Dân Ca Nam Bộ
ói
đến nghệ thuật ca hát dân gian cổ truyền Nam
Bộ mà chỉ đóng khung trong một số làn điệu
vọng cổ hay bài bản Cải lương, ca nhạc tài
tử, thì quả chưa đầy đủ. Mặc dầu chúng ta
không phủ nhận tính hấp dẫn, yếu tố truyền
cảm gây xúc động mạnh của các thể loại ca
hát đó, nhưng đứng trên góc độ nghiên cứu mà
xem xét, thì sự phiến diện nói trên có thể
đưa đến những nhận định không toàn diện, và
hiện tượng nhầm lẫn giữa ngọn và gốc có thể
xảy ra. Nội dung vấn đề trao đổi của bài
viết này nhằm tìm hiểu tính chất phong phú
của nền dân ca Nam Bộ, một bộ phận trong kho
tàng âm điệu dân gian phong phú và quí báu
của đất nước ta.
Nói đến Nam Bộ, chúng ta nghĩ đến một vùng
đất màu mỡ có phong cảnh thiên nhiên xinh
đẹp hữu tình, có tài nguyên giàu có, trù phú.
Không thể quên được con người Nam Bộ với
tính tình cởi mở, hào hiệp, nặng nghĩa nhiều
tình... mà hình như đất nước thiêng liêng đã
dành riêng cho mảnh đất phương Nam này! Từ
Đồng Nai, Long Khánh, Biên Hòa, Đất Đỏ...
với những lô cao su thẳng tắp, bạt ngàn,
sừng sững hiên ngang... như muốn vươn lên
hàng triệu cánh tay xanh biếc, rậm dày...
che kín cả khoảng trời mênh mông... chúng ta
đi dần xuống miền châu thổ Cửu Long với
những cái tên nghe "là lạ" "dễ thương" như:
Mỹ Tho, Bến Tre, Long Xuyên, Cần Thơ, Rạch
Giá... băng qua những "tấm thảm vàng tươi"
đang óng ánh trĩu cành phơi mình dưới ánh
nắng chói chang của miền gần xích đạo. Sau
đó, chúng ta sẽ được nhẹ nhàng, ung dung
khua từng nhịp chèo nhặt khoan trên những
dòng kênh lăn tăn gợn sóng, dưới những rặng
dừa xanh vào những buổi chiều êm đẹp... rồi
để có dịp bâng khuâng nghe những câu hò về
đêm ngân vang dòng sông, bến nước... và khi
tới tỉnh Minh Hải lắm cá nhiều tôm, đặt chân
lên mũi Viên An, mỏm đất tận cùng của quê
hương phương Nam... nghe biển Đông sóng vỗ
quanh năm, một lần nữa, chúng ta càng được
khẳng định thêm về khả năng vĩ đại chinh
phục thiên nhiên, cải tạo hiện thực của con
người trước bao nhiêu biến cố. Phải chăng
phong cảnh thiên nhiên của thực tại vốn tràn
đầy thơ mộng, nên càng khơi nguồn âm điệu
dạt dào cho dân ca Nam Bộ giàu chất trữ tình,
đậm màu thi vị... chắp cánh cho những hoài
bão ước mơ sớm trở thành hiện thực...
Chúng ta hãy làm quen với một đoạn hò tâm
tình:
... Hò ơi!... Nho nhỏ như ai, chớ còn nho
nhỏ như em đây luôn chặt dạ bền lòng. Dẫu
cho nước Đồng Nai có chảy cạn, đá Đồng Nai
có bị mòn, thì thủy chung như nhứt, trước
sau em vẫn giữ sắt son lời nguyền... ơ
(Hò miền Đông Nam Bộ)
Hay những lời "oán trách" nhau trong điệu hò
Trà Vinh:
Hò ơi... Tay cắt tay bao nỡ... ruột cắt ruột
sao đành! Một lời thề biển cạn non xanh.
Chim kêu dưới suối, vượn hú trên nhành, qua
không bỏ bậu ơ ơ... mà sao bậu đành bỏ qua ơ
ơ...
Cũng như tên nhiều miền của đất nước, hò là
một điệu dân ca phổ biến ở Nam Bộ nói riêng.
Hò được gắn liền với sông nước, với khung
cảnh êm ả, phẳng lặng. Với một âm hưởng
phóng khoáng, tự do, mang ít nhiều nhân tố
"tự sự", "vịnh thán", hò thường được dùng để
ngợi ca hay đề cao một đạo lý tốt đẹp nào
đấy như lòng chung thủy sắt son, niềm tin
yêu chặt dạ bền lòng... Âm điệu của các thể
loại hò ở từng địa phương thường không giống
nhau về chi tiết luyến láy, về cách xử lý
các "âm điệu" giữa câu, hay có đôi khi cũng
khác nhau về kết cấu toàn bộ. Thí dụ như: hò
Đồng Tháp thì kết ở một nốt thuộc "át âm",
nhưng trong lúc tuy cùng một điêu thức
"xon", nhưng hò Miền Đông, hò Bạc Liêu, hò
Gia Ninh, thì lại dùng nốt chủ âm để kết
hoàn toàn.
Việc xử lý kếu cấu này tùy thuộc vào phong
cách, vào nội dung của từng vùng, nhằm thể
hiện được tính cách riêng biệt, màu sắc độc
đáo, chứ không phải là không có dụng ý.
Thông thường do ý nghĩa của nội dung lời hò
giữ vai trò quyết định, nên giai điệu của hò
này được tiến hành theo đường nét bình ổn,
"lên dần" hoặc "xuống dần", cố tránh những
bước nhảy quãng đột xuất, nhằm tạo ra một
phong vị êm đềm, nhẹ nhàng như kiểu "ngân
nga, tự sự", nặng đi vào chiều sâu lắng hơn
là ầm ĩ, huyên náo. Hoàn cảnh xã hội ngày
càng thay đổi, nên nội dung và hình thức hò
cũng được cải biên và bổ sung cho thích hợp.
Ví dụ như, khi Mặt trận Bình dân bên Pháp
chiếm được nhiều thắng lợi trên địa hạt
chính trị, thì ở Nam Bộ, kế bên những loại
hò mộc, hò huê tình, hò đối, hò thơ, hò
truyện... lại xuất hiện thêm một loại hò gọi
là hò quốc sự. Nội dung hò quốc sự đề cập
đến những vấn đề chính trị cổ vũ và động
viên tinh thần yêu nước của quần chúng. Sau
đây là một đoạn của hò quốc sự.
Nữ (vấn):
Hò ơi! Trên đời mọi vật bẩn nhơ
Đều nhờ rửa nước trở nên trong lành
Đến khi nước phải nhơ tanh
Lấy gì mà rửa xin anh phân cùng...
Nam (đáp):
Hò ơi! Em ơi trải bao thế hệ oai hùng
Nước nhà lâm nạn anh hùng ra tay
Hi sinh bao quản thân dài
Máu đào từng rửa, "nước" rày thành
trong...
Nội dung lớn của hò phần lớn dựa trên cơ sở
của lối thơ lục bát, nhưng khi xử lý thì có
thể giữ nguyên, hoặc có khi lại mở rộng dài
hơn để khớp với âm điệu của câu hò. Vì thế
việc sáng tác ra những câu hò được đông đảo
quần chúng tham gia dễ dàng và nhanh chóng
thu hút được sự hâm mộ của quần chúng. Về
tháng Bảy Âm lịch, thường là mùa cấy rộ và
cũng là lúc mà các "vạn" cấy (như phường,
hội) được có dịp trổ tài vừa cấy giỏi lại
vừa hò hay... và dĩ nhiên sau những lần gặp
gỡ, biết mặt... biết tài nhau... là đến
những lời hò hẹn cho những ngày sau mùa gặt
hái...
Kế bên những điệu hò trữ tình, êm dịu, dân
ca Nam Bộ còn bao gồm những bài hát lý (hay
là những điệu lý). Lý là những khúc hát ngắn
gọn, vui tươi, dí dỏm, mang tính chất lạc
quan yêu đời rõ nét với các nhịp điệu phong
phú và sinh động.
Như bài Lý ngựa ô (Nam Bộ):
Lý con ngựa... ngựa ô (2 lần)
Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen
Búp sen lá đậm - Dây cương đầm thấm
Cán roi anh bịt đồng thà...
Lá anh í a đưa nàng... là anh đưa nàng
về dinh (2 lần)
... Nhưng cũng có khi, lý lại được pha lẫn
vào chút ít màu sắc trữ tình man mác như bài
Lý lu là:
Ai về giòng dứa mà qua truông
Nhắn thăm lu là với bậu ơ bậu ơi!
Bỏ buồn cho nàng ơi! mà cho ai?
Bỏ buồn cho nàng ơi! mà cho anh!
Xét về phương diện âm hưởng nói chung toát
ra từ các điệu hò và Lý Nam Bộ, chúng ta rút
ra được chất tinh khiết, chân thật, tuy mộc
mạc, pha lẫn chút ít âm điệu mênh mông của
hò, với nhịp điệu sinh động, vui phơi phới
đầy tươi mát của các điệu lý. Đặc biệt về
mặt kết cấu, lý cũng có những phân biệt câu
cú, khúc, đoạn rõ ràng. Sự trình bày phần âm
điệu được mạch lạc, có tính nhất quán toàn
bộ, và dễ phát hiện, không cầu kỳ, phức tạp,
ngổn ngang.
Cách vận dụng và xử lý các hệ thống điệu
thức dân gian 5 cung hoặc 7 cung, hoặc 5
cung có thêm bớt bất thường trong thể loại
lý, càng tạo thêm được nhiều sắc thái về
giọng điệu, càng làm phong phú thêm, mở rộng
ra nhiều khả năng kết hợp chặt chẽ giữa âm
điệu và ngôn ngữ. Hiện nay, theo chỗ chúng
tôi được biết thì các cơ sở nghiên cứu đã
sưu tầm và chỉnh lý hơn 40 điệu lý như: Lý
con sáo, Lý giao duyên, Lý cây bông, Lý chúc
rượu, Lý chia tay, Lý cây gòn, Lý con chuột,
Lý bình vôi v.v...
Mỗi điệu lý nói trên đều có một nội dung rõ
rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản
xuất (như Lý đất dòng chẳng hạn), hoặc ca
ngợi những đức tính tốt trong cuộc sống (như
Lý Ba Tri), cái đẹp trong thiên nhiên (Lý
cây xanh) hoặc oán trách nhau (như Lý lu là)
hoặc mỉa mai, châm biếm bọn lý trưởng, cường
hào (như Lý con chuột, Lý bình vôi, Lý con
sam). Các chủ đề nhạc trong các điệu lý rất
nhiều vẻ, dưới những hình thức rất độc đáo,
nhưng lại rất quen thuộc với phong vị cổ
truyền của quần chúng từ lâu đời.
Trong quá trình cải biên, bổ sung, dĩ nhiên
có một số chủ đề trong các điệu lý được sáng
tạo, nâng cao. Trong số ấy, chúng ta có thể
lấy bài Ru con làm ví dụ. Từ bài Lý giao
duyên của vùng Trị Thiên, bài Lý giao duyên
của Nam Bộ đã tiến lên trong một quá trình
hoàn chỉnh hơn dưới một tựa đề mới là Ru
con. Đó cũng là một quy luật, một đặc điểm
cần lưu ý khi nghiên cứu vốn dân gian cổ
truyền để chúng ta phân biệt được tính giao
lưu và tính bổ sung đổi mới luôn luôn của
nó.
Lời bài hát Ru con, dân ca Nam Bộ:
Gió mùa thu... Mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm
Hỡi chàng... chàng ơi!
Hỡi người... người ơi!
Em nhớ tới chàng... Em nhớ tới chàng!
Hãy nín! nín đi con!
Hãy ngủ! ngủ đi con!
Con hời... con hỡi...
Con hỡi... con hời... hỡi con!...
Toàn bộ nội dung của bài hát được diễn tả
trong sáu câu. Chỉ với 6 câu thôi, nhưng
cũng đủ để vẽ nên một "bức tranh âm thanh"
tuyệt diệu:
..."Giữa một đêm thu tĩnh mịch... lắng nghe
từng cơn gió lành lạnh nhẹ lướt ngoài khung
cửa... người mẹ trẻ ấy... vừa ru con, vừa
nghĩ đến người thương... vừa nghĩ đến người
thương, vừa ru con!...". Âm điệu đơn giản,
lời lẽ ngắn gọn, cô đọng đến mức không thể
nào thêm được vào đấy một nốt hay một chữ
nào nữa cả...
Sự kết hợp như hình với bóng của âm điệu và
lời ca đã thúc đẩy thêm nhanh chóng sự gần
gũi giữa hình tượng nghệ thuật và quần
chúng. Có những lúc, chúng ta như nghe được
cả những nức nở, nghẹn ngào... đang trào lên
từng đợt, từng đợt như:
Hãy nín! nín đi con
Hãy ngủ! ngủ đi con!
Con hời.. con hỡi
Toàn bộ bài hát được kết thúc bằng một sự
đóng lại thư thả trên đường nét đi xuống của
giai điệu chậm rãi... nhỏ dần... và chấm dứt...
nhưng chúng ta như vẫn còn thấy đọng lại đâu
đây hình ảnh người thiếu phụ đêm thu... ru
con ngủ..., hình ảnh của một sự đợi chờ...
của một lòng sắt son chung thủy!
Chất liệu dân ca Nam Bộ đã được nhiều nhạc
sĩ quen biết vận dụng vào những ca khúc hiện
đại, và có nhiều ca khúc thành công. Bằng
những phong cách riêng biệt, bút pháp độc
đáo của mình, các nhạc sĩ kể trên đã góp
công một cách đáng kể vào quá trình kế thừa,
tiếp tục phát huy và nâng cao hơn nữa chất
liệu quý báu cổ truyền của dân ca Nam Bộ đã
được nhân dân từ thế hệ này sang thế hệ khác
gìn giữ và nuôi dưỡng...
Dân ca là một mảnh đất trù phú, một kho tàng
âm điệu vô tận, nơi tập trung của tất cả
những nhân tố thể hiện trực tiếp nhất, sinh
động nhất tính cách dân tộc của một địa
phương hay một dân tộc nào đó. Và nền âm
nhạc chuyên nghiệp với tất cả những hình
thức phong phú muôn màu muôn vẻ của nó cũng
đều bắt nguồn từ di sản dân tộc, từ vốn cổ
truyền của thế hệ trước để lại. Vì thế, tìm
hiểu được kho tàng quý báu ấy đã là một
chuyện không dễ, nhưng cái khó hơn hết, cái
quyết định hơn hết là cần phải biết gạn đục,
khơi trong, phải biết chọn lọc, lấy ra cái
gì "tinh" nhất để phục vụ tốt cho cái hiện
tại. Đó là vấn đề rất thiết yếu mà các nhạc
sĩ nghiên cứu, sáng tác, biểu diễn, huấn
luyện, không riêng cho một địa phương nào,
đều nhận thấy trách nhiệm của mình trước
nhân dân trong việc xây dựng một nền văn học
nghệ thuật tiên tiến có tính chất dân tộc và
tính nhân dân sâu sắc.
Minh Hải (st) |