Nếu thử làm một
phép tính đơn giản th́ từ đầu thế kỷ 20 đến
nay nghề hát Ca trù hay c̣n gọi là hát ả đào
ở Hà Nội đă trải qua được khoảng năm thế hệ
(ở đây chúng tôi tính cả những người từ các
vùng quê lên Hà Nội kiếm sống bằng nghề hát
xướng này ngụ tại các giáo phường Khâm Thiên,
Vạn Thái, Vĩnh Hồ, ấp Thái Hà…vv.). Đơn cử
thế hệ thứ nhất th́ có cụ Như Tuyết, cụ Phó
Thị Yến bên ấp Thái Hà; thế hệ thứ hai có cụ
Quách Thị Hồ ở giáo phường Vạn Thái (phố
Bạch Mai ngày nay), cụ Nguyễn Thị Phúc giáo
phường Khâm Thiên; thế hệ thứ ba có cụ Phó
thị Kim Đức, cụ Nguyễn Thị Chúc người giáo
phường Khâm Thiên, cụ Phạm Thị Mùi bên giáo
phường Lỗ Khê; thế hệ thứ tư được biết đến
với các nghệ sĩ Bạch Vân, Kim Dung, Trang
Nhung, Thuư Hoà…vv. Và thế hệ thứ năm gồm
khoảng gần 80 học viên của lớp Ca trù 2
tháng do Cục nghệ thuật biểu diễn đứng ra tổ
chức dưới nguồn vốn tài trợ từ quỹ Ford khai
giảng vào tháng 10/2002 tại Hà Nội. Bấy
nhiêu thế hệ có người c̣n, người mất, người
cao tuổi, kẻ c̣n đang thiếu niên, tất cả bấy
nhiêu con người đă và đang t́m cách giới
thiệu và bảo tồn Ca trù, một bộ môn nghệ
thuật vô cùng độc đáo của dân tộc Việt. Thế
nhưng cho đến ngày nay, người ta vẫn c̣n băn
khoăn, thắc mắc, thậm chí là ngờ vực xung
quanh một điều rằng: liệu thực chất Ca trù
Hà Nội c̣n hay mất?
Với những ǵ mà chúng tôi liệt kê trên th́
rơ ràng chúng ta thấy, mạch nguồn của bộ môn
nghệ thuật bác học trên vẫn c̣n chảy đến tận
ngày nay. Vậy, câu hỏi vừa được nêu lên kia
chắc là thừa? Vâng có lẽ sẽ là đúng như vậy
nếu như trong thế kỷ vừa qua có đến gần 30
năm, tức là từ năm 1954, người ta đă coi Ca
trù như là một tàn dư của chế độ cũ, đại
diện cho một lối sống ăn chơi, truỵ lạc,
trác táng, thậm chí có người lại coi người
đào nương như một loại gái làm tiền, anh kép
đàn như một người môi giới, hoặc gán cho họ
những lời lẽ thật tàn nhẫn và bẩn thỉu. Để
đến nỗi sau một thời gian ngắn ngủi vô cùng,
cả một cơ dinh nghề hát đồ sộ, đại diện cho
một thú chơi tao nhă vào bậc nhất của văn
nhân Việt Nam lúc bấy giờ bỗng chốc tan biến
đi, hầu như không để lại dấu tích. Để đến
nỗi cho đến ngày hôm nay, người ta phải
loanh quanh. ôm đầu với những câu hỏi, liệu
đâu là Ca trù thật, đâu la Ca trù giả, và Ca
trù c̣n hay mất?
Trong một lần gần đây tiếp chuyện với
nhà thơ Ngô Linh Ngọc, ông có tâm sự với
chúng tôi là ngay cả đến bây giờ ông vẫn
chưa hết bàng hoàng về sự ra đi quá nhanh
chóng của Ca trù, một thú chơi đă gắn bó
trong ông từ khi c̣n đôi tám tuổi, lúc bấy
giờ đương c̣n là một cậu Tú. Ông vẫn c̣n nhớ
như in là vào năm 1946, hưởng ứng lời kêu
gọi của chính phủ đă có những ngày cả một
toa tàu chở hơn 300 cô đầu lên mạn Vĩnh Yên,
Vĩnh Phúc để tản cư, ấy thế mà đùng một cái
sau khoảng năm năm tư, sáu mươi, tất cả như
ch́m hết tăm, không c̣n để lại một dấu tích
nào, có lẽ v́ sợ mang tiếng xấu v́ mọi người
đă gán cho nghề nghiệp của họ. Ngay cả ông
cũng phải giấu đi tài nghệ cầm chầu của ḿnh.
Măi cho đến những năm 90 của thế kỷ trước,
khi mà có một nghị quyết trung ương kêu gọi
về việc phát triển văn hoá nghệ thuật dân
tộc, ông Ngọc lại hăm hở t́m lại những người
đào hát xưa nay mái đầu đă bạc trắng. ông đă
làm ba bộ phim về Ca trù vào đầu những năm
80, bất chấp cả việc cho người khác ghi tên
làm đạo diễn, để đổi lại việc cho Ca trù trở
lại. Cùng với gần 20 buổi diễn thuyết của
nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát trước đó, thế giới
đă phải công nhận Ca trù Việt Nam là một bộ
môn ca nhạc thính pḥng vô cùng độc đáo mà
người được đại diện nhận vinh dự đó là nghệ
nhân Quách Thị Hồ.
|
Nghệ nhân Quách Thị Hồ (hát),
nhà thơ Ngô Linh Ngọc (cầm chầu) |
Những tưởng
những cố gắng đó làm cho Ca trù trở lại, nên
công quả, nào ngờ đă gần ba chục năm, người
c̣n th́ ít, người mất th́ nhiều. Người c̣n
lại th́ toàn các cụ nghệ nhân già, nhớ ít
nào th́ được chăng hay chớ, lại khó truyền
nghề được v́ các cụ đă yếu cả rồi. Điểm qua
đây mới thấy rằng các cụ nghệ nhân không
truyền nghề lại được cho nhiều người lắm.
Nghệ nhân Quách Thị Hồ không truyền lại được
cho ai, Nghệ nhân Nguyễn Thị Phúc không
truyền nghề lại được cho ai, nghệ nhân Phạm
Thị Mùi có truyền lại được cho chị Mận và
chị Lan, cháu ngoại của cụ, nghệ nhân Nguyễn
Thị Chúc truyền lại được cho chị Ngọc Hân,
duy có nghệ nhân Phó Thị Kim Đức truyền nghề
lại thật đầy đủ cho chị Nguyễn Thị Bạch
Dương (về hát), anh Nguyễn Công Hưng (về
đàn). Đến đây th́ chắc nhiều người thắc mắc
và tự đặt ra một câu hỏi là thế các nghệ sĩ
Ca trù bây giờ như Nghệ sĩ Kim Dung, Trang
Nhung, Thuư Đạt, Bạch Vân, Thuư Hoà th́ ở
đâu ra, học ở đâu? Xin thưa là họ cũng được
học các cụ nghệ nhân, nhưng chưa được đầy
đủ, mà phần nhiều là học mót. Ở đây chúng
tôi xin phân bạch ra là giữa học nghề và
truyền nghề có nhiều cái rất khác nhau. Ít
nhất là khi truyền nghề th́ các cụ nghệ nhân
sẽ truyền lại tất cả những ngón nghề đặc
biệt trong cuộc đời nghệ thuật đúc kết ra
được hoặc có tính gia truyền. Ví dụ như
trong Ca trù có một lối hát gọi là Hát
Truyện, lối này hát rất khó, phần nhiều là
những đào nương thật vững mới có thể hát
được. Người hát Truyện bây giờ chỉ duy có
nghệ nhân Phó Thị Kim Đức là hát được truyện
Phan Trần, lối này là khuôn riêng của ấp
Thái Hà. Khi cụ Phó Thị Kim Đức truyền nghề
th́ bây giờ chỉ có duy nhất chị Bạch Dương,
học tṛ của cụ là hát được. Hơn nữa khi các
nghệ nhân truyền nghề rồi th́ phần lớn các
cụ sẽ buông phách, thôi không hát nữa, chỉ
để cho học tṛ ḿnh hát, những yếu tố này
việc học nghề không thể có được. Các nghệ sĩ
Kim Dung, Trang Nhung, Thuư Đạt… là được học
nghề của cụ Nguyễn Thị Phúc, các cụ kép đàn
Phó Đ́nh Kỳ, Đinh Khắc Ban thông qua một lớp
học 18 tháng do Bộ văn hoá đứng ra tổ chức
vào những năm 80, nghệ sĩ Bạch Vân có được
cụ Chu Văn Du truyền nghề, nhưng v́ cụ Chu
Văn Du là một kép đàn nên phần nhiều bị hạn
chế bởi việc truyền dạy hát.
|
Nghệ nhân Phó Thị Kim Đức (hát),
nghệ nhân Chu Văn Du (đàn),
nhà thơ Ngô Linh Ngọc (cầm chầu) |
Đấy là việc
truyền dạy, c̣n chất lượng ra sao? Ta thử
tham khảo một tài liệu bấy lâu nay vẫn được
coi là một trong những công tŕnh nghiên cứu
đầy đủ nhất về Ca trù, đó là cuốn Việt
Nam ca trù biên khảo do hai tác giả Đỗ
Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề viết năm 1956 về
việc dạy và học của Ca trù: "Ngày xưa ả đào
học hát rất công phu, cô nào thông minh xuất
sắc lắm cũng phải một năm mới cầm được phách
để hát, c̣n lại trung b́nh học chuyên cần
trong 5 năm". Trong khi đó vào những năm 80,
Bộ Văn Hóa đứng ra tổ chức một lớp học 18
tháng để ǵn giữ Ca trù. Nhưng đó chỉ là
thời gian để làm quen t́m hiểu với cỗ phách
cây đàn mà thôi, ấy là chúng tôi vẫn chưa kể
ra c̣n có một lớp học 2 tháng do Cục nghệ
thuật biểu diễn đứng ra tổ chức vào tháng 10
năm 2002, mới thấy là càng chưa thể tính đó
là học Ca trù. Vậy để có một chất lượng thật
sự th́ phải học như thế nào? Theo nghệ nhân
Phó Thị Kim Đức, ngày nay muốn được truyền
nghề Ca trù th́ phải mất trên 3 năm, đó là
khoảng thời gian tối thiểu và phải được sự
hỗ trợ của các thiết bị hiện đại thu âm, máy
quay…vv. Người học Ca trù sẽ học theo từng
bước một, ban đầu là Ca phách, Ca đàn, học
đánh phách, cuối cùng mới là học hát, riêng
học hát ban đầu là học lấy tiếng để ăn đủ
với phách, sau đó mới là học các kỹ thuật,
lấy hơi, bắt câu, nhả chữ, đổ con kiến…vv.
Đặc biệt nhất là học phách, chiếm trọn một
năm đầu khi học. Phách có trù có tất cả năm
khổ với 87 tiếng nhưng để đánh được 87 tiếng
đó cho ra tiếng phách của Ca trù th́ đúng là
phải học đến một năm. Bởi lẽ trong Ca trù
quan trọng nhất là phách, người đánh đàn lấy
trường độ của tiếng phách để giữ nhịp khi ra
vào tiếng đàn cho đúng khổ, đúng với câu
hát, người hát th́ lấy trường độ của tiếng
phách để đinh vào câu hát, phách nhanh th́
hát mau, phách chậm th́ hát thưa. Lấy cao độ
của tiếng phách để giữa lấy hơi hát, tiếng
phách rung mạnh mẽ th́ bắt hơi bổng, phách
rung nhẹ thị bắt hơi trầm, thế nên mới gọi
là một tiếng đàn, một tiếng hát, một tiếng
phách; tiếng phách là tiếng hát thứ hai của
người đào nương, người nào hát được khuôn
th́ phải hát như vậy. C̣n trống chầu khi
muốn điểm trống để ngắt câu hát khi hết một
khổ th́ phải nhờ vào tiếng phách báo của đào
nương, nếu biết được điều đó th́ cầm chầu
không bao giờ bị trệch cả. . Người hát như
thế gọi là Hát Khuôn. Hát Khuôn
khó bởi tính khuôn khổ đi theo từng quy luật
nhất định, v́ thế nên tuy các giáo phường
xưa kia có những kiểu dạy và học khác nhau
nhưng người ở giáo phương về khuôn khổ, năm
khổ phách, năm khổ đàn đều nhất theo một.
Chúng tôi c̣n nhớ có một lần CLB Bích Câu có
mời cụ kép đàn Ngô Trọng B́nh trong Thanh
Hoá, và cụ Phạm Th́ Mùi trong Đông Anh ra
hát, sau khi hát xong cụ Mùi mới bảo đùa môt
câu: "Ông Thanh Hoá, bà Lỗ Khê, nhưng và vẫn
cứ ăn chằn chặt, nghề chúng cháu là như vậy
đấy các cụ ạ!". Vậy nếu xét theo tiêu chí
khuôn khổ kia th́ ngoài các cụ nghệ nhân và
những người được truyền nghề th́ các nghệ sĩ
trên chẳng ai được gọi là người hát Ca trù
cả.
|
Ca
trù ở làng Mọc |
Và nhiều
người không biết được điều đó, chỉ mua băng
về mà học nên mới có cơ sự là phách cứ đánh
lung tung, hát một đằng, phách một nẻo, đàn
muốn đi đâu th́ đi, rồi cho quan viên muốn
điểm trống vào chỗ nào cũng được. Thế nên
bây giờ mới có chuyện ông nghệ nhân Ca trù
Hà Tây, Báu vật nhân văn sống về Ca trù của
đất nước Việt Nam, biểu diễn Ca Trù đánh
phách bằng chân, tay đánh đàn, thỉnh thoảng
điểm vài tiếng trống, miệng th́ hát
[1] . Năm ngoái chúng tôi có
dịp điền dă về thăm CLB Ca trù Hà Tây th́
thấy họ đào tạo Ca trù rất nhanh, muộn nhất
là một tháng có thể là hát được, thấy chúng
tôi có vẻ quan tâm họ liền mời ngay bằng một
chiêu quảng cáo rất độc đáo: "Các em cứ về
đây học, chỉ một tuần là có thể hát được"…
Ca trù ở đất này có vẻ là dễ dăi quá.
C̣n một yếu tố nữa để thấy cái hay của
Ca trù là việc: tạo ra tiếng đặc trưng. Thực
ra trong các bộ môn âm nhạc cổ truyền của
nước ta, mỗi cái đều chứa trong nó những
tiếng đặc trưng. Bởi thế nên người ta chỉ
cần một tháng học là có thể đánh đủ số tiếng
phách, nhưng cho ra cái tiếng phách của Ca
trù không thể lẫn với phách của Chèo hay của
Ca Huế th́ phải mất một năm, hát là bốn năm,
đàn là mười năm, trống chầu phải mất hai mẫu
ruộng với một con ḅ th́ mới đến các ca quán
mà thưởng trống được, c̣n nều không anh hăy
đứng chầu ŕa. Bốn yếu tố hát, phách, đàn,
trống hoà hợp vào nhau th́ tạo thành một thứ
âm thanh mê hồn, quyến rũ đến tuyệt vời. Thế
nhưng chúng tôi c̣n nhớ đă hơn một lần,
chính xác là một lần xem trên vô tuyến và
một lần tham dự lễ bế mạc của lớp học 2
tháng đào tạo diễn viên trẻ hát Ca trù
[2] , th́ thấy cả một dàn độ
15 đàn và trống cộng thêm 40 người hát làm
một dàn hợp xướng hát bài Hồng Hồng,
Tuyết Tuyết của Ca trù, hệt như
người ta đang thấy một rổ cá rô. Hỏi ra mới
biết ư tưởng trên là do ông nhạc sĩ Vũ Duy
Cương khởi xướng. Cơ lẽ sẽ hoàn thiện hơn
nếu ông Vũ Duy Cương mặc áo đuôi tôm và…cầm
một chiếc đũa chỉ huy. Người ta đang cổ suư
cho phong trào giao lưu giữa Đông và Tây mà.
Và rồi, khi muốn kiểm định xem đâu là Ca
trù thật, giả? Trong khi kiến thức về nó lại
theo kiểu đánh vần Ơ Tờ Nhót, người
ta đành phải lấy một tiêu chí lấy thịt đè
người tức là xem ở đâu đào tạo ra nhiều
học sinh nhất th́ ở đó là Ca trù xịn. Đă có
cả một hội đồng xét duyệt theo kiểu như thế
và trao một cái bằng Báu vật nhân văn
sống, nghệ nhân Ca trù cho một
người trước đây vốn là một anh xẩm chợ. Rơ
là xứ mù anh chột làm vua. Đến đây
chắc mọi người cũng có thể trả lời tiếp câu
hỏi Ca trù liệu c̣n hay mất?
C̣n nhớ câu chuyện về cụ Cả Tam, một
nghệ nhân Chèo nổi tiếng, trước đây v́ một
lí do ǵ đó mà cụ đă thề quyết là đem nghề
xuống dưới cửu tuyền chứ nhất định không
chịu truyền lại cho ai. Khi đó vào những năm
mới hoà b́nh lập lại ở miền Bắc, Bác Hồ đă
ra lời kêu gọi giữ ǵn lấy vốn cổ để phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc. Người ta đă bắt
đầu nghĩ tới việc giữ lại nghề hát Chèo. Lúc
ấy, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đă dẫn một
đoàn lên Thái Nguyên để t́m cụ nhưng cụ nhất
quyết không nhận. Sau phải cho cụ xem lời
kêu gọi của Bác Hồ ra th́ cụ mới giải lời
thề, mở một lớp truyền nghề trên Thái
Nguyên. Bây giờ nh́n lại Ca trù, cũng là một
bộ môn nghệ thuật ca quư như vậy mà ngày
càng bị chết dần, chết ṃn bởi những lí do
vô cùng đáng tiếc, làm cho chúng ta cảm thấy
thật buồn. Lớp nghệ nhân thứ ba sắp qua đi,
để lại hai thế hệ c̣n đang bơ vơ như một
người đứng ở ngă ba ngă tư giữa lúc đựng
đông. Những nghệ nhân c̣n lại đó cần được
một chính sách đăi ngộ đặc biệt để họ có thể
giữ lại và truyền cho những thế hệ tiếp theo
những ǵ quư giá, đẹp đẽ nhất của ḥn ngọc
Ca trù. Chứ đừng để sau này người ta không
c̣n biết đến nó là cái ǵ, hoặc như một thứ
nghệ thuật chắp vá. Những miếng vá không
lành.
Phụ lục
Sơ lược về ca trù đương đại tại Hà
Nội và vài vùng lân cận
1. Giáo phường
Lỗ Khê
Thần tích tổ Ca trù ở Lỗ Khê:
Trời
Nam mở vận, lịch đại tế vương trợ
thuận phả lục
Giáo phường tổ sư
Các bề tôi ở viện Tập Hiền phụng
soạn
Xưa, vào đời Lê Thái Tổ, trong nước ta,
có người học Đinh tên Lễ ở động Hoa Lư,
huyện An Khang, phủ Trường Yên, đạo
Thanh Hoá, đời trước từng được thụ
phong, nối đời hưởng ấm, theo vua dấy
nghĩa ở Lam Sơn chống lại Vương Thông đă
được 10 năm. Ông lấy người con gái họ
Trần, tên hiệu Minh Châu, là nhà truyền
gia thi lễ, kế thế trâm anh, đúng thực
cuộc hôn phối môn đăng hộ đối.
Một hôm, Đinh công đi huyện Nga Sơn phủ
Hà Trung, đạo Thanh Hoá thấy có một động
ở bên bờ biển gọi là động Bích Đào,
người thời đó gọi là động Thần Tiên. Ông
bèn xem xét. Lúc ấy mặt trời chưa đứng
bóng, bèn nằm nghỉ. Bỗng nhiên, ông mộng
thấy có hai cụ già ngồi đánh cờ vui vẻ
dưới gốc cây đào. Có một cụ tự xưng: "Ta
vốn ở trên điện Thừa Hoa, tên là Đông
Phương Sóc, ngày ngày thường giáng hạ
đến các tiên cung trên biển". Nhân đó,
ông nói: "Nhà người đức dày, đắc địa
sinh con ắt được quư tử. Trời đă định
rồi vậy! Sẽ gặp và lấy vợ Tiên đó".
Nói xong, theo đám mây bay lên không
trung đi mất. Ông tỉnh dậy, khẩu chiến
một bài thơ rằng:
Hải
thượng quần tiên sự diểu mang,
Bích Đào động khẩu thái hoang lương
Càn khôn nhất ngộ cùng Đông Sóc
Vân thuỷ song nga lăo bắc phương
Thạch cổ hữu thanh xao hiểu nguyệt,
Sa diêm vô vị niết thu sương,
Thế nhân khổ tác Thiên Thai mộng,
Thùy đức Thiên Thai triệu báo tường.
(Trên biển người tiên chuyện măi
vương
Bích Đào cửa động quá thê lương
Một phen gặp gỡ cùng Đông Sóc
Đôi mắt nheo cùng khách Bắc phương
Đá gơ âm vang lay bóng nguyệt
Muối rây vô vị ám thu sương
Người đời khổ mộng Thiên Thai măi
Ai biết Thiên Thai cũng mộng
trường.)
Ngày hôm đó, ông cùng binh sĩ trở về đồn
sở. Bấy giờ Thái Tổ sai ông đem quân đi
tuần phương Bắc để ứng phó với quân
Minh. Ông tiến đến trang Lỗ Khê, huyện
Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, thấy có một cuộc
đất sơn thuỷ t́nh, có thế núi h́nh con
phượng, h́nh cái đàn, là một thắng cảnh.
Ngay hôm đó, ông truyền cho nhân dân,
binh sĩ thiết lập đồn sở và trú lại đó.
Được vài tháng, bà Trần thị, vợ ông, một
đêm nằm mộng thấy một con rắn xanh từ
dưới đất vọt lên, trườn vào trong ḷng
bà. Bà hoảng sợ tỉnh dậy. Từ đó bà Minh
Châu có thai. Đến năm Quư Tỵ, tháng 4
mùng 6 sinh hạ một con trai. Đứa bé
thiên tư cao lớn, dáng vẻ tuấn tú ḱ lạ.
Ông biết là "đắc địa sinh nhân", đặt tên
là Dự và nuôi dưỡng đứa bé rất thành
tâm.
Bấy giờ đang thượng tuần tháng Giêng,
mùa xuân, Thái Tổ sai sứ giả đem thư
tới, lệnh cho ông đi đánh giặc Minh ở
Lạng Sơn. Ông liền hội họp binh sĩ,
quyết đánh lớn một trận; nhưng đánh măi
mà chưa phân thắng bại. Ông đành trở về
trang Lỗ Khê, đạo Kinh Bắc. Tháng lại
ngày qua, Dự đă 12 tuổi, thiên tư dĩnh
ngộ, học vấn tinh thông, cầm, kỳ, thi,
họa, ca xướng thảy đều tinh luyện, chưa
có bậc anh tài nào vượt được. Dự ngày
ngày t́m học thể cách dạo đàn ở các giáo
phường, nghe nói ở huyện Gia Định, Thuận
An, có trang Đông Cứu núi dựng chất
chồng, dưới ở bến sông, trên có chùa
Thiên Thai, chàng bèn đến đó. Tại đây,
chàng gặp một người con gái có nhan sắc
"chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa
nhường", thật là thanh sắc vẹn toàn.
Đinh Dự bèn hỏi: "Nàng từ nơi nào lại,
mà hai ta gặp nhau ở đây vậy?". Người
con gái ấy đáp: "Thiếp là Đường Hoa Hải
Tiên người ở động Nga Sơn, Thanh Hoá.
Nhân lúc nhàn rỗi, lấy việc đọc giáo
phường, thể cách 9 lối ca làm nghề".
Đinh Dự nghe vậy, bèn cười nói rằng:
"Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương
cầu. Nay người lấy cái hoà đức ở trên để
dạy tôi hoà hợp ở dưới, cho nên lễ nghĩa
của đạo với thể cách đàn của giáo phường
là đồng hành vậy".
Thế rồi, chàng bèn cùng Đường Hoa kết
duyên chồng vợ, trở về nơi đồn trú là
trang Lỗ Khê lập Giáo phường, cha mẹ đều
rất vừa ư. Khoảng một năm sau, dạy xong
nghề đàn, cũng lúc ấy, Thái Tổ sai sứ
mang thư tới, nói rằng giặc Minh rất
đông chia làm các đạo tiến vào nước ta.
Vua kế cùng lực kiệt đành thúc thủ. Thái
Tổ lo lắng lắm, sinh bệnh, bèn sai gọi
Đinh Lễ trở về Thanh Hoá, bàn định kế
sách tiến quân. Ngày hôm đó, vợ chồng
ông cùng con trai và nhân dân đem binh
sĩ trở về Thanh Hoá. Bất đồ Đinh Lễ và
Minh Châu đi được nửa đường đều mất cả.
Đinh Dự và binh sĩ rước về quê cũ, chọn
đất tốt để an táng. Sau đó vợ chồng Đinh
Dự mới tới nơi đồn sở của Thái Tổ tâu
rằng: "Việc cha mẹ tôi do số trời, đều
đă mất cả. Chúng tôi xin nguyện đàn hát
để giải bệnh cho nhà vua".
Thái Tổ liền quyết chiến một trận, giặc
Minh bị đánh tan. Ngài lên ngôi Hoàng
Đế. Nhà vua tưởng nhớ các công thần,
nghĩa sĩ bèn cho gọi vợ chồng Đinh Dự về
kinh đô mở yến tiệc, thưởng công, ban
tước.
Bấy giờ, Đường Hoa phu nhân mới tâu với
vua rằng: "Thiếp vốn do vượng khí của
trời đất chung đúc mà sinh ra, biến hoá
vô thường, tinh linh sáng suốt, bầu bạn
cùng tiên, cai quản tam giới, biến hoá
thiện duyên, chu du thiên hạ, dạy dỗ cho
các phường để truyền lưu cổ tiếng thơm.
Nay ngày tháng năm ở trần gian đă măn,
nguyện xin trở về thượng giới". Nói
xong, khẩu chiếm một bài thơ rằng:
Gián
phong triều tấu cửu trùng thiên
Tịch hệ thành môn tuyệt khả liên
Nghĩa chủ báo sinh thần thượng tiết
Thời nhân hột vị giáo phường hiền
(Can ngăn dâng tấu chín tầng trời
Chiều níu cửa thành xót mấy mươi
Nghĩa chúa báo đền tṛn khí tiết
Người đời kể măi chuyện không thôi)
Ngâm xong, bay lên không trung đi mất,
tức là hoá vậy. Bấy giờ Đinh Dự tưởng
nhớ đến t́nh chồng vợ bị ư trời đoạt đi,
bèn bái tạ nhà vua, và khẩu chiếm một
bài thơ rằng:
Luỹ
kế quân ân hốt khế nhiên,
Hiếu trung nhất tiết lưỡng kiêm toàn
Hạc quy hoa biểu thiên niên tại
Vạn sự tri tâm thác lăo thiên
(Mấy kiếp ơn vua trọn tấm t́nh
Hiếu trung một tiết vẹn thanh danh
Hạc về, hoa biểu ngh́a năm đó,
Muôn việc yên ḷng gửi cơi xanh)
Ngâm xong, bèn ngửa mặt lên trời than
rằng: "Không thể làm ǵ được nữa, cũng
cùng một lư ấy", tức khắc biến thành một
con rắn xanh thật dài, trườn qua trườn
lại chỗ cột trụ rồi đi mất. Vua cho đôi
vợ chồng này là bề tôi trung nghĩa. Bấy
giờ là tháng 11 ngày 13, Đinh Công và
Hải Tiên cùng hoá vậy. Thái Tổ có thơ
rằng:
Lộ
kinh cổ miếu thụ liên thiên
Khái tưởng trung thần báo quốc niên
Thuỳ vị đặc trung hoàn thất hiếu
Đắc trung tiện thị hiếu kiêm toàn.
(Lối qua miếu cũ ngút trời cây
Báo quốc trung quân tưởng những ngày
Ai bảo được trung đành dứt hiếu
Được trung lại hiếu vẹn tṛn đầy
[3] )
Ngày hôm đó, vua bèn truyền hịch cho
thần tử các giáo phường trong khắp nước
Nam, đến kinh đô rước mỹ tự về giáo
phường của ḿnh thiết lập từ đường để
thờ phụng. Vua chuẩn cho các cửa đ́nh
trong khắp nước Nam đều có lệ: tiết Khai
Hạ ngày xuân cầu phúc với số tiền là 3
mạch. Giáo phường dùng để cung đốn trong
việc thờ cúng ở giáo đường.
Lê Thánh Tông hoàng đế ghi nhớ công tích
của các bề tôi, có làm thơ, phổ vào lời
ca để ghi lại điềm lành ấy, gồm các bài
Quân đạo, Thần tiết, Quân Minh thần
tiết, Dao tưởng anh hiền, Kỳ khí. Lại
gia phong cho Đinh Công là Thanh Xà Đại
Vương, gia phong Măn Đường Hoa làm Công
chúa.
Chuẩn cho Sinh từ giáo phường ở trang Lỗ
Khê, đạo Kinh Bắc thờ cúng, ban sắc để
thờ. Thật vẻ vang thay !
Phụng khai các ngày sinh, hoá, các lệ và
chữ huư cấm dùng như sau:
- Thần sinh: ngày 6 tháng 4
Lễ dùng trên cỗ chay, dưới trâu, ḅ,
xôi, rượu, xướng ca 10 ngày.
- Thần hoá: ngày 13 tháng 11.
Lễ dùng trên cỗ chay, dưới lợn đen, xôi,
rượu.
- Chữ huư: Các chữ Lễ, Châu, Dự, Hoa đều
cấm.
Niên hiệu Hồng Đức năm thứ 7 (1476),
tháng Mạnh Xuân, ngày lành.
Đông các Đại học sĩ, thần Đào Cử phụng
soạn chính bản.
Niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 6 (1740),
trọng thu tháng Tám, ngày lành.
Quản giám bách thần tri điện Hùng Lĩnh
thiếu khanh thần Nguyễn Hiền sao như bản
chính.
(Dịch từ AE a7/1 - từ trang 4a đến 8a).
Theo như bản thần tích tổ Ca trù của
giáo phường Lỗ Khê th́ ta có thể thấy
được Giáo phường Lỗ khê là một trong
những giáo phường lâu đời nhất c̣n tồn
tại cho đến gần đây, ngày nay trở thành
một làng Ca trù c̣n giữ lại được đ́nh Ca
công cũng như các nhi lễ thờ tế của giáo
phường xưa.
Hiện nay tại làng Lỗ khê - Đông Anh - Hà
Nội c̣n lại hai cụ nghệ nhân c̣n hát Ca
trù đó là cụ: Phạm Thị Mùi (79 tuổi) và
cụ Nguyễn Thị Nhiên.
Trong đó có cụ Phạm Thị Mùi c̣n giữ lại
được các thể như sau:
Bắc
phản
Mưỡu
Hát nói
Gửi thư
Cung bắc
T́ bà
Hăm
Ngâm vọng
Sẩm cô đầu
Ca đàn
Dâng hương
Thét nhạc
Chước cẩm hồi văn
Đọc thơ, thổng
Múa bỏ bộ
Đọc phú.
C̣n cụ Nguyễn Thị Nhiên giữ lại được
các điệu như:
Bắc phản
Mưỡu
Hát nói
Gửi thư
Cung bắc
T́ bà
Hăm
Ngâm vọng
Sẩm cô đầu
Ca đàn
Dâng hương
Thét nhạc
Đọc thơ, thổng
Múa bỏ bộ
Đọc Phú.
Trong làng vẫn c̣n vài ông (50 - 70
tuổi) biết đàn. Thế hệ trẻ ngày nay có
Chị Nguyễn Thị Lan là cháu ngoại của cụ
Phạm Thị Mùi và có được cụ truyền nghề
lại cho. Ngoài ra c̣n có các chị Mận,
chị Thảo cũng được cụ dạy cho một số làn
điệu. Kép đàn thế hệ trẻ th́ có anh
Nguyễn Văn Tuyến.
2. Đ́nh ca công
Phượng Cách
Nằm tại Hà Tây hiện c̣n giữ lại đ́nh
ca công nhưng rất tiếc là không c̣n
người hát.
3. Nghệ Nhân
Phó Thị Kim Đức.
Cụ là một nghệ nhân sau thế hệ cụ
Quách Thị Hồ và Nguyễn Thị Phúc nhưng
cũng đă trải qua nhiều biến cố thăng
trầm của sử. Năm nay cụ 73 tuổi học Ca
trù từ năm 6 tuổi, 12 tuổi đi hát, như
vậy cụ đă có hơn 60 năm tuổi nghề. Trải
qua nhiều mốc lịch sử quan trọng: Pháp
đô hộ ở Việt Nam, Nhật vào Việt Nam đảo
chính Pháp, Cách mạng tháng Tám, Pháp
quay trở lại Việt Nam toàn quôc kháng
chiến. Đến năm 1954 khi Pháp thua trận
tại Việt Nam thủ đô giải phóng cụ đă
không theo các đào nương khác trở vào
nam mà ở lại miền Bắc. Trong cuộc đời
hoạt động nghệ thuật của cụ đă có nhiều
sự kiện đáng ghi nhớ song điều đáng tự
hào nhất là thường xuyên vào Phủ chủ
tịch hát và ngâm thơ cho Bác Hồ. Cụ cũng
đă từng hát các bài Ca trù mới ca ngợi
cách mạng tại Hội trường Ba đ́nh phục vụ
các đại biểu trong và ngoài nước. Cụ
đựơc bà trẻ của ḿnh là Phó Thị Yến (là
bà trẻ) và cụ thân sinh - nguyên là Quản
ca của giáo phường Khâm Thiên - truyền
dạy. Sau năm 1954 do hoàn cảnh lich sử
nghệ nhân Phó Thị Kim Đức đă chuyển sang
hát Chèo và làm việc trong Đài tiếng nói
Việt Nam.
Từ năm 1954 đến những năm cuối những năm
80 đầu những năm 90 do hoàn cảnh lịch
sử, đa số các nghệ nhân c̣n lại ở ngoài
phía Bắc đă buông phách không ra hát
nữa, người c̣n ra hát như cụ nghệ nhân
Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc th́ không
truyền dạy cho ai. Hai thế hệ nghệ nhân
đă về theo tổ tiên mà không để lại được
ǵ. Cơ hồ môn nghệ thuật Ca trù đă được
cả thế giới công nhận có nguy cơ bị mất
không c̣n ǵ.
Với kinh nghiêm của hơn 60 năm tuổi
nghề, cộng với việc ngay từ c̣n nhỏ đă
được bà trẻ và cha dạy dỗ căn bản khuôn
phép. Trước việc thất truyền của nghề tổ
trong hơn 30 năm buông phách nghệ nhân
Phó Thị Kim Đức đă hoàn thành xong một
công việc mà không một ai có thể làm nổi
đó là việc ghi chép phục hồi lại một
cách khuôn khổ nhiều điệu hát làm nền
tảng cho việc dạy và học Ca trù. Một số
làn điệu ca trù hiện giờ cụ Phó Thị Kim
Đức ghi lại được gồm có:
Bắc
phản
Mưỡu
Hát nói
Gửi thư
Đọc thơ, Thổng, Dồn
Đọc phú
Chừ khi
Hát ru
Cung bắc
T́ bà
Kể truyện
Hăm
Ngâm vọng
Sẩm cô đầu
Ả phiền (ba mươi sáu giọng)
Giáo trống
Giáo hương
Thét nhạc
Hát giai
Bài bông (múa)
Ca đàn
Đào luồn kép vói
v.v....
Như vậy có thể nói Nghệ nhân Phó Thị Kim
Đức đă giữ được nhiều nhất các thể điệu
Ca trù. Đó là phần khuôn khổ căn bản.
Ngoài ra, Cụ c̣n nghiên cứu và biến tấu
được các khổ phách với nhiều kỹ thuật
đạt đến mức tuyệt kỹ. Hiện giờ cụ đă
truyền lại được nghề tổ cho một số người
thuộc thế hệ trẻ về phách, hát, đàn và
các phép cầm trống chầu.
4. Nghệ Nhân
Nguyễn Thị Chúc
Năm nay 73 tuổi, gốc Hà Tây là em họ
của nghệ nhân Phó Thị Kim Đức và cả hai
cùng học một thầy, nhưng Nghệ Nhân
Nguyễn Thị Chúc không phát triển được vả
lại vốn các thể, làn điêu giữ lại được
ít, hầu như do tuổi già nên cũng rơi văi
nhiều.
Các làn điệu c̣n giữ lại được:
Bắc
phản
Mưỡu
Hát nói
Gửi thư
Cung bắc
T́ bà
Hăm
Ngâm vọng
Sẩm cô đầu
Ả phiền
Ca đàn
Dâng hương
5. Nghệ nhân -
Nhà Thơ Ngô Linh Ngọc
Là một cuốn từ điển sống về văn hoá
Ca trù - vốn là Nhà Thơ, đồng thời là
một nghệ sĩ cầm trống chầu, với nhiều
ngón trống tài hoa, song tuổi cũng đă
cao (ngoài 80 tuổi). Công tŕnh nghiên
cứu: Tuyển tập thơ Ca trù tập 1,
2
Trong cuốn sách này, ngoài việc tập hợp
các bài thơ Ca trù tiêu biểu, Nhà Thơ
cũng đă nghiên cứu và tổng kết một cách
chi tiết về các phép cầm chầu trong ca
trù.
6. Nhóm ca trù
Thái Hà.
Trước thuộc ấp Thái Hà cho nên đặt
tên là Ca trù Thái Hà. Thời kỳ thịnh đạt
nhất của Ca Trù Thái Hà gắn liền với tên
tuổi của hai đào nương đó là cụ Phó Thị
Yến và cụ Như Tuyết. Khoảng đầu thế kỷ
20, bà Như Tuyết đă được phong làm Đào
Ngự vào cung hát cho vua Khải Định. Hiện
nay Nhóm Ca trù Thái Hà thành lập gồm 4
người:
Ông
Nguyễn Văn Mùi (Trống)
Anh Nguyễn Văn Khuê (Đàn)
Anh Nguyễn Văn Tiến (Đàn)
Chị Nguyễn Thuư Hoà (Hát).
Trong đó Ông Nguyễn Văn Mùi học trống từ
thế hệ trước trong gia đ́nh. Anh Nguyễn
Văn Khuê, Nguyễn Văn Tiến học đàn của
Nghệ nhân Phó Đ́nh Kỳ. Chị Nguyễn Thuư
Hoà có được đến thụ giáo cụ nghệ nhân
Quách Thị Hồ và học theo phong cách hát
và phách cụ Quách Thị Hồ. Tuy vậy tiếng
phách cũng chưa được rơ ràng.
7. Nhóm ca trù Hà
Tây
Hà Tây là một mảnh đất có truyền
thống về Ca trù. Tư liệu để lại chứng
minh rằng Hà Tây có nhiều giáo phường
hát Ca trù ngay bên cạnh Thăng Long,
thông qua hệ thống bia kư với nội dung
bán bản quyền hát cửa đ́nh giữa các giáo
phường với nhau. Hiện giờ theo công
tŕnh Nghiên cứu của Thạc sĩ Nguyễn Xuân
Diện th́ hiện giờ tại Hà Tây có 31 văn
bia vói nội dung như trên. Trong đó có
12 bia thuộc về thế kỷ XVII, 13 bia
thuộc thế kỷXVIII, 7 bia thuộc thế kỷ
XIX. Trong đó bia sớm nhất là bia Tân
tạo tác bi văn khế hiện đang để tại đ́nh
làng Tiên Lữ xă Phụng Châu huyện Chương
Mĩ, dựng vào năm 1657. Các bia phân bố
hầu hết các huyện trong tỉnh Hà Tây hiện
nay với các địa danh: Khanh Tân, Quảng
An, Sơn Lộ, Long châu, Phương bản, Tiên
Lữ, gần đây đă phát hiện thêm cả những
tấm gỗ ghi khế ước về việc phân bố số
tiền hát Cửu đ́nh Thuỵ Phiêu huyện Ba V́
chứng tỏ Hà Tây được xem như một mảnh
đất không những có những giáo phường lâu
đời mà c̣n chứng tỏ Ca Trù phát triển
rất lớn mạnh.
Hiện giờ tại Hà Tây h́nh thành một Nhóm
Ca trù Hà Tây tập hợp được nhiều người
tham gia. Đă sưu tập được các làn điệu
Ca trù hiếm ở tại Hà Tây:
Chước
Cẩm Hồi Văn
Huỳnh Đoài
Dựng Thi
Phú Huỳnh
Hát Cung Nao
Mưỡu Dựng
…
Dựng Thán Tức
Dựng Tàng thân điểu
Dựng Nam thán
Dựng Đối văn
Ca trù Ca trù Hà Tây hiện có được một số
làn điệu lạ, cũng như các làn điệu mà
hiện nay vẫn c̣n đang hát như:
Phần
hát nói
Phần hát mưỡu
Hát Bắc Phản
Hát T́ bà
Hát Ru
Hát Sẩm
Các làn điệu Ca trù Hà Tây (phách, hát,
đàn) chủ yếu do Cụ Nguyễn Văn Khôi
truyền dạy. Cụ Nguyễn Văn Khôi bị mù,
nay đă 86 tuổi nên tiếng đàn, tiếng
phách cũng có phần hạn chế.
8. Nhóm các
nghệ sĩ Kim Dung, Trang Nhung, Thuư Đạt.
Xuất thân từ các nghệ sĩ ngâm thơ,
hát cải lương. Do trước đây có được học
một khoá học hơn 20 tuần do Bộ Văn hoá
tổ chức do Cụ Nghệ Nhân Quách Thị Hồ,
Nguyễn Thị Phúc và cả Nghệ Nhân đàn đáy
Đinh Khắc Ban giảng dạy nên có chuyển
sang hát Ca trù.
Tuy vậy các nghệ sỹ này đềy yếu về phách
- một trong những yếu tố quan trọng của
nghệ thuật Ca trù.
9. Câu lạc bộ
Hà Nội (Bích Câu)
Thành lập: năm 1991
Chủ Nhiệm CLB: Cô Lê Thị Bạch Vân
Ngày sinh hoạt: Chủ nhật tuần thứ 2
trong tháng và chủ nhật tuần thứ tư cuối
tháng
Hiện giờ trong CLB có hai người hát
chính là nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc và cô
Lê Thị Bạch Vân ngoài ra c̣n có chị Ngọc
Hân học tṛ của Nghệ nhân Nguyễn Thị
Chúc. Sau này có thêm chị Yên và chị
Dung đuợc đào tạo từ lớp Đào tạo diễn
viên trẻ hát ca trù do quỹ Ford tài trợ
dạy ở Nhạc viện Hà Nội tháng 10, 11 năm
2002 vừa qua. Kép đàn của CLB là ông Ngô
Trọng B́nh người Thanh Hoá.
Về chuyên môn:
* Cô Lê Thị Bạch Vân
Là học tṛ của nghệ nhân đàn đáy Chu Văn
Du. Là người say sưa và nhiệt t́nh với
nghệ thuật Ca trù. Trong điều kiện c̣n
nhiều khó khăn vẫn duy tŕ được hoạt
động của Câu lạc bộ Ca trù Hà nội hơn 10
năm qua. Cô Lê thị Bạch Vân là người hát
theo phong cách của cụ Quách Thị Hồ, và
biết nhiều làn điệu ca trù. Tuy vậy
giọng hát và tay phách vẫn có những hạn
chế nhất định.
* Lê Ngọc Hân
Là học tṛ của nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc
nhưng cũng chỉ mới học trực tiếp được
một vài làn điệu thông thường, phần
nhiều là học qua băng, gần đây có tham
dự lớp đào tạo diễn viên trẻ hát Ca trù
do quỹ Ford tài trợ và được thụ giáo cô
Thuư Hoà trong 2 tháng. Phách có pha
thêm phong cách chị Thuư Hoà bên Nhóm Ca
Trù Thái Hà.
* Vốn Ca Trù hiện có:
Phần
hát nói
Phần hát mưỡu
Hát Bắc Phản
Hát T́ bà
Hát Ru
Hát Sẩm
* Chị Dung và chị Yên
Mới ra nhập CLB được chủ nhiệm Lê Thị
Bạch Vân cử đi học lớp Đào tạo diễn viên
trẻ hát ca trù do quỹ Ford tài trợ dạy ở
Nhạc viện Hà Nội tháng 10, 11 năm 2002.
Hiện nay cũng chỉ mới hát được vài điệu
học oử lợp mà thôi.
* Vốn Ca trù hiện có:
Phần
hát nói (Hồng Hồng, Tuyết Tuyết).
Hát ru
Hát sẩm
* Kép đàn Ngô Trọng B́nh
Ra nhập CLB cách đây 4 năm, là người
Thanh Hoá. Nghệ nhân Ngô trọng B́nh hoc
đàn đáy từ nhỏ và đi đàn từ năm 13 tuổi.
Do điều kiện lịch sử đă bỏ đàn suốt 53
năm. Gần đây khi tham gia câu lạc Bộ ca
trù Hà nội mới đàn lại.
© 2003
talawas
Trần Ngọc Linh (1984) hiện học
năm thứ 3 (khoá 46), khoa Văn học,
trường Đại học khoa học xă hội và nhân
văn - Đại học quốc gia, Hà nội
[1] Báo Lao Động, bài Phong
tặng nghệ nhân dân gian, Tôn vinh các "báu
vật nhân văn sống" của tác giả Việt Văn,
số 112/2003 ra ngày 22 tháng 4 năm 2003,
trích lời phỏng vấn ông GS. Tô Ngọc
Thanh - Chủ tịch hội đồng xét tặng|
[2] Từ tháng 10 đến tháng 12
tại Nhạc Viện Hà Nội., Cục nghệ thuật
biểu diễn đứng ra tổ chức một lớp "Đào
tạo diễn viên trẻ hát Ca trù" dưới nguồn
vốn tại trợ của quỹ Ford
[3] Các bài thơ trong bản dịch
này, do Việt Anh dịch thơ.
|