Nhân
Tông:
- Danh xưng chèo do
ghi Nôm, dịch chữ Hán ra; hoặc từ chữ Trào (trào lộng) mà ra; hoặc chữ chèo
do phát âm sai mà thành chèo; do phiên Nôm, dịch Hán đồng dạng những chữ
chào (chào mừng), chữ chầu (chầu thần thánh), chữ triều (triều đ́nh, đọc
thành trào đ́nh)...
- Chèo chỉ động tác
chèo thuyền, đề nói nguồn gốc chèo xuất phát từ tṛ tang lễ và lao động;
- Chèo là h́nh thức
sân khấu thuần tuư dân tộc, bắt nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật dân
gian phong phú lâu đời Việt Nam;
- Về thời điểm thành
h́nh, có những ư kiến cho chèo có ở nước ta từ thời tiền sử, thế kỷ thứ IV
trước Công nguyên đến thế kỷ thứ I sau Công nguyên; hoặc thế kỷ thứ X (thời
nhà Đinh); hoặc thế kỷ XIV (cuối nhà Trần);...
2. Chúng tôi không
tán thành nhóm ư kiến cho rằng chèo bắt đầu thành h́nh từ khi có nghệ nhân
Trung Quốc Lư Nguyên Cát (hay Hứa Tông Đạo), hoặc bất cứ nguồn gốc ngoại lai
nào
Dựa trên những ǵ ghi
khắc trong sử sách, bi kư qua các đời Đinh, Tiền Lê, Lư đến cuối Trần, đă có
thể rút ra mấy nhận xét.
Một. Các h́nh
thái hát (kết hợp) múa, các tṛ hề riễu đă tồn tại ở xă hội ta khá phong phú
và ngày một phát triển:
- Đời Đinh tương
truyền có Phạm Thị Chân, Đào Văn Xó
- Đời Lư với tầng lớp
tăng lữ đông đảo có thế lực, kết hợp lại qua với quư tộc cũ mới, thêm Nho
giáo, rồi qua chiến tranh giữ nước mà chín muồi dần tinh thần dân tộc đưa
tới ra đời chữ Nôm với sự liên kết giữa tăng lữ Từ Đạo Hạnh, nho sĩ Mai Sinh,
nghệ nhân Sai ất (hay Phan Khất?). Và rằng phần lớn các vua Lư đều thích múa
hát với Đào Thị, Đỗ Anh Vũ...
- Đời Trần, Nho giáo
ngày một lấn át Phật Giáo, Đạo Giáo, nẩy sinh tầng lớp nho sỹ vừa sử dụng
tốt chữ Hán, vừa mầy ṃ xây dựng chữ Nôm, vừa chan hoà với văn hoá dân gian,
như Chu Văn An, Nguyễn Thuyên, Dư Nhuận Chi, Nguyễn Sỹ Cố, Trần Nhật Duật,...
Hai. Sự xuất
hiện những mảnh tṛ có tích đơn giản, những nghệ nhân vươn lên chuyên nghiệp
nhiều loại, như giáp (kép), đào, lăo, mụ, hề, những tṛ nhại (về hào phú,
trưởng giả), những bài giáo (như giáo trống, giáo hương,...) để từ đấy tổ
chức Giáo phường, tập hợp người nghề, lần đầu tiên cho nhà nước quản lư, với
những phường tṛ, phường hát,...
Ba. Trong bối
cảnh ấy, một Tây Vương Mẫu hiến bàn đào hát tiếng Trung Quốc, ăn vận kiểu
Trung Quốc, biểu diễn với dàn nhạc Trung Quốc, không thể xoá nhoà tất cả, để
có thể coi là khởi điểm cho sự ra đời một kịch chủng thuần tuư dân tộc như
Chèo. Những cung cách tiến hành biểu diễn tiết mục ấy, với sắc thái và âm
hưởng như sử sách miêu tả, xét các mặt nghệ thuật hát, múa, diễn kỹ, không
ai có thể nhận thấy là chèo.
Có chăng, với số điểm
mới trong tiết mục (như quần áo lại kiểu, âm nhạc lạ tai, sân khấu hẳn hoi,
nghệ nhân ra diễn, lại vào, lại ra diễn...) sẽ góp phần thúc đẩy nghệ thuật
bản địa thích ứng nhanh hơn với t́nh h́nh và yêu cầu thưởng thức của nhân
dân đương thời.
3. Từ trước đến
nay, chúng tôi vẫn cho rằng, chèo bắt nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật
dân gian, dân tộc, với sự đóng góp quan trọng của giới trí thức b́nh dân và
quư tộc, từng tồn tại lâu đời trên đất nước Việt Nam, đúng ra là vùng trung
châu và đồng bằng miền Bắc
Khi
nói chèo bắt nguồn từ kho tàng dân ca cổ truyền Bắc Bộ, lưu ư rằng, không
phải loại dân ca nào cũng có thể phát triển thành chèo, mà chỉ những loại
hát nói đậm đặc chất tự sự mới tiềm ẩn khả năng đó, chí ít cũng có số h́nh
thái mang âm hưởng gợi nhắc đến chèo. Tất nhiên, những nghệ nhân chèo lành
nghề có thể "chèo - hoá" không mấy khó khăn bất cứ làn điệu hoặc bài dân ca
nào.
Có vẻ như cổ xưa, mấy
loại dân ca đồng bằng miền Bắc, như Hát đúm, Hát ví, Hát trống quân... với
cấu trúc giai điệu ngắn gọn thẳng đuột, phụ thuộc vào ngữ điệu, tiết nhịp
câu dân dao 6/8, thêm dăm ba tiếng đệm lót vào đầu, chen giữa hoặc vào cuối
cho thành về trống vế mái. Về sau, tuỳ địa phương, tuỳ người hát, chúng có
chuyển hoá chút ít hoặc thêm chữ để thành những câu thất tự, bát tự, cửu tự
hoặc thêm nội dung làm câu hát dài ra; hoặc thêm đảo nhịp, nghịch nhịp cho
câu hát thêm vui nhộn; hoặc gia tăng loại câu đố đó thêm lề lối các loại dân
ca khác, đặt vào "giọng vặt", làm buổi hát là sự tập hợp sắc màu cho "xôm
tṛ" hơn là một cách phát triển nghệ thuật.
Những loại dân ca cổ
hơn th́ qua lề thói sinh hoạt và tiến tŕnh thực hiện, đủ nói sự phát triển
từng thời kỳ với số hiện tượng nghệ thuật khá gần gũi với chèo.
Như Hát Xoan (Phú Thọ)
mà các hội làng mấy huyện Phù Ninh, Lâm Thao, Tam Nông, Đoan Hùng, Hạc Tŕ
hàng năm mở đầu cầu thịnh đầu xuân, đều đón Phường Xoan về đ́nh hát thờ và
vui chơi. Việc Phường Xoan đi hát các làng không phải v́ kế sinh nhai, mà do
ràng buộc về tập tục "nước nghĩa" với nhau.
Các buổi hát xoan
thường bắt đầu từ chập tối. Khi hát, đào thường đội khăn nhung, xống láng,
áo the thâm, thắt lưng đen, có khi bao xanh hoặc hồng; kép th́ khăn lượt
hoặc khăn xếp, áo the thâm, quần trắng, cổ quàng giải khăn nhiễu điều. Sau
hồi trống dạo, Trùm phường cùng ông Chủ tế hội làng ra trước hương án cất
câu hát chúc (kiểu đọc sớ). Dứt tiếng, một kép trẻ đeo trước bụng chiếc
trống nhỡ, vừa hát vừa nhún nhẩy, miệng Giáo trống, Giáo pháo. Rồi bốn đào
xếp hàng ngang, tay càm quạt khuỳnh ra trước mặt vừa hát Thơ nhang vừa làm
điệu bộ câu "Tiến nhang lên, lùi nhang xuống" và bắt vào Đóng đám, chấm dứt
4 câu "vặt" mở đầu, để chính thức vào hát Quả cách (gọi tắt là hát cách),
theo trật tự quy định từ quả 1 đến quả 14 (như Kiều giang cách, Nhàn ngâm
cách, Tùng mai cách, Xuân thời cách, Chèo thuyền cách, Tứ mùa cách,...). Hát
hết các quả lại chuyển sang hát các dọng "vặt", (như Bợm giá, Bỏ bộ, Xin hoa,
Bắt cá, Hát phú,...). Xem chừng đă ḥm ḥm, ông Trùm và ông Chủ tế cất câu
hát giă kết thúc đêm hát.
Trong bài Phú Năm
canh thấy có những câu giống in mấy câu trong vở chèo Quan Âm, như:
Bây giờ hồ sang
trống canh một,
Chim bay về chân núi
Lịch San,
Ve gợi sầu nhắn nhủ
đê đàn,
Sông lai láng, buồn
về góc bể....
Và c̣n không ít câu
gợi nhắc văn vở Lưu B́nh Dương Lễ....
Hay như Hát dậm (Hà
Nam cũ) mà hàng năm, làng Quyến Sơn (Kim Bảng) mở hội để tưởng vọng công
tích Lư Thường Kiệt đánh giặc Chiêm thuở nào, th́ Phường dậm lại tụ họp nhau
tập dượt hàng tháng trước. Hát dậm cũng nằm trong phạm trù hát tờ và vui
chơi, có những h́nh thái diễn xuất không mấy khác Hát xoan, chẳng những thế,
c̣n gây cảm giác "cổ" hơn.
Nằm trong các sinh
hoạt dân ca cổ, như Hát cửa đ́nh, hát quan họ, hát dậm,... thường thấy đưa
vào vô số giọng "vặt" mang tên hát bỏ bộ, tức là hát có điệu bộ, mà nhiều
khi thực chất là những tṛ diễn giản đơn, hồn nhiên, ở mức hoạt cảnh và nếu
thêm tích th́ c̣n sơ lược, có tính chất minh hoạ. Nhưng thú vị thay, chúng
lại mang những ǵ gần gũi nhau, trước hết về sự hài hước dung tục, anh em
với hề chèo.
Song xét mặt ca nhạc,
th́ gần gũi với hát chèo hơn cả có lẽ là hát xẩm, loại nghệ thuật "đặc biệt"
của lớp người mù loà có năng khiếu văn nghệ, mà dân gian gọi là xẩm. Bất
chấp mọi điều kiện hết sức khó khăn, xẩm là biết tổ chức nhau lại thành Làng,
Phường hoặc Hội, có ông (bà) Trùm (do làng bầu) và số nghệ nhân giỏi nghề có
uy tín, trông coi cắt đặt công việc làm nghề, hàng năm có họp bàn xem xét
mọi mặt, bầu người cầm đầu, giải quyết các vụ việc tranh chấp, dạy dỗ bọn
trẻ...
Thành ra, hát xẩm từ
yêu cầu của khách thưởng thức đ̣i người nghề phải thể hiện nội dung ngày một
mở rộng (câu hát dài hơi hơn, tích chuyện đi sâu hơn, nhân vật nhiều hơn,...),
nên mặc dầu ở t́nh cảnh mù loà, ngồi một chỗ vừa hát vừa đàn và làm điệu bộ,
nó cũng đă gia tăng làn điệu với sắc thái nhiều đến kết cấu làn điệu của hát
chèo. Dĩ nhiên, có thể nghĩ, là hát xẩm ra đời trước khi có hát chèo, là một
trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát chèo; hoặc ngược lại, hát xẩm chỉ
là bản sao vụng về của hát chèo trong điều kiện và hoàn cảnh rất ư hạn chế
của lớp người tật nguyền; hoặc đây là mối liên quan ruột rà tất yếu không ai
chối căi giữa hai loại h́nh, bởi chính nghệ nhân xẩm xếp Hát xẩm và Chèo
cùng loại trung ca, trong khi Tuồng vào loại vơ ca, Ca trù vào loại văn ca.
Những điều vừa tŕnh
bày qua thực tế nghệ thuật của một phần kho tàng hát múa dân gian vùng trung
chân và đồng bằng miền Bắc đă thấy chúng có những tố chất khả dĩ dẫn đến sự
h́nh thành hoặc có ảnh hưởng qua lại đậm đặc hay nhẹ nhơm tới nghệ thuật
chèo (cổ).
Đă nói chèo bắt nguồn
từ kho tàng dân ca, dân vũ, dân nhạc và tṛ diễn dân gian, bao gồm những tṛ
nằm trong phạm trù tín ngưỡng, những tṛ tŕnh diện, tŕnh nghề luôn thấy
trong các hội làng, mà nó cấu thành ngôn ngữ nghệ thuật, để thể hiện một
kịch bản với vở diễn mang sắc thái hứa hẹn phong cách một loại h́nh cao hơn,
hay nói cho đúng, là tạo dựng được số h́nh ảnh có tính cách nói lên đức độ,
với nghệ thuật thể hiện phức tạp tinh tế hơn.
4. Hát múa thời
Trần và Chèo thuyền bản
Chèo thuyền bản đánh
dấu sự thành h́nh kịch chủng chèo, xuất hiện vào nửa sau đời Trần, khoảng
cuối thế kỷ XIV, với sự đóng góp của tầng lớp trí thức b́nh dân-quư tộc.
Những h́nh thái văn hoá nghệ thuật thành văn cũng như dân gian thời ấy khả
dĩ xem là những yếu tố cấu thành chèo:
- Đă có nghệ nhân hát
múa (Phạm Thị Chân), nghệ nhân làm tṛ nhại (Đào Văn Xó) từ thời Định;
- Đă tổ chức giáo
phường và định tên gọi đào, kép, hề ghi vào văn bản nhà nước từ thời Lư, với
nhà sư Từ Đạo Hạnh, sáng tác giáo trống, Sai ất làm tṛ cười;
- Thời Trần đă có
những trí thức làm nghệ thuật nổi tiếng như (Tiến sĩ) Dư Nhuận Chi giỏi soạn
bài hát, Thiên chương học sỹ Nguyễn Sỹ Cố giỏi nhạc giỏi đàn, rất có tài
khôi hài,...
- Đă có số tiết mục
hát múa, tṛ diễn thể hiện một tích truyện đơn giản (Trang Vương và 6 người
con), một loại người ở mức khái quát nhất định (các vai tŕnh nghề: Thày Đồ,
Thày Đạo,... cả những Thằng Ngô, con Bợm, Nhiêu Lập, Nhiêu Oanh,...).
Nói đến chèo thuyền
bản là nói đến sự tích có 4 nhân vật do 3 người đóng vai. Nó đă có tích hẳn
hoi, tuy c̣n ở dạng truyện huyền thoại nhưng mang ư nghĩ quan thiết đến đời
sống con người.
Từ những cung cách
thể hiện những trog giáo, chèo thuyền bản nêu lên một kiểu kể chuyện bằng
sân khấu do chính những người sắm vai cung nhau thực hiện với số nét riêng.
So sánh các sinh hoạt
hát múa và tṛ diễn dân gian đă nêu, nhất là qua kết cấu và chữ dùng trong
đó thấy Giáo đ̣ nếu không trước nhất, th́ cũng ra đời cùng thời, với những
giáo hương, giáo mơ, giáo trống, giáo đất, giáo pháo...Đương nhiên, giáo đ̣
có thể có câu cú chữ nghĩa trau tria hơn, do tăng lữ viết và được lưu truyền
rộng khắp, được dùng nhiều.
Chèo Thuyền bản là
bản chèo xưa nhất, ra đời vào thời kỳ khoảng giữa giáo đ̣ với chèo thuyền lễ
cách và tṛ diễn Mục liên địa tạng, đủ khả năng đánh dấu sự thành h́nh kịch
chủng chèo. |
Quá tŕnh chuyển
hóa và phát triển của chèo sân đ́nh
ở
đây đề cập đến những thời kỳ chuyển hóa phát triển của sân khấu chèo suốt
gần 500 năm, từ sau khi đánh thắng quân Minh xâm lược qua các triều Lê (Mạc,
Trịnh) Tây Sơn, Nguyễn đến lúc đất nước rơi vào tay đế quốc Pháp. Người xưa,
xét h́nh thái nghệ thuật đă mệnh danh thời kỳ kéo dài gần 5 thế kỷ này là
chèo sân đ́nh, khán giả ngồi vây quanh ba mặt ngoài trời.
1. Thử phác quá
tŕnh chuyển hóa và phát triển của sân khấu kịch hát chèo qua thực tiễn nghệ
thuật mấy vở truyền thống:
* Lưu B́nh tṛ:
Lưu B́nh tṛ có thể
xuất hiện vào thế kỷ XVII. Có thể nói đây là vở ở dạng cổ nhất. Các bản đều
có số lớp tṛ tuần tự như sau: Giáo đầu; Dương Lễ tới rủ bạn là Lưu B́nh đi
thi; Dương Lễ đậu "tam kỳ đệ nhất"; Lưu B́nh thi trượt, về quê th́ nhà cửa
bị "cơn binh hỏa" cháy sạch, sang nhờ bạn, bị Dương Lễ sai Trù Pḥng làm
nhục; Dương Lễ cậy 1 trong 3 vợ đi nuôi bạn ăn học, nhưng chỉ có Châu Long,
vợ 3 khẳng khái nhận lời; Quán Nghênh Hương, Lưu B́nh gặp Châu Long; hai
người về sống chung; Lưu B́nh sau 3 năm dùi mài kinh sử, thi đậu về nhà thấy
Châu Long; Lưu B́nh buồn rầu, được Dương Lễ cho lính mời sang chơi; Đôi bạn
cũ gặp nhau, Lưu B́nh than thở Nàng Ba ra hầu trà: Lưu B́nh chợ hiểu thâm ư
bạn, cúi đầu, vái Anh, kính Chị hát Kết tṛ.
Sự khác nhau giữa các
bản tṛ thường do sau này thêm vào tṛ diễn ư nghĩa sâu hơn và cũng hấp dẫn
hơn. Như có bản thêm vào lớp Thày Đ̣ dạy học tiếp theo lớp Dương Lễ sang rủ
bạn đi thi (nay đổi là đi học); có bản thêm lớp Vợ chồng nhà Xẩm chen giữa
lớp Lưu B́nh gặp gỡ Châu Long ở Quán Nghênh Hương. Nhiều bản vở mở rộng 2
câu kết làm Văn tṛ nhấn thêm chủ đề bằng hữu, Vợ chồng. Kể thêm vô số câu
pha tṛ của Trù, Pḥng dinh Dương Lễ, của chú Hề đi theo Lưu B́nh, tất cả
như cố ư nhắc nhở, cảnh tỉnh những học tṛ "cả tháng rông dài; một ngày kinh
sử"......
Nhưng so chiếu một số
mặt nghệ thuật giữa các bản tṛ, thấy có những điểm đáng lưu ư:
ở lớp giáo đầu, Lưu
B́nh chỉ dẫn chung chung:
Nhớ xưa tích cũ,
Có hai chàng Dương Lễ
Lưu B́nh
Bạn đồng khoa đèn
sách học hành.....
Rồi sau nói: "Đây đă
đến Kinh Kỳ Kẻ chợ" và "bên kia Tây Hán có tên học tṛ Lưu B́nh đỗ "tam kỳ
đệ nhất"; c̣n các bản Lưu B́nh lại nói:
Có hai chàng Dương
Lễ Lưu B́nh,
Kẻ Sơn Tây, người Bắc
Ninh...
Vở này được nhà nghề
truyền ngôn là "văn chương nghĩa lư", gồm phần lớn thơ thất ngôn, thỉnh
thoảng chen đôi câu ngữ ngôn. Riêng Lưu B́nh tṛ thấy một lần viết theo thể
4/8 lồng cho sử rầu:
Công danh bởi trời,
Kim lan nghĩa cũ,
trách trời sao nên
Về nghệ thuật Lưu
B́nh tṛ được nhà nghề xếp vào loại tṛ nhời, sử dụng chủ yếu nói sử cùng
với các dạng sử rầu, than sử, mà "cao" nhất là sử chuyện đă thành điệu, chen
vào những ngâm thơ, nói vần, nói thường biền ngẫu. ở đây không có sự biến
đ̣i giải quyết gay gắt, dùng nhân vật ở vào thế đối phó trực diện, mà là
những hành vi và lời lẽ thuyết phục nhau, xoay quanh mấy quan hệ b́nh thường
nhưng "đặc biệt" giữa bạn bè, vợ chồng, tớ thầy.
Lưu B́nh tṛ hoàn
thiện dần một cách kết cấu bản tṛ theo dạng sân khấu kể chuyện riêng, ở chỗ
các sự biến xẩy ra tuần tự, được nghệ nhân thể hiện bằng nói lối và hát kết
hợp mà lộ dần tính cách, thật ra là đức độ mỗi lúc dầy thêm, cho đến khi đạt
yêu cầu mà soạn giả đề ra cho tích tṛ và cũng phân thành những lớp giáo đầu,
lớp vào tṛ, thân tṛ với số lớp ruột tṛ, lớp kết tṛ, rồi sau cùng lớp văn
tṛ.
Nh́n vào quá tŕnh
chuyển hóa sáng tạo nghệ thuật thấy Lưu B́nh tṛ đă đóng góp số lớp riêng
giá trị cho vốn nghề truyền thống ngày càng sắc sảo và thâm thúy về Hề, về
giá trị thơ văn và chất trữ t́nh khi miêu tả quan hệ vợ chồng cả chân và giả
làm cho tiết mục trở thành vở tṛ nhời mẫu mực của nghề Tổ.
Đoán định Lưu B́nh
tṛ có thể xuất hiện khoảng thế kỷ XVII là từ những lẽ đó, mà chưa nại đến
nguyên nhân làm cháy nhà chàng Lưu ("qua cơn binh hỏa" hay tại "nạn hỏa
tai"?). Nghệ nhân các thế hệ sau, cả các nho sỹ, các nhà khoa cử, sẽ bồi đắp
sáng tạo thêm về nhiều mặt nghệ thuật, nhất là mặt hài hước với số câu, đoạn
pha tṛ sắc bén, châm chích "gán" vào miệng chú Trù Pḥng, chú hề gậy, cố ư
nhấn đậm chủ đề bằng hữu để chuyển thành chèo Lưu B́nh Dương Lễ của thế kỷ
XIX sau này.
* Quan âm tṛ:
Từ
Quan âm tṛ sang chèo Quan âm đến Quan âm Thị Kính đánh dấu bước phát triển
quan trọng hơn nữa của nghệ thuật chèo sân đ́nh. Bản Quan âm tṛ cổ nhất t́m
được thấy ghi khắc in năm 1872. Các bản Quan âm tṛ bằng chữ quốc ngữ la-tinh
mới in namw 1924 tại Hà Nội.
Đây là vở chèo tiếp
nối ḍng tṛ nhà Phật được đông đảo nhân dân thích thú thưởng thức nhất từ
trước đến nay, kể lại 2 nỗi oan tày đ́nh, với sự chịu nhẫn nhục cực kỳ của
Thị Kính Phật Bà. Ngoài lớp giáo đầu, Quan âm tṛ gồm hai phần: phần 1 kể sự
kiện "thửa làm vợ để chồng ngờ thất tiết" với các lớp (Thiện Sĩ) hỏi vợ, (ông
Măng) gả con, sự biến tỉa râu và nỗi oan giết chồng, (Thị Kính) than thở
phần 2 kể "lúc làm trai cho gái đổ oan t́nh" với các lớp Chùa Vân (và Tiểu
Kính) , (Thị Mầu) lên chùa, Nô và Màu, Việc làng (gồm lớp Mẹ Đốp-Xă Trưởng,
lớp Bắt khoán), "Trả" con, Nuôi "con"; Nỗi oan giải tỏ, Phật tổ ban sắc và
cuối cùng là lớp Chạy đàn.
Quan âm tṛ đă chứng
tỏ một tŕnh độ phối kết nhuần nhị và một sức sáng tạo nghệ thuật phong phú,
các thủ pháp cấu thành ngôn ngữ nghệ thuật kịch chủng khi mô tả những sự
biến, những nhân vật trong quá tŕnh bộc lộ phẩm cách, nhất là với số nhân
vật có suy nghĩ và hành động vượt ra ngoài khuôn khổ đạo đức nhân sinh của
xă hội đương đại.
Có thể nói chèo Quan
âm có nhiều lớp tṛ mới với những khuôn diễn mới bao gồm làn điệu mới, điệu
múa mới và tất nhiên tạo h́nh mới. Như những lới tỉa râu, đánh mắng con dâu,
Thị kính than thở, Tiểu nuôi "con", chạy đàn; đặc biệt là lớp lên chùa sử
dụng chủ yếu hát múa kết hợp với lời thơ và diễn xuất tạo h́nh, lớp Việc
làng chỉ dùng nói thường vần vè và nói lối cùng với số nhân vật biểu trưng
sắc sảo cho cái ngu dốt, thối nát của lũ hào lư nơi xóm thôn, kết hợp với
diễn kỹ tương hợp mà đạt hiệu quả sáng giá lâu dài. Sự sáng tạo ở đây thật
đáng lưu ư, bởi nay chân kinh và truyện nôm cũng chỉ miêu ta đận lên chùa
trong 16 câu thơ 6/8; tả đoạn làng bắt khoán chưa đến 20 câu và không hề ló
thấy những Vợ Mơ, Xă trưởng với lũ Đồ "điếc", Hương "câm", thầy "mù".
Xét về mặt nghệ thật,
có so chiếu với văn chương và nội dung các bản chân kinh, truyện nôm, so
chiếu với kết cấu cả nội dung và nghệ thuật số vở vẫn được nhà nghề coi là
mẫu mực của vốn chèo truyền thống, có thể đoán định Quan âm tṛ ra đời vào
thế kỷ XVIII, sớm cũng là cuối thế kỷ XVII. Tất nhiên do sự phổ biến sâu
rộng trong quảng chúng, Chèo Quan âm được lớp thế hệ nghệ nhân, cả nho sỹ
sáng tạo bổ sung không dứt, điều mà tất các loại h́nh văn nghệ dân gian đều
trải qua; để nói sang thế kỷ XIX, chèo quan âm dần chuyển thành chèo Quan âm
thị kính với các khâu nghệ thuật vẫn trau chuốt tiếp tục mà trở thành vở
chèo cổ truyền hoàn chỉnh hơn hết.
* Tṛ Kiều:
tṛ kiều, chèo Kiều mới xuât hiện khoảng giữa thé kỷ XIX,hoặc muộn hơn vài
chục năm, thậm chí vào đầu thế kỷ XX, do chúng vẫn đang trên đường ổn định
kết cấu và sáng tạo bổ sung nghệ thuật. Bởi ngay Truyện Kiều của Nguyễn Du
cũng mới thai nghén và ra đời những năm cuối thế kỷ XVIII hoặc đầu thế kỷ
XIX. Càng không thể có chèo Kiều ra đời trước Truyện Kiều.
Từ những bản tṛ Kiều
có hoặc không mang tên soạn giả, đă hoặc chưa đưa ra công diễn, thử lấy ra
mấy nhận xét:
Thứ nhất, hầu
như bản thể hiện suốt cuộc đời nàng Kiều và số bản chỉ nói thời kỳ nàng lấy
Từ hải, đều không sử dụng đoạn "đại đoàn viên" của truyện nôm, mà lại kết vở
bằng cảnh "trẫm ḿnh trên sông Tiền Đường". Phải chăng, đông đảo khán giả và
người nghề cũng cho là cảnh Kim Kiều đoàn tụ lúc kết truyện mang nhiều giả
tạo, không thực tế? Hoặc vào chiếu chèo, tṛ Kiều có phần chịu ảnh hưởng về
cái chết "trọn vẹn" của "con vân bạc dạ hát hay múa lạ" mà điều kiện (tài
năng, thời gian) chưa cho phép họ tạo dựng một h́nh tượng nàng Kiều "đẹp và
hay" hơn vân dại? và quả thật, h́nh ảnh nàng Kiều chưa có thời gian để nghệ
nhân thể hiện thành sống động, gây ấn tượng sâu sắc và mạnh tới nhiều người
xem, như nàng Vân dại.
Thứ hai, kết cấu
Truyện Kiều đầy tính kịch, để lộ rơ từng mảng đời nhân vật chính, cho phép
những người làm chèo dễ dàng lẩy ra thành vở diễn, nói đủ một sự kiện "lớn",
qua các đận vào đề, gặp biến cố, mở ra t́nh huống mới.V́ thế, chèo không qua
lo lắng kể lại chuyện đời của nàng kiều ngành ngọn trong đêm, hoặc trong vài
đêm liên tục, mà phân ra từng "vở nhỏ", song chẳng ai bảo làm thế là không
thoả măn thị hiếu đông đảo khán quan. Như vở vở Kiều du xuân (c̣n có tên
Kiều-Kim Trọng) đă thể hiện mối t́nh nồng nàn trong trắng của đôi lứa, đẹp
đẽ tới mức xem cũng mơ ước, được các hội Xuân làng xă đón mời háo hức..Có lẽ
chư một truyện nôm nào được chèo khai thác sâu và kỹ, để nhân lên những bài
học với các cách đối phó, ứng sử trong cuộc đời trước mắt như Truyện Kiều.
Thứ ba, tiếng cuời
trong các vở chèo Kiều cũng như hầu hết những vở truyền thống khác, chiếm
gần nửa, lắm khi khi hơn, thời gian buổi biểu diễn và ở nhiều cung bực: vui
vẻ thoải mái hư Hề đồng Kim Trọng, Lăo Mốc với thày tṛ Kim Trọng; chê trách
nhẹ nhàng th́ như Hề với Thúc sinh….ở đây, nghệ nhân lợi dụng mọi t́nh huống
cho phép để "pha tṛ", theo cung cách thường gặp trong cấu trúc diễn chèo,
là xen kẽ "lớp" hài, "lớp" bi hoặc trữ t́nh và ngay ở ‘lớp’ bi cũng cố chen
vào đôi tiếng cười. Dường như lan tràn suốt vở là những tiếng cười nhẹ nhơm
đôn hậu, cốt xoá bớt nỗi cực nhục bi phẫn của Thiúy Kiều; ngoại trừ đôi câu
thô thiển tục tĩu khá "tương xứng" với không khí sinh hoạt xuỗng xă chốn lầu
xanh.
Nh́n chung, các vở
chèo Kiều nghiêng nhiều vở loại tṛ nhời, nhờ tính nhân bản và chất hiện
thực đậm đà của tích truyện khái thác, lại do nghệ nhân được đông đảo khách
xem cổ vũ khuyến khích, đă bất chấp sự ra đời muộn màng, mà có số mảng diễn,
vai đóng mang những nét nghệ thuật riêng khó lẫn lộn.
Nói đến mảng miếng
"hay" trong chèo Kiều, nhà nghề đều nhắc những cảnh thề nguyền, sai nha,
khấn Tiên Sư, lầu Ngưng Bích, báo ân trả oán...mỗi cảnh mỗi sắc, thật rơ nét
rơ người, gây nổi trong bà con ngồi xem sự thương cảm ngậm ngùi dai dẳng khó
dứt về số phận nhân vật chính.
Sự h́nh thành những
vở chèo khai thác Truyện Kiều, cũng như sự ít ỏi của số sáng tác nhạc mới, "múa"
mới, kể cả khuôn diễn mới, khả dĩ làm mẫu mực cho nghề Tổ, có thể c̣n v́
nghệ nhân chưa đủ thời gian sáng tác tạo nghệ thuật, để dần hoàn thiện chúng
chăng? V́ lẽ đó mà có thể đặt chèo Kiều vào thời kỳ cuối rốt của quá tŕnh
phát triển chèo sân đ́nh.
2. Mấy nhận xét về
quá tŕnh chuyển hoá và phát triển của chèo sân đ́nh:
Vậy là, chỉ cần căn
cứ vào những vở cổ c̣n lưu giữ trong nhà nghề, đặc biệt số vở được nghệ nhân
lấy ra những mảng miếng, thủ pháp đủ sức làm mẫu cho nghệ thuật truyền thống,
chúng ta đă thể nhận ra quá tŕnh chuyển hoá, phát triển nhiều mặt của chèo
cổ, đúng hơn chèo sân đ́nh.
Trên đường xâm nhập
ngày càng sâu vào mọi mặt sinh hoạt đời thường của bà con thôn xóm, những
người làm chèo đă nhanh chóng kịp thời chuyển địa điểm diễn qua sân đ́nh, từ
ḷng đ́nh hoặc thềm đ́nh quay ra ba phương sáu hướng, lấy đấy làm khán
trường ngoài trời rộng răi phóng khoáng; Cứ thế, dần h́nh thành cả loạt
nguyên tắc kịch thuật linh hoạt độc đáo, mà nhiều nhà chuyên môn gọi là sân
khấu ba mặt.
Quá tŕnh t́m cách
thể hiện các tích mới, nhân vật mới, t́nh huống mới, nghệ nhân đă vay mượn
các loại dân ca, dân vũ tṛ diễn dân gian và "chèo hoá" chúng dần cho tới
khi thành thủ pháp của vốn nghề nhà. Không loại trừ những cái mới không thể
không sáng tạo, ban đầu có thể c̣n vụng về, gồ ghề, sau được người này kẻ
kia uốn nắn sửa sang mà thành hay dần, đẹp dần, với sức diễn tả mạnh dần.
Dường như trong chèo
cổ, cái cười ngày càng chiếm thời gian dài, càng chú ư phản ánh những thói
hư tật xấu của đời thường. Điều đó, làm cho tính xă hội của chèo ngày mỗi
nổi đậm về sau. Nổi bật hơn cả là lớp việc làng chỉ bằng nói
thường, nói lối, nói rao, "ngâm thơ", với đủ thành phần nhân sự của bộ
máy chính quyền cơ sở đại diện cho pháp luật, tập tục, đạo lư, tôn giáo, bị
vạch mặt thật ê chề.
Song nhà nghề trân
trọng ǵn giữ, coi là mẫu mực cho nghề Tổ, c̣n là cả loại h́nh tượng nhân
vật nữ tốt có, chưa hẳn tốt có, chưa hẳn xấu cũng có, đặc biệt là số nhân
vật nữ vượt khỏi ṿng kiềm toả của đạo lư phong kiến, như Thị Màu, đào Huế,
Suư Vân,...
Có điều, nếu Thị Màu
chỉ là nhân vật đối tỷ cốt làm bật rơ sự nhẫn nhục của Thị Kính lần nữa, để
đức độ nàng khả dĩ đủ mức lên toà sen thành Phật Quan Âm; nhân vật đào Huế
tuy chẳng ai nói là "phản diện" nhưng cũng không được nhà Nho "ưa", vẫn chỉ
là chi tiết phụ, mà nếu có lược đi cũng không hại ǵ đến kết cấu và chủ đề
tích chuyện; c̣n Suư Vân, người phụ nữ bất đắc dĩ đành bỏ chồng, lại nằm vào
bản thân (tích) tṛ, hay nói đúng hơn, dễ tới 2/3 thời gian diễn tích Kim
Nham là để thể hiện nàng.
Thị Màu, Đào Huế, Suư
Vân đều được nghệ nhân sáng tạo thành khuôn diễn với nhiều bài hát múa dành
riêng, độc đáo, tới nay vẫn giữ nguyên giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật.
Những tính cách,
chính là đức độ bản sắc nhân vật ấy thường bộc lộ thụ động, tức là họ chỉ
phô bày tâm trạng và cách ứng phó khi sự biến đă xẩy ra, bằng cách diễn xuất
mang nội dung và h́nh thức nhiều ít hấp dẫn đủ sức làm gương cho người xem.
Chỉ số ít mang tính cách vượt khỏi quan điểm phong kiến mới phô bày một cách
chủ động, mà có đúng là cố ư, khi nghệ nhân dùng những làn điệu và khuôn
diễn thật đặc sắc làm rạng rỡ nghệ thuật cổ truyền: tính từ những nhân vật
Thày Đồ, Thày Bói, Phù Thuỷ, Vợ Mơ đến Thị Màu, Đào Huế, Suư Vân.
Đồng thời với sự xuất
hiện lần lượt những cái mới trên, tính xung đột hay thường gọi là tính kịch
trong một số bản tṛ cùng tuỳ người soạn, tuỳ tích, tuỳ phường gánh và khán
giả mà gia tăng đáng kể. Điều này đi theo với việc bộc lộ tính cách nhiều
hay ít chủ động của nhân vật. Như xung đột trực diện và quyết liệt giữa Đào
Huế và Tuần Ty (với đào Nấp) là một bước "mới" so với xung đột cũng trực
diện trước đấy giữa Châu Long và Lưu B́nh, hoặc giữa Vợ Mơ với Xă Trưởng.
Đừng quên, dầu nhà
nghề nh́n nhận rất "đúng", rằng từng vở diễn thường là sự ghim ghép (cho là
có sáng tạo) các mảng diễn sẵn có của vỗn cũ song với ngót một chục vở
truyền thống vẫn được làm mẫu mực cho nghề Tổ, th́ nhận xét đó không mấy
chính xác. Nh́n vào thực tiễn nghệ thuật của những vở này, ngay số lớp diễn
đa dùng (như lớp giáo đầu, lớp lăo ông có con gái lớn đến tuổi...) đă thấy
sự cố gắng vận dụng cho sát yêu cầu thể hiện bản tṛ số lớp thuộc vào thân
tṛ cũng chỉ thấy đôi nét hao hao (như Thị Phương lấy chồng đâu có "giống"
Thị Kính hát múa Duyên phận phải chiều với Thiện Sỹ, càng không "giống" Suư
Vân hát múa vu quy với Kim Nham,..); c̣n những lớp ruột tṛ của tích th́ rơ
ràng khác hẳn về nội dung đă đành, nhất là về hát múa và diễn xuất tạo h́nh,
và dẫu có dùng lại đây đó một vài điệu sắp hay sa lệch hoặc mươi câu nói sử
th́ nhờ diễn suất thể hiện nội dung mới, chúng đă ăn nhập với toàn khuôn
diễn mới. Cứ thử so sánh nghệ thuật của ông Măng với Lăo Mốc, của Thừa Tướng
với Trương Công, của Trương mẫu với Tống mẫu, của Hề theo Trương Viên với Hề
theo Lưu B́nh, Hề theo Kim Trọng v.v... mọi người đều thấy mỗi lớp có nét
riêng khó thể "in lại máy móc" vào bất kỳ vở nào khác. Nói chi những lớp "ruột"
(Chạy loạn, Sống chung, Lên Chùa, Việc làng, Đánh ghen, Vân dại,...)
là những tập đại thành về trí sáng tạo truyền đời của các thế hệ làm nghề,
bao gồm từ người soạn tích, người sắp tṛ đến nghệ nhân...
ở đây cũng thấy rơ
quá tŕnh thu hút ḥa nhập số loại h́nh dân ca, dân vũ, diễn xướng và tṛ
diễn dân gian làm thành bản thân nghệ thuật chèo, mà thực tế diễn xuất của
số vở truyền thống c̣n hằn rơ dấu vết. Cho nên, nói "chèo ra đời từ thời
Đinh, xây dựng trên cơ sở tṛ nhại và hát múa" như một nhà nghiên cứu đă
viết là chưa thỏa đáng. Thực ra, chèo từ loại Giáo phát triển thành
có tích, có nhân vật, từ đấy du nhập, chuyển biến các loại hát bỏ bộ (trong
sinh hoạt hát Xoan, hát Dậm, hát Dô,...), các loại hát nói (trong hát
ả đào, hát văn, hát xẩm,...), kết hợp với số động tác trong múa (hát)
chèo đ̣, múa (hát) cửa đ́nh (các khuôn múa bàn tay, múa lượn ngón,
múa cánh tay), múa mâm đên, múa qnạt, múa cờ,...; với cả những tṛ
nói mặt, tṛ tŕnh nghề vốn rất phổ biến trong những hội làng,
đánh dấu từng mức tŕnh độ sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật của đồng bào
từng vùng.
Cho nên, nói chèo sân
đ́nh h́nh thành ngôn ngữ nghệ thuật ngay khi thành h́nh và phát triển kịch
chủng, là đă lưu ưnhiều đến số lớp tṛ chuyên dùng, xếp cạnh số lớp
tṛ đa dùng, trong đó, âm nhạc giữ vai tṛ rất quan trọng. Nói cách
khác, những ǵ làm người xem phân biệt chèo với các kịch chủng cùng nằm
trong loại h́nh kịch hát dân tộc (Việt) như Tuồng, kể thêm Cải lương, chưa
nói ôpêra, ôpêrét hay kịch nói, những cái lọt vào tai, hiện ra trước mắt
người xem (dù là tâm tư t́nh cảm nhân vật hay không gian thời gian xẩy ra sự
biến) chính là âm nhạc, gồm cả nhạc gơ, nhạc khí và làn điệu qua nghệ thuật
biểu diễn của nhà nghề.
Nh́n phương diện đó,
với quan niệm rộng răi về nhạc như cha ông ngày trước, có thể nói, quá tŕnh
h́nh thành và tiến triển nghệ thuật suốt 5 thế kỷ của chèo sân đ́nh, từ
Trương Viên tṛ, Tống Trân tṛ, cả Lưu B́nh tṛ, rồi Quan Âm tṛ, sang Chu
Măi Thần, Kim Nham, phải chăng cũng là quá tŕnh phát triển của nhạc chèo,
nằm trong đường đi chung của nền nhạc dân tộc (Việt)?
Đương nhiên, do phải
phụ thuộc hoặc chịu ảnh hưởng nhiều ít của những biến thiên văn hóa xă hội
mỗi thời kỳ lịch sử mà từ Lư Trần về trước, nhạc dân gian và nhạc cung đ́nh,
ḥa hợp gần như là một; sang đời Hậu Lê có lúc nhạc cung đ́nh hướng ngoại cố
giữ vị trí chủ lưu, song không bao lâu cũng chịu bất lực để "tục nhạc" (trong
đó có nhạc chèo) bùng lên, ùa tràn vào các lễ nghi triều miếu, bất chấp mấy
lần vua Lê chúa Trịnh ra sắc chỉ cấm đoán ngăn chặn, như từng chép ở Đại
Việt sử lư, Vũ trung tuỳ bút. Tới thế kỷ XIX, nhà Nguyễn có lúc muốn thâu
tóm tất cả những ǵ thuộc lễ nhạc về một mối, lập hẳn một Thự, rồi một ban
Hiệu Thư chuyên lo mà cũng chỉ cản trở chuyện đó phần nào. Bởi chèo sân đ́nh
nhờ bám chắc vào đời sống đông đảo bà con và các Hội làng, nên dù ở hoàn
cảnh nào cũng được nhân dân bù tŕ khích lệ mà tồn tại và lớn dần đến ngày
nay.
Con đường gần 5 thế
kỷ từ Chèo Thuyền bản đến chèo Kiều, hoặc có thể nói, từ tṛ nhà Phật
(có thể gọi là chèo sân chùa?)chuyển sang chèo sân đ́nh qua biết bao biến
thiên văn hóa xă hội, cả chính trị, đă để lại cho đời cả một kho tàng nghệ
thuật sân khấu dân tộc quư giá, đ̣i các thế hệ sau quan tâm bảo tồn, kế thừa,
phát huy và phát triển thích đáng.
Quả thật, phần lớn vở
chèo (cổ) đề cao rất mực những thư sinh lư tưởng (dùi mài kinh sử, thi đỗ
làm quan) và những thục nữ mẫu mực, lên án những kẻ bất nhân thất đức, lấy
tam cương ngũ thường, tam ṭng tứ đức làm thước đo mỗi phẩm cách nhân vật,
làm lẽ sống cần vương tới cho mọi người.
Cũng chính từ cuộc
sống khổ cực phải chịu hàng ngày mà nhân dân đă thúc đẩy hỗ trợ những người
có năng khiếu trong họ sáng tạo ra những diễn xướng, tṛ diễn có lời hay
không có lời có hát múa hay không có hát múa, hoặc chỉ có nhạc gơ với diễn
xuất. Tức là chúng hết sức đa dạng, phong phú, chuyển hóa theo những biến
thiên văn hóa xă hội, cả chính trị, để từng bước h́nh thành nghệ thnật chèo
sân đ́nh. Quá tŕnh chuyển hóa sáng tạo liên tục này là tập đại thành
trí tuệ và công sức của lớp lớp trí thức yêu mến thiết tha nghệ thuật dân
tộc, của các thế hệ nghệ nhân giàu tính ngẫu hứng ứng tác ứng diễn truyền
đời, không ngừng bổ sung ổn định vốn cũ trau tria kỹ năng tài nghề mà tạo
dựng những khuôn diễn cho các loại vai trong các tiết mục, làm cho nghệ
thuật chèo ngày thêm giàu sức thể hiện, giàu sức gợi cảm và truyền cảm, gia
tăng sức hấp dẫn, đồng thời, càng đặm đặc tính dân tộc.
Mặt khác xem xét từ
bản tṛ đến diễn xuất, cả từng chi tiết thuộc phần ứng tác ứng diễn của nghệ
nhân, đều thấy bộc lộ vai tṛ cốt cán của người soạn tích, những kẻ sĩ. Th́
đấy, ngôn từ dùng trong các bản tṛ dành cho hầu hết các loại vai, thấy chữ
Hán chiếm tỷ lệ không nhỏ, dễ tới 1/3. Không kể vô số bài thơ ngâm thuần Hán,
c̣n không ít đoạn lời của đủ các nhân vật lăo mụ, kép, đào, hề gặp
luôn những đoạn Hán Nôm chen lẫn, lắm khi một câu mà cũng thấy "bán nôm bán
tự", trong khi hầu hết nghệ nhân chèo đều "mù chữ". Nh́n vào quá tŕnh
chuyển hóa phát triển chèo cổ, thấy dường như mỗi bước vươn lên, mỗi xu
hướng nghệ thuật ở từng giai đoạn, từng tiết mục, đều lộ ra bàn tay kẻ soạn
bản tṛ. Nghệ nhân đóng vai, trong phạm vi được bác Thơ, ông Trùm giao, chỉ
làm phong phú sống động những tích tṛ, những vai đóng đă do người viết
hoạch định các sự biến đủ làm bộc lộ phẩm chất đức độ nhân vật từ trước.
Sự h́nh thành khuôn
diễn cho từng loại nhân vật hay cho từng nhân vật cụ thể là cả một công
tŕnh nghệ thuật mang tính tập thể cao độ, trong đó, mỗi người mỗi góp vào,
phần nhiều từ ứng diễn ứng tác truyền đời trên cơ sở bản tṛ. V́ thế h́nh
tượng vai đóng đă hầu thành khuôn diễn chung trên đường nét cơ bản đ̣i kẻ đi
sau phải cố gắng tuân thủ, nhất thể đối với số vai hay, vở diễn hay, đă được
giới nghề coi là vốn cũ truyền thống. Sự sáng tạo (nếu có) của những kẻ đi
sau có chăng là số nét chi tiết khác lạ hơn trước, do nghệ nhân dùng ngay
bản thân đóng vai, với các thủ pháp nghệ thuật nằm trong ngôn ngữ kịch chủng.
Việc "sáng tạo" đó c̣n tùy thuộc vào tài năng mỗi người nghề, vào thích thú
thưởng ngoạn của khán giả từng nơi, vào quan điểm nghệ thuật của mỗi bác Thơ
hay ông Trùm, cốt sao vai đóng vừa khác lạ (so với trước), vừa hay (xem
sướng mắt ngọt tai). Chứ diễn xuất có ngẫu hứng mấy mà hát không hay, số nét
"mới" đó không tô đậm thêm h́nh ảnh thậm chí làm loăng, làm "lạc" bản chất
nhân vật truyền thống, th́ không thể nói là sáng tạo.
Việc chèo cổ mỗi khi
dựng vở khác tích vẫn cố gắng dùng lại vốn cũ (câu văn, làn điệu, diễn xuất)
c̣n khả năng thể hiện nội dung mới đưa vào; hoặc "bẻ làn nắn điệu" (tức là
chuyển hóa một bước) để vốn "cũ" phù hợp hơn với nội dung mới; đồng thời
sáng tạo diễn xuất mới khi gặp nhân vật mới, t́nh huống kịch mới mà vốn cũ
chịu bất lực; tất cả phải trên cơ sở yêu cầu của bản tṛ. Đấy chính là cung
cách kế thừa và phát triển nghệ thuật của chèo sân đ́nh.
Nh́n vào phương diện
văn sử cũng thấy vậy. Cho dầu đều do các nhà nho biên soạn, con đường đi từ
Việt diện u linh.... ghi lại nhưng chuyện thần thông biến hóa của không ít
quỷ ma tiên thánh, với thái độ kính tín thờ phụng, chi ít cũng tỏ ra rất
trân trọng; th́ sang Lĩnh Nam chích quái soạn đi soạn lại vẫn loại
chuyện đó, song hành trạng của mỗi Vị, được ghi lại trên nét chính, qua số
sự biến đủ vẽ lên, đúng hơn, phác họa cuộc đời một siêu nhân, tuy đă kể lướt
hoặc lược bỏ số chi tiết bộn bề của hiện thực, song không hề thấy có sự xúc
phạm hoặc thái độ hay cảm giác chê bai. Để đến những truyện "ra đời" sau đấy
rơ là hiện thực ngoài đời tràn vào ngày một nhiều th́ văn nghệ dân gian và
chèo phải phát huy cái hài ngày mỗi mạnh, để phản ánh, thực ra có phần đối
phó với t́nh h́nh, ngơ hầu bắt kịp những đổi thay theo đà tiến chung của xă
hội.
Cũng từ quá tŕnh
chuyển hoá mọi mặt của chèo sân chùa, sân đền sang chèo sân đ́nh ḍng dă mấy
thế kỷ mà lộ dần số đặc điểm chi phối các khâu thuộc nội dung và h́nh thức
của chèo cổ. Có điều do hạn chế lịch sử, số đặc điểm này chưa được đúc kết
thành hệ thống (hoặc đúc kết rồi nhưng thất lạc chưa t́m thấy lại), nên
chúng thường nằm ẩn đây đó trong các khâu nghệ thuật, đ̣i người nay phải đầu
tư trí tuệ và công sức t́m hiểu, bàn bạc, thậm chí tranh luận mới mong đi
tới những kết quả đủ chứng minh con đường phát triển của chèo sân đ́nh. |
Chèo văn minh và
chèo cải lương
Dựa
vào một số sử liệu và cứ liệu ít ỏi ghi trong sách báo của các bậc đi trước,
một số di vật quư hiếm c̣n tồn giữ và lời kể của các nghệ nhân từng chứng
kiến hoặc trực tiếp hoạt động chèo qua các giai đoạn của thời kỳ, vào số cáo
bạch, quảng cáo, chụp ảnh và bài viết (rất ít) trên báo chí đương thời hiện
lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Trung ương, chúng tôi muốn nêu lên bộ mặt vốn
có của sân khấu chèo suốt thời gian đất nước sa vào nanh vuốt đế quốc Pháp,
về tổ chức và hoạt động nghề nghiệp, cũng những bước chuyển hoá thích nghi
nghệ thuật, cả số hạn chế hoặc thất bại không sao tránh khỏi của cha ông,
trên đường đưa chèo vào thành phố "phục vụ" thị dân mấy thập niên nửa đầu
thế kỷ XX.
1. Từ chiếu diễn
sân đ́nh chuyển dần vào sân khâu hộp: Sán Nhiên đài và việc xuất hiện chèo
văn minh
Theo một số nghệ nhân
cao tuổi, trước đây Hà Nội không có phường chèo bản địa. Những dịp đ́nh đám
hội hè, giỗ chạp khao vọng, xóm phố lại cử người ra ngoại thành mời phường
chèo quanh đấy về hát giúp dăm bảy bữa với cung cách biểu diễn và thưởng
thức nghệ thuật không khác mấy chèo sân đ́nh.
Mấy năm vừa chiếm
thành Hà Nội, Pháp sai Đội Nghỉ chiêu mộ nghệ nhân lập phường, hát mỗi tuần
vài ngày trên băi chợ Hôm, cho lính nguỵ xem để "củng cố tinh thần". Sợ Cần
vương đánh lén, chúng tổ chức hát từ 9, 10 giờ sáng kéo tới chiều tối. Tại
đây, nghệ nhân chèo đă đặt bàn thờ Tổ ghé vào nội tẩm Giáo phường quán của
phường nhà Tṛ (Ca Trù) chuyên hát cho hội đ́nh làng Hoà Mă hàng năm, xây
sát liền bên cạnh.
Rạp được thị dân bấy
giờ hiểu là điểm biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật có mái che, có tường
vây quanh, do tài chủ bỏ vốn xây dựng kinh doanh kiếm lời. Thực ra, đấy chỉ
là gian nhà khá rộng, đủ chứa bảy tám chục khán giả, ánh sáng là 2 chiếc đèn
đĩa (hoặc đèn 3 dây), sàn diễn đắp đất, be gạnh, cao hơn nền nhà dăm sáu tấc
ta, trải chiếu, người xem vây quanh. Có vài hàng ghế hay chơng tre giành cho
người mua vé 5, 7 xu, 1 hào, ngồi đất 2, 3 xu, đứng 1 xu, xu rưỡi.
Mặc dầu địa điểm có
phần chật chội so với sân đ́nh ngoài trời, các phường vẫn diễn những tích
Trương Viên, Quan Âm, Lưu B́nh, Tống Trân Cúc Hoa, Lư Công, Trần Tử Lệ, Từ
Thức, Phạm Công... qua đó, nổi lên số nghệ nhân tài năng người xem nay c̣n
nhớ. Như phường chèo ông Trùm Dương (Hưng Yên) năm nào cũng vào diễn luân
lưu mấy địa điểm nội thành hàng tháng, có hề Quưnh nổi bật trong vai Hai Móm
gây được những tràng cười ư nhị hóm hỉnh; có kép Hỷ, Nữ Lă (nam đóng giả) ra
vai nào cũng có góc cạnh khó quên. Như phường chèo ông Tổng Bốn (Sơn Tây) có
đào Xuyến nổi tiếng về những vai đào thương (Thị Phương ở Trương Viên) và
đào lẳng (Thị Mầu ở Quan Âm) được không ít khách xem mến mộ nồng nhiệt; có
nữ Hỗ là nam đóng Châu Long duyên dáng ôn như rất mực...
Khoảng 1905, một tư
thương ở Hàng Bạc, thấy mấy chủ Năm Chăn, Thông Sáng cho thuê rạp "phát tài",
thấy các phường chèo vào diễn ở Hà Nội "ăn khách", liền xuất vốn mua nhà,
sửa thành rạp, thuê mướn nghệ nhân lập gánh kinh doanh, gọi là Gánh chèo ông
cả Vỵ. Gánh này diễn mỗi tuần ba tối (thứ tư, thứ bảy, chủ nhật); các tối
khác cho thuê diễn tuồng hoặc hội họp, cưới hỏi.
Đây là gánh chèo
chuyên nghiệp đầu tiên ở Hà Nội, do tài chủ ra tiền và điều khiển, tập làm
ăn theo lối tư bản chủ nghĩa. V́ chủ gánh không biết nghề, nên việc t́m tích,
ghép mảng, bổ vai được giao cho lăo Bất, một nghệ nhân tháo vát, chuyên đóng
lăo và hề.
Suốt mấy năm, cả nội
thành chạy dọc bờ Hồ Gươm sang hàng Bông, Cửu Đông, tuốt tới Nghi Tàm, Đại
Yên ra sát sông Cái, lấy chợ Đồng Xuân, chợ Bắc Qua làm trung tâm, phía Nam
tận Bạch Mai, không ít đồng bào đă xem và nhắc đến những khuôn h́nh điêu
luyện về ông Măng hồn hậu vui tính, Thừa Tướng đĩnh đạc b́nh dân của lăo Bất;
về anh Trương Viên hiếu dễ thuỷ chung, chàng Từ Thức hào hoa phong nhă của
kép Hỷ,... Nhất là những Thị Màu lẳng lơ, Suư Vân "anh hoa phát tiết" làm
điên đảo bao khán giả của đào Xuyến; hoặc cô đào Huế "già tay dễ đă mấy ai"
của Nữ Lă thật sống động, hay nàng Châu Long duyên dáng mà hóm hỉnh của Nữ
Hỗ đều được khách xem trầm trồ...
Năm 1908, mấy nhân sỹ
hợp tác với số nhà buôn mua đất ở ngơ Sầm Công, xây Đồng lạc đài. Rạp này
chứa hơn trăm khán giả, có sân khấu mô phỏng theo cách làm ở trong Kinh (Huế)
và qua thực tiễn làm nghề của mấy rạp Năm Chăn, Thông Sáng, nên mang nhiều
dáng dấp loại sân khấu hộp.
Sân khấu Đồng Lạc
được đông đảo khách xem tán thưởng thời gian dài, do Ban Hát có nhiều "canh
tân": lời tṛ, câu hát, khuôn diễn có trau tria cô gọn nên chừng mực và ư
nhị hơn, trang phục đồ nghề đă mới lại đẹp và màu sắc hơn, tài năng người
nghề được khuyến khích phát huy... Quan trọng, là bên cạnh số vở diễn nhiều
ở Hà Nội, nay có thêm số tích "ruột" của mấy phường tỉnh ngoài, như Phạm Tải
Ngọc Hoa, Hoàng Trừu; chuyển số tích của Tuồng sang, như Tứ Linh, Hán Sở
nhất là khai thác truyện cổ dân gian để viết tích mới, như nàng Tiên ốc,
Chàng Sọ Dừa, Đức bà Chúa Ba,...
Đồng lạc là rạp hát
đầu tiên thuần diễn chèo ở Hà Nội, cũng là rạp hát đầu tiên đưa chèo vào sân
khấu hộp một cách "chính quy" ở Hà Nội. Tất nhiên, trước đấy, nhiều phường
đă làm quen với việc diễn trong nhà ở các rạp hàng Quạt, hàng Gà, và thử
thách mấy năm ḍng ở rạp hàng Bạc. Song sử dụng thuần thục và chững chạc dần,
đúng là sân khấu hộp với "bức tường thứ tư", th́ phải kể sân khấu Đồng lạc.
ở đây, trống chầu
ngày càng bớt ư nghĩa và vai tṛ cầm trịch buổi diễn (thúc đẩy uốn nắn diễn
xuất, khen phạt nghệ nhân, hướng dẫn khán giả) v́ thiếu người biết thưởng
thức đứng ra đảm nhiệm. Yêu nghề như ông Khoá Căn cũng chỉ đủ sức duy tŕ
việc đó dăm bẩy tháng, sau v́ c̣n bận nhiều việc khác, đành bỏ lửng. Những
việc khen thưởng nghệ nhân mỗi khi xem được ngón hay, th́ khán giả vẫn giữ
tuy có khảng tảng hơn. Cũng vậy, dù đồng bào thuộc nghề, thuộc cả tính nết
và biết rơ gia cảnh từng nghệ nhân, đôi khi có khán giả đùm bọc chăm sóc họ
như người thân, song sự giao lưu mật thiết giữa người xem và người diễn th́
không c̣n như thời kỳ chèo sân đ́nh. Nhiều khán giả vui vẻ chấp nhận thái độ
thưởng thức thụ động khi xem diễn. Và nghệ nhân đóng vai chỉ c̣n trông chờ
người nhắc vở và tự ḿnh t́m bắt trúng mạch khán giả mà có diễn xuất tương
hợp. Đồng lạc đông khách khoảng dăm bảy năm, rồi lại rơi vào t́nh trạng
giống bên hàng Bạc là thiếu tích mới, cho dẫu đă tích cực chuyển từ tích
Tuồng và đồ lại chuyện cổ. Rơ ràng, khi Ban Hát diễn ở một địa điểm cố định,
với số nhiều khán giả thị dân có điều kiện mua vé xem thường xuyên, th́ vấn
đề tích mới là chuyện sống c̣n, điều mà các phường gánh lưu diễn hàng năm
xuân thu nhị kỳ chưa thấy cấp thiết.
Về địa điểm diễn chèo
ở thành thị th́ thời gian này, các nghệ nhân c̣n nhắc đến rạp Tám gian, rạp
Nhà Ḅ ở Hải Pḥng, rạp hàng Thao, rạp hàng Rượu ở Nam Định, rạp Tiền An ở
Bắc Ninh,... Mấy rạp này thường diễn khi th́ chèo, khi th́ Tuồng, tuỳ các
phường đến thuê, mà chưa tổ chức được Đội hát, Ban hát chuyên như gánh chèo
rạp hàng Bạc và Ban hát chèo rạp Đồng lạc ở Hà Nội.
Ban hát Đồng lạc nhờ
Khoá Căn nỗ lực chèo lái, nhờ dàn nghệ nhân diễn xuất tốt, với những Hề
Quưnh, lăo Bất, mụ Hỗ... đêm đêm đua nhau phô tài cùng với lớp đàn em ham mê
tập rèn. Tuy vậy, Đồng lạc chỉ đông khách khoảng 7 năm rồi cũng rơi vào t́nh
trạng thiếu tích mới, do khán giả thị dân có điều kiện mua vé xem nhiều, đă
quen thuộc và biết rơ từng ngón nghề của mỗi nghệ nhân, không chấp nhận
những kiểu lặp lại dễ dăi, nhất thể ở những vỡ cũ, bất chấp áo quần vai sắm
may mới. Cuối năm 1913, một số kêu gọi hùn vốn lập Hội Sán Nhiên với mục
đích "chấn hưng nền hư kịch nước nhà cho tiến kịp văn minh thế giới".
Hội sán nhiên thành
lập với gần 100 cổ phần, bầu Ban Quản trị, có các ông Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,
nhà giáo vừa là nhà sưu tầm tục ngữ phong dao có tiếng, các ông Nguyễn Quang
Oánh, Đỗ Thận,... Hội chiêu mộ người nghề, lập Ban Hát, được phần lớn anh
chị em trong gánh chèo Hàng Bạc và một số ở ban hát Đồng Lạc hưởng ứng.
Ban đầu, chèo Sán
Nhiên hát ở rạp hàng Buồm thuê của một chủ người Hoa: xây gạch lợp lá, chứa
hơn 100 khán giả, sàn diễn bố trí tương tự như bên Đồng Lạc, với dàn nhạc ba
bốn người ngồi mé dưới 2 ngọn đèn 3 dây, thắp dầu hoả treo đàng trước, chiếu
sáng cả rạp suốt đêm diễn. Trống cái đặt bên dàn nhạc đánh mở đầu ba hồi
theo lệ cổ và 1 hồi kết thúc, thi thoảng đánh giữ nhịp và tham gia gây không
khí ồn ào khi tṛ diễn cần. Trống này chỉ làm nhiệm vụ cầm trịch hướng dẫn
đêm hát, khen thưởng nhà nghề mỗi tối thứ bảy hoặc những buổi hát do khán
giả mộ cổ, bỏ tiền xin ngồi cầm chầu...
Hội Sán Nhiên vừa
tiến hành mọi việc thuận lợi th́ bùng nổ Thế chiến thứ nhất. Thực dân Pháp
dấy lên khắp thành thị nông thôn, tổ chức lạc quyên, thúc ép nhân dân ganh
đua "rồng Nam phun bạc" quơ bắt thanh niên đi lính "bảo vệ mẫu quốc".
Nhiều nhà yêu nước
nương theo âm mưu thực dân vận động tổ chức đồng bào, tuỳ sức tuỳ hoàn cảnh
góp phần duy tân cải cách. Nhiều đoạn lời, ư nghĩa hoặc kín đáo chỉ trích
chế độ đương thời, hoặc khéo léo gợi ḷng nhớ nước thương ṇi ra đời. Không
thấy vở diễn sân khấu nào a dua theo thực dân lăn ḿnh vào "phong trào", để
nỗi một nhà báo thực dân phải thốt lên": "Nếu ta nhận rằng, việc làm của
chúng ta hơn 60 năm qua, đă tác động đến tinh thần, phong tục, tập quán của
dân bảo hộ, in dấu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, th́ ta
sẽ ngạc nhiên, khi thấy riêng nghệ thuật sân khấu ở đây thót khỏi ảnh hưởng
đó..."
Cùng lúc, một nhóm
quan lại, viên chức, nhà buôn, đứng ra gọi cổ phần lập Công ty Quảng Lạc
cũng nêu chiêu bài "chấn hưng hư kịch nước nhà", cử người triều đ́nh với chủ
người Hoa, mua đứt rạp hàng Buồm, buộc Ban chèo Sán Nhiên rời sang điểm diễn
khác. Hội Sán Nhiên phải diễn tạm ở Nhạc Hội Bờ Hồ, t́m mua đất xây cao rạp
riêng. Hơn một năm, ban hát Sán Nhiên mỗi tuần chỉ hát 3 ngày, cốt kiếm
lương ăn cho nhà nghề, c̣n nhóm phụ trách vẫn ghi chép chỉnh lư ản tṛ,
hướng dẫn nghệ nhân học thuộc lời, trau dồi kỹ năng...
2. Nguyễn Đ́nh
Nghị, chủ suư của phong trào chèo cải lương.
Qua
quảng cáo đăng báo của Cải lương hư viện, Văn Minh hư viện, thấy nêu Nguyễn
Đ́nh Nghị soạn 27 tiết mục, trong đó, 21 vở chua là trận cười, 6 vở đă in
bán th́ 2 vở đi vào đề tôn giáo. Phần lớn số này khai thác chất liệu cuộc
sống đương thời; số khác đi vào truyện cổ truyện Tàu. Khoảng năm 1962,
Nguyễn Đ́nh Hy trao cho ban Nghiên cứu Chèo 33 kịch bản nói là của Nguyễn
Định Nghị, 6 vở thêm vào đều phỏng theo truyện cổ hoặc viết lại tích cũ.
Song bằng vào cung
cách làm nghề với số nét riêng (cách đặt tiêu đề, cách cổ động quảng cáo,...)
c̣n có thể đoán định Nguyễn Định Nghị, ngoài 27 vở trên, c̣n soạn hơn 30 vở
nữa, số 33 do Nguyễn Đ́nh Hy đưa ra, có thể là số tiết mục với số nét riêng
(cách đặt tiêu đề, cách cổ động quảng cáo,...) c̣n thể đoán định Nguyễn Định
Nghị, ngoài 27 vở trên, c̣n soạn hơn 30 vở nữa, hầu hết phỏng theo truyện cổ,
dă sử, thần tích, thánh tích. Con số 33 do Nguyễn Đ́nh Hy đưa ra, có thể là
số tiết mục thường diễn của các gánh Nghị lập ban, Tự lập ban, rồi Như ư
ban, đă viết thành kịch bản hẳn hoi và từng thử thách nhiều, nên gia đ́nh
tốn giữ. Khoảng 60 vở trên, xét nhiều mặt, khả dĩ phản ánh khá đúng những
đóng góp cũng như hạn chế không riêng một Nguyễn Đ́nh Nghị mà cả phong trào
chèo cải lương những năm 20, 30...
Qua những kịch bản ấy,
xét quan điểm sáng tác, thấy Nguyễn Đ́nh Nghị chịu ảnh hưởng sâu đậm của một
số nhà Nho nhiều ít có tinh thần dân tộc, mà trực tiếp là mấy vị trong Ban
Quản trị Hội Sán Nhiên, khi luôn nhắc mục tiêu "chấn hưng nền hư kịch nước
nhà", lên án, chỉ trích những con người, những hiện tượng trái "luân thường",
trên cơ sở bảo vệ duy tŕ đạo lư cũ khi chủ trương loại bỏ dần các tích mượn
truyện Tàu và thay bằng những tích mới soạn từ kho tàng truyện cổ của cha
ông.
Nguyễn Đ́nh Nghị một
lần nói: "Các vở của tôi soạn đều chú trọng vào việc răn đời, lấy lời ca
giọng hát và tiếng cười tao nhă duy tŕ phong hoá mà cảnh tỉnh thế đạo nhân
tâm". Ông c̣n viết trong Lời tựa vở Một Trận Cười, rằng: "Nghề diễn kịch
theo thời cũng như cách bán hàng chiều khách, nên chỉ cốt đem nhời giản dị
cho dễ lọt tai, để làm thú vui chung, trong lúc thừa nhàn giải trí... Soạn
giả có tuân theo ư kiến của quư hội Sán Nhiên đài và soạn ra tích hài kịch
Một trận cười này, cũng nhân điệu cũ mà tả thành lời mới, gọi là theo tài
học nói..".
Soạn phẩm của ông,
chẳng kể khai thác truyện cổ hay đề tài trước mắt, đều trên cơ sở đạo lư
phong kiến, hô hào mọi người góp sức canh tân đất nước, cải lương mọi mặt
nhằm làm cho dân giàu nước mạnh, kêu gọi bài trừ những thú vui tập tục hủ
lậu, lên án chỉ trích những hiện tượng luân thường nghiêng ngả, đồng thời ca
ngợi những tấm gương hiếu nghĩa, thông qua quan hệ cha mẹ chú bác với con
cháu, vợ chồng, bè bàn, tớ thày, xoay quanh những chuyện nhân t́nh thế thái,
chơi bời đàn đúm... trên cái trục bĩ thái, đ̣i con người ăn ở "phải lẽ" theo
định mệnh giành sẵn, và nhân vật cột trụ của mỗi vợ thường nằm trong tầng
lớp trung lưu, như Viên ngoại, Phú thương, Phú ông, bà Tham, Nhà giàu...
Phần lớn tiết mục
mang đề tài cổ vẫn tôn trọng chủ đề chuyện cũ, chỉ thâu tóm số sự biến đủ
làm rơ số phận nhân vật chính, phụ mà đ̣i nghệ nhân đóng vai phả từ vốn nghề
tích luỹ của ban thân, bồi đắp tạo tác sao cho h́nh ảnh đủ làm khách xem vừa
ḷng.
ở số vở đúng là chèo
cải lương, Nguyễn Đ́nh Nghị đă vẽ lên những Thông phán, Hào phú rượu chè bài
bạc, hút sách, chơi bời trước sau sẽ chịu hậu quả xấu xa thảm bại, rồi nhờ
mẹ hiền, vợ thảo, con khôn mà nhận ra sai trái, trở về với gia đ́nh.
Về kỹ thuật viết vở,
Nguyễn Đ́nh Nghị theo người đi trước, phần nhiều nương theo cách viết của
sân khấu kể chuyện nhưng chia thành từng Hồi (diễn 1 đêm), từng Đoạn (mỗi
hồi 2 đoạn), từng Cảnh (mỗi đoạn từ 2 đến 3 cảnh), mỗi Cảnh là 1 màn nói
trọn 1 hoặc 2, 3 sự biến. Không thấy ông dùng Lớp dầu hiểu theo nghĩa của
cha ông (gần như 1 màn) hoặc theo kịch Thái Tây (thêm hay bớt 1 nhân vật).
Ông thay giáo đầu (cho là rườm) bằng một bài tóm hoặc sự tích "để xem cho
hiểu" đọc trước khi vào diễn; những lời xưng danh th́ đặt lẫn vào các câu
hỏi của vai.
Nếu tính số vai có
mặt trong các vở, th́ Ông để lại đến mấy trăm nhân vật. Song xét số vai có
cá tính gây ấn tượng trong người xem th́ không nhiều. Khán giả đương thời
thường ghép tên người đóng giỏi vào tên nhân vật. Như một thời, nhắc đến sân
khấu Sán Nhiên, tiếp đó Cải lương hư viện, khán giả rất khen kép Phẩm "vai
nào ra vai ấy", "làm hề cũng không nhường ai"; kép Thịnh với các vai Tuần Ty,
Lưu B́nh, ông Măng, Lăo Mốc, Công tử Bột; đào Tửu với các vai Châu Long,Vân
Dại, Mẫu Thoải; đào Tam với các vai Tú Bà, Thị Màu, Thảo Mai lừng tiếng suốt
mấy năm...
Trong lúc sân khấu
chèo gặp khó khăn gay gắt trên đường chuyển hoá nghệ thuật từ xă hội nông
nghiệp bước vào xă hội thực dân đang học đ̣i tư sản hoá, lại bị chiếu bóng,
kịch nói, rồi Cải Lương cạnh tranh ráo riết, Nguyễn Đ́nh Nghị đă chịu khó
học tập áp dụng những cái "mới" cái "lạ", mạnh dạn cái tiến từng khâu thủ
pháp, lan dần sang đổi khác nội dung, cải tiến cách khai thác đề tài, thay
đổi thể tài,... làm cho chèo thêm sức sống, trụ nổi trên sân khấu Hà Nội
ngót một chục năm.
Về kịch bản, ông tiếp
nối việc làm đúng đắn của Sán Nhiên đài (sai nhuận ổn định lời văn các bản
tṛ cổ hoặc soạn mới theo đề tài cổ), cho diễn xen kẽ những vở chèo văn minh
vốn được khán xem ưa chuộng, cả số "tích mới soạn" dàn dựng theo cách làm cố
hữu, đồng thời với số vở chèo cải lương.
Với chèo cải lương,
Ông khai thác thêm nhiều đề tài, mở rộng phạm vi phản ánh các hiện tượng
tiêu cực ngoài xă hội, gắn cháp các mảng hài lẻ xoay quanh mỗi truyện đời,
làm thành từng trận cười dài, hy vọng đưa chèo hoà nhập vào cuộc sống trước
mắt. Điều mà chèo cổ bộ lộ chủ yếu qua ứng diễn ứng tác của nghệ nhân, th́
tới chèo cải lương trở thành "máu thịt" của vở diễn.
Về âm nhạc, Ông bổ
sung mấy cây nguyệt, thập lục, bầu, tam, tiêu, cùng với số cũ nhị, sáo, mơ,
thanh la, trống cơm,... làm cho dàn nhạc của Ban hát rôm rả hơn. Về làn điệu,
th́ song song với việc dùng lại tối đa vốn cũ trong số tiết mục cổ, cả số vở
mới soạn khai thác đề tài cổ, chú ư đăng trước lên cáo bạch, viết phấn lên
bảng con, rồi ch́a cho khán giả biết tên điệu mà vai đóng đang hát. Ông cho
du nhập một cách phóng tay đủ loại dân ca các vùng, bài bản nhiều loại, kể
cả bài hát Tây, hát Tàu.
Về biểu diễn, Ông đ̣i
nghệ nhân phải diễn thuộc theo lời viết sẵn, làm động tác dung dị như ngoài
đời, không dùng múa. Nhưng Ông lại tán thành những ai "nống lên" làm cười,
cốt người xem hể hả là được. Bản thân, ông cũng phóng bút những đoạn làm nẩy
tiếng cười, nhiều khi gây xộc xệch cả kết cấu của tiết mục, làm mờ nhoè
nhiều ư tốt nép dấu ở cảnh này đoạn nọ...
Có điều, bất chấp ư
tốt "chấn hưng hư kịch nước nhà", Ông c̣n bộc lộ nhiều hạn chế trong soạn
phẩm của ḿnh, về quan điểm cũng như đổi mới nghệ thuật. Dường như tất cả
các nhân vật của ông, điều bị thuyết định mệnh chi phối sâu đậm, xoay quanh
trục bĩ (cực) thái (lai) và những vai làm cười th́ phần lớn bị tính dục "hành
hạ" đưa đẩy. Trong đó, những kẻ "xấu" đắm ch́m trong vũng bùn truỵ lạc, rồi
nhờ người thân giúp đỡ mà nhận ra sai lầm, hối hận, như Thừa Kham, Trọng Hỷ,...
nhưng lại nó "do Tạo hoá an bài"; những người "tốt" từng đau khổ lao đao v́
chồng con lầm lạc, nhờ cố gắng mà lấy lại hạnh phúc, như Xuân Nương, Thục
Khanh,... cũng thở dài đổ cho "con Tạo trêu ngươi"... C̣n những nhân vật nam
giới, cả "quân tử" lẫn "tiểu nhân", hễ gặp gái trẻ là cặp mắt sáng lên, lắm
kẻ "máu dê" nổi dậy đến trơ trẽn dầy dạn...
Ông c̣n sai lầm khi
"bắt trước" kịch Thái Tây, đưa chèo vào "tả chân", loại bỏ múa du nhập sống
sít dân ca và bài hát bên ngoài, vô t́nh đẩy chèo sáp gần sân khấu Cải lương
đang lấn lướt. Ông muốn đưa phần hài hước vào "chính bản" và chỉ quan tâm
thoả măn thị hiếu nhất thời của khán giả, nên nhiều trận cười vốn đă mang
tích truyện lủng củng, bố cục lỏng lẻo, lại bị ch́m ngập vào cái biến cười
bông phèng, thô thiển, như Một Trận cười, Tam đại dở hơi, Cái nhầm to,... kể
cả với số tích khai thác loại đề tài "đứng đắn", như mấy vở viết về Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Quỳnh...
Thế nên, cho dẫu khá
nhiều soạn phẩm của Nguyễn Đ́nh Nghị đ̣i bảo vệ duy tŕ đạo lư phong kiến,
có lúc tưởng ông rơi vào bảo thủ nhưng xét từ thực tiễn các trận cười, lại
thấy ông có những nhận thức và quan điểm thuộc phạm trù hệ tư tưởng tư sản
ngày càng rơ rệt. Ông đă từ chèo văn minh, cố gắng tạo dựng một thứ kịch
(hài) sử dụng hát chèo và nhiều loại hát khác khá phóng túng, và vẫn đang
trên đường lầm ṃ thử thách.
3. Mấy nhận xét về
nghệ thuật chèo thời thuộc Pháp
Một, nh́n tổng quát
các hoạt động chèo của các phường, gánh, ban hát thời thuộc pháp, thấy hầu
như khắp vùng trung châu và đồng bằng miền Bắc, mỗi tỉnh ít cũng có vài ba
có tỉnh dăm bẩy phường chèo (có nơi gọi là phường tṛ), hoạt động theo mùa
vụ cấy cầy với cung cách làm ăn và tŕnh diễn chẳng mấy khác cung cách tổ
chưcs và làm ăn của các phường từ thế kỷ XIX trở về trước.
Hai, chèo văn minh là
bước chuyển hoá quá độ từ phương thức làm ăn phường hội (diễn theo mùa vụ
hội hè, vừa cầy cấy vừa hành nghề, diễn vừa thuộc vừa cương, sân khấu ngoài
trờ 3 mặt, ăn chia theo mức độ nghề chênh lệch thấp...) sang cung cách làm
ăn bước đầu tư bản chủ nghĩa (nghệ nhân làm cho chủ, ăn lương, diễn quanh
năm, vừa thuộc vừa cương tuy đă có ư tiến lên diễn thuộc, trên sân khấu hộp
h́nh thành dần "bức tường thứ tư",...).
Ba, chèo cải lương bộ
lộc quá tŕnh canh cải nhiều mặt nghệ thuật của sân khấu Sán Nhiên khi ban
hát chuyển sang tay "bác Thơ" Nguyễn Đ́nh Nghị, thử nghiệm rồi thực hiện
loại "tả chân hư kịch".
Bốn, so sánh nghệ
thuật chèo cổ (tức chèo sân đ́nh) với chèo văn minh, Nguyễn Đ́nh Nghị một
lần trả lời phỏng vấn đăng báo cho rằng: "chúng giống nhau ở chỗ các vai tṛ
không cần thuộc vở, nhiều khi tuỳ trường hợp mà ứng khẩu, nhưng khác nhau ở
chỗ chèo văn minh đă bắt đầu đề cập đến sinh hoạt ngày nay".
Năm, quá tŕnh chuyển
hoá thích nghi của chèo khi vào diễn ở thành phố thời thuộc Pháp, xảy ra
tiếp nối từng chu kỳ, lên xuống trong khoảng từ 5, 6 đến 8, 9 năm.
Không là chuyện lạ,
khi sau Cách mạng tháng 8, con cháu, bạn bè của mấy vị hoạt động chủ chốt
trong phong trào chèo cải lương, cả số gánh từng tin phục cách làm ăn của
chèo cải lương ở Hải Pḥng, Nam Định, đều chuyển thành hoặc tham gia làm
ṇng cốt cho các đoàn chuyên diễn Cải lương, như Đoàn Cải lương Hoa Mai (Hà
Tây), Đoàn Cải lương Phương Đông (Hải P̣ng), Đoàn cải lương B́nh Minh (Nam
Hà); Chưa kể hàng mấy chục anh chị hoạt động trong Nhà hát Cải lương Trung
ương và các đoàn Cải lương Thanh Hoá, Thái B́nh,... |
Chèo cổ có những
đặc điểm sau:
Chèo
thuộc loại sân khấu khuyến giáo đạo đức
Chèo
thuộc loại kịch hát dân tộc, một dạng hát - múa - nhạc - kịch mang tính tổng
hợp
Chèo
thuộc loại kịch hát bi - hài dân tộc
Chèo
thuộc loại sân khấu kể chuyện Việt Nam (c̣n gọi là sân khấu tự sự dân tộc)
Chèo
thuộc loại sân khấu ước lệ và cách điệu
Đặc
điểm chuyên dùng và đa dùng nghệ thuật bộc lộ quy luật phát triển của chèo
cổ
Sáu
đặc điểm trên liên quan mật thiết với nhau, cái nọ bổ xung, hỗ trợ, tác động
lại cái kia, cùng đứng chắc trên quan điểm triết mỹ khá rơ. Tất nhiên tùy
quan niệm của người vận dụng, có thể đưa sân khấu kể chuyện lên đặc điểm 2,
đến kịch hát bi hài, đặc điểm 3, hát - múa - nhạc - kịch cũng gọi là ngôn
ngữ nghệ thuật kịch chủng, đặc điểm 4, hoặc đặc điểm hát - múa - nhạc - kịch
trên đặc điểm kịch hát bi hài. Nhưng đặc điểm khuyến giáo đạo đức và đặc
điểm chuyên dùng đa dạng nghệ thuật th́ nhất thiết phải ở vị trí một và sáu,
do chúng chi phối quán xuyến cả bên trong lẫn bên ngoài, cả quá khứ, đương
đại và tương lai, có tính quyết định bộ mặt và sức sống của kịch chủng. Cũng
như đặc điểm ước lệ - cách điệu thuộc phạm trù biểu diễn đặt vào vị trí năm
là thoả đáng.
Không quên, 6 đặc điểm trên h́nh thành dần
trong điều kiện và hoàn cảnh của một xă hội văn minh lúa nước, diễn biến tự
phát, lẻ tẻ, chậm chạp; lại bị một thời gian thử thách với xă hội phong kiến
thực dân, nhất là trước tầng lớp thị dân, nên có t́nh trạng đan xen đến phức
tạp, giữa các yếu tố hiện c̣n khả năng đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người
hôm nay, với số yếu tố dẫu một thời được nhiều khách mê say, nhưng giờ đă
trở thành rườm rà, dài ḍng, nên đ̣i hỏi một sự nh́n nhận biện chứng bằng
những cặp "mắt xanh", mới hy vọng kế thừa học tập thỏa đáng vốn cũ để xây
dựng tốt cái mới. |
Làm cách nào để
giữ ǵn và phát huy nghệ thuật chèo truyền thống?
* NS Quốc Chiêm
(Đoàn chèo HN)
"Đứng về góc độ diễn
viên, Quốc Chiêm rất yêu chèo truyền thống, luôn trau truốt giọng hát của
ḿnh để ngày một hay. C̣n đứng về góc độ người quản lư, trước tiên phải nghĩ
ra phương hướng hoạt động của đoàn chèo ḿnh nói riêng và ngành chèo nói
chung. Phương hướng của đoàn chèo Hà Nội từ năm 1990 đến nay là vẫn thực
hiện giữ ǵn bảo tồn và phát triển sáng tạo nghệ thuật chèo chèo truyền
thống để đáp ứng được khán giả hiện nay. Sự tồn tại và phát triển CLB chèo
truyền thống của đoàn chèo chúng tôi là một bước đánh dấu quá tŕnh giữ ǵn
và phát huy nghệ thuật chèo. Những tích chèo cổ được các nghệ sĩ hàng ngày
tŕnh diễn và trau truốt thêm những nét tinh hoa của chèo cổ.
Nghệ thuật chèo được
rất nhiều nhà chuyên môn giỏi nghiên cứu và t́m hiểu, khai thác. Tuy nhiên
để giữ ǵn và phát huy không phải một cá nhân, một đoàn chèo mà cần phải có
sự đóng góp của nhiều nghệ sĩ và những người có liên quan".
* NS Xuân
Hanh (Đoàn chèo HN):
"Chỉ riêng nghệ sĩ
th́ không thể giữ ǵn và phát huy được nghệ thuật chèo truyền thống mà c̣n
cần đến nhiều cơ quan chức trách có liên quan. Thời gian qua chèo mất đi
nhiều nghệ sĩ có tên tuổi, c̣n lớp trẻ chưa có hoặc chưa đạt đến độ chín cần
thiết. Trong thời kỳ chèo thịnh hành, các nghệ sĩ được khán giả yêu thích,
anh em trong giới nghệ sĩ công nhận đông c̣n nay th́ không như vậy, có đoàn
mất đi đến 90%, c̣n lớp trẻ thay thế chiếm lĩnh gây ảnh hưởng cảm t́nh nhưng
kết qủa rất ít.
Sở dĩ lớp trẻ không
giỏi v́ ngay từ lúc tuyển dụng người có năng lực không nhiều, vào trường các
thầy truyền đạt không kỹ lưỡng, giáo tŕnh th́ không được như trước đây; học
tính giờ không biết kết quả cao hay thấp... Tâm học không được như trước bởi
nh́n cuộc sống của các thầy đang dậy, những nghệ sĩ tên tuổi bây giờ không
hấp dẫn lắm với họ.
Khi ra trường mới nổi
lên được một ít, đặc biệt diễn viên nữ hay hát nhà hàng, chạy theo những
"sô" hát mà quên đi cái chắt chiu nghệ thuật. Nếu như biết được cái đó chỉ
là phạm trù khác c̣n được, nhưng có người tưởng ḿnh có nhiều suất diễn là
đă "hoàn hảo". Điều đó làm mất đi bản sắc nghệ thuật của một nghệ sĩ. Có
nhiều em có chất giọng nhưng không phải nay có mai có mà phải có thời gian
khổ luyện và cũng cần có sự đầu tư thích đáng của nhà nước cho cả một thế
hệ".
* Danh hài Quốc
Trượng (Đoàn chèo Tổng cục Hậu Cần):
"Cũng như những nghệ
sĩ khác ḿnh mong những người làm công tác nghệ thuật, nhất là nghệ thuật
chèo phải tâm đắc và giữ ǵn được những cái riêng của với nghề thuật chèo
truyền thống. Người nghệ sĩ muốn giữ được cái truyền thống hay không là do
ḿnh cho dù có bị ảnh hưởng nhiều của sự cải biên. Điều quan trọng là người
nghệ sĩ phải biết kết hợp một cách hài hoà giữa cái hiện đại và cái dân tộc.
Ḿnh là người làm nghệ thuật nên phải biết được cái trí tuệ, cái thâm thuư,
tế nhị và rất Việt Nam ở trong nghệ thuật chèo. Muốn giữ ǵn nó th́ từ lời
nói, cử chỉ đến hành động khua châm múa tay đều phải bám sát được với nghệ
thuật chèo để phát triển lên, ḿnh bỏ lơ nó đi th́ không c̣n là chèo nữa mà
lại trở thành kịch nói."
* Diễn viên Lan
Anh (Đoàn chèo HN):
"Ḷng yêu nghề và cái
tâm là một trong những yếu tố giúp người diễn viên phát huy được những tài
năng nghề nghiệp. Nhất là trong thời buổi hiện nay để chèo truyền thống tồn
tại và phát triển không phải là dễ dàng. Hoạt động trong CLB chèo là một
trong những h́nh thức để người diễn viên như tôi có điều kiện phát huy và
nâng cao giọng hát của ḿnh |
|