| |
Ḥ Nam Bộ
Trần Trọng Trí
Lùi vào quá khứ, ba trăm năm trước, khoảng cuối thế kỷ 17, khi người Việt đặt
chân xuống đồng bằng Cửu Long khai sơn phá thạch để lập nghiệp cũng là lúc họ
phát huy bản lĩnh, khí phách của dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hiến lâu
đời. Trước khi gieo hạt giống làm nảy nở mùa màng, họ đă gieo tục ngữ ca dao,
tiếng ḥ, điệu hát.
Có thể nói thức ăn tinh thần chính của dân Nam Bộ trong buổi đầu là tiếng ḥ câu
hát. Những điệu ḥ cấy lúa, ḥ quốc sự, ḥ lờ, đă làm thổn thức, xao xuyến ḷng
người từ xưa đến nay vẫn c̣n văng vẳng bên tai. Những cuộc ḥ làm bớt nặng nhọc
trong lúc cày bừa, sạ tỉa giữa nơi nước mặn, đồng chua, làm phấn khởi tinh thần
trước cảnh thiên nhiên, đồng thời là đầu mối cho duyên t́nh trai gái dẫn tới
những cuộc vuông tṛn vàng đá trăm năm.
Tiết điệu và âm điệu
Tiết điệu trong câu ḥ biến đổi khá nhiều, nhưng có thể gom trong hai điệu chính:
Ḥ huê t́nh, tức là hát chậm và kéo dài ra, c̣n ḥ lăn, tức tiếng
hát mau và ngắn lại. Dù ḥ huê t́nh, ḥ lăn hay hàng chục điệu ḥ khác biệt của
mỗi địa phương Sa Đéc, Tháp Mười, G̣ Công, Rạch Giá, Hà Tiên, Cai Lậy, Tiền
Giang… người mộ điệu ḥ bao giờ cũng sành cung đoạn, âm giai. Họ không bao giờ
chịu hạn chế lời ca trong một điệu, ḥ tuỳ hứng mà sáng tác, tuỳ nội dung mà
định h́nh thức của nốt nhạc. Nhưng luôn luôn, họ có cung đoạn riêng để quyết
định cho sự hô ứng, cho lúc nghỉ ngừng. Chúng ta thử nghe một câu ḥ lục bát:
“Ḥ… ơ… ơ… ờ… ờ…
Gió đưa con buồn ngủ lên bờ… ờ… ờ… ờ…
Mùng ai có rộng… ờ… ờ… ờ… cho tôi ngủ nhờ một đêm… ờ… ờ…”
Và một câu dài trong lục bát biến thể:
“Ḥ… ơ… ơ… ờ… ờ…
Vận bạc t́nh bất hủ… Nhơn phi nghĩa bất giao… ờ… ờ… ơ…
Anh nguyền thưởng bận một dao… ơ… ơ… ơ… ơ…
Răn người ḷng dạ mận đào lố lăng… ơ… ơ… ơ… ơ”
Thử nghe một anh trỗi giọng và một cô hoà điệu tiếp theo. Đây là câu của giới
nam:
“Ḥ… ơ… i… i… i… Thấy em có cái g̣ má hồng hồng… ́… ́… ́…
Hoà hơ… ơ… ơ
Phải chi em đừng mắc cỡ…
Hoà hơ… ơ… ơ
Đừng mắc cỡ, th́ anh xin bồng… em hôn…i… i… i…”
Và đây là câu của nữ giới hoà theo:
“Ḥ… ơ… ơ… ơ… ứ… ứ…
Chuyện vợ chồng đâu có khá bôn chôn… ư… ư…ư…
Hoà hơ… ơ… ơ
Anh thương em nên dè dặt… ư… ư… ư…
Hoà hơ… ơ… ơ
Chớ để thiên hạ đồn không hay… ư… ư… ư…”
Tiếng dùng và cách xưng hô khi ḥ.
Trong điệu nghệ ḥ, riêng có một số từ ngữ nghe lạ tai và vài cung cách xưng hô
tự do. Thí dụ bên nữ cất giọng trao t́nh trước:
“Ḥ… ơ… ơ… ơ… ơ…
Em đến đây kiếm anh như con c̣ trắng bay cao… ơ… ơ… ơ
Này bạn ơi… C̣n thân em đâu khác thể… ơ… ơ… ơ… ơ…
… Đâu khác thể v́ sao trên trời… ơ… ơ… ơ…”
Giọng ḥ thiệt hay, có nhiều bỡn cợt lơi lả, nhất là ở cuối câu cái hơi ngân dài
như nói lên một niềm lưu luyến. Câu ḥ có ư kèo trên và khó đối. Phía bên nam
vẫn không chịu thua, vừa nghĩ câu ḥ đối lại ngay:
“Ḥ… ơ… ơ… ơ… ơ…
Thân anh như tấm da trời… ơ… ơ… ơ…
Ơ… ḿnh ơi, bốn mùa sương lạnh… ơ… ơ… anh không rời v́ sao… ơ… ơ… ơ…”
Nếu chúng ta là những người chưa sành điệu, tất sẽ lạ lùng qua cách xưng hô “bạn
ơi”, “ḿnh ơi” quá tự do đến mức “sỗ sàng”. C̣n những tiếng khác nữa như: “Này
bậu ơi”, “Này người nghĩa ơi”, “hai đứa ta”, “đôi ta”… được xưng hô một cách
thân mật tự nhiên. Người ta không bắt lỗi nhau và coi như cuộc trao đổi tâm t́nh
chân chính.........
|