| 
																	
																	
																	Đ́nh, chùa 
																	Thượng Đồng 
																	và truyền 
																	thuyết về bà 
																	chúa Lẫm 
																	
																	Đă từ lâu 
																	trong dân 
																	gian xứ Kinh 
																	Bắc truyền 
																	tụng nhau 
																	truyền 
																	thuyết về 
																	các “Bà Chúa”,
																	
																	 “Vua 
																	Bà” vùng ven 
																	cửa sông Ngũ 
																	Huyện Khê. 
																	Vùng đất này 
																	gồm một vệt 
																	làng cổ 
																	thuộc địa 
																	bàn hai xă 
																	Vạn An, Ḥa 
																	Long (thành 
																	phố Bắc Ninh); 
																	trong đó có 
																	làng Thượng 
																	Đồng nổi 
																	tiếng với 
																	truyền 
																	thuyết bà 
																	“Chúa Lẫm”.   
																	
																	Làng Thượng 
																	Đồng có tên 
																	nôm là làng 
																	Lẫm thuộc xă 
																	Vạn An vốn 
																	là một làng 
																	cổ nằm trên 
																	quả núi thấp 
																	cạnh cửa 
																	sông Ngũ 
																	Huyện Khê. 
																	Quanh làng 
																	c̣n những 
																	dộc nước, ao, 
																	hồ, đầm cổ, 
																	những xứ 
																	đồng với tên 
																	cổ như: đồng 
																	Thóc, đồng 
																	Gạo, đồng 
																	Quan, đồng 
																	Phát... càng 
																	làm tăng 
																	thêm vẻ 
																	huyền bí của 
																	truyền 
																	thuyết bà 
																	Chúa Lẫm. 
																	
																	 Thượng Đồng 
																	có quần thể 
																	di tích đ́nh, 
																	chùa cổ kính: 
																	Đ́nh Thượng 
																	Đồng vốn 
																	được xây 
																	dựng từ lâu 
																	đời với quy 
																	mô lớn, chạm 
																	khắc đẹp 
																	nhưng bị phá 
																	trong tiêu 
																	thổ kháng 
																	chiến chống 
																	Pháp; những 
																	năm gần đây 
																	dân làng 
																	khôi phục 
																	lại theo 
																	kiểu thức 
																	truyền thống. 
																	Đó là ṭa 
																	đại đ́nh bốn 
																	mái đao cong 
																	duyên dáng 
																	và c̣n bảo 
																	lưu được 
																	nguyên thần 
																	tích, sắc 
																	phong, bia 
																	đá, hoành 
																	phi, câu đối 
																	cho biết về 
																	người được 
																	thờ là “Cao 
																	Sơn đại 
																	vương” (Thần 
																	Núi) và “Đức 
																	Vua Bà” (dân 
																	gian gọi là 
																	bà Chúa Lẫm). 
																	C̣n chùa 
																	Thượng Đồng 
																	có tên chữ 
																	là “Nguyên 
																	Thuyền tự” 
																	cũng vốn 
																	được xây 
																	dựng từ lâu 
																	đời, nhưng 
																	đến thời vua 
																	Bảo Đại năm 
																	thứ 4 (1929) 
																	được xây 
																	dựng lại với 
																	quy mô lớn 
																	theo kiểu 
																	“nội công 
																	ngoại quốc” 
																	để phía 
																	trước thờ 
																	Thần, phía 
																	sau thờ Phật 
																	và c̣n giữ 
																	nguyên được 
																	kiến trúc 
																	điêu khắc 
																	đến ngày 
																	nay. 
																	
																	Chùa Thượng 
																	Đồng không 
																	những thờ 
																	Phật mà c̣n 
																	thờ Thần. 
																	Ṭa tiền 
																	đường chính 
																	là nơi đặt 
																	hương án, 
																	ngai, bài 
																	vị, siêu đao 
																	bát bửu thờ 
																	Thần; tại 
																	đây c̣n đôi 
																	câu đối cổ 
																	phản ánh về 
																	việc thờ 
																	Thần, Phật 
																	như sau: 
																	
																	 “Phật 
																	tự viên 
																	cường linh 
																	măn tọa 
																	
																	
																	Thần từ y 
																	phả sắc hoà 
																	ban”. 
																	
																	Việc thờ Đức 
																	Vua Bà c̣n 
																	được thể 
																	hiện ở lễ 
																	hội truyền 
																	thống: hàng 
																	năm cứ đến 
																	ngày 10 
																	tháng giêng, 
																	dân làng lại 
																	tổ chức giỗ 
																	Vua Bà và 
																	đến ngày 
																	mồng 10 
																	tháng 8 th́ 
																	mở hội đ́nh 
																	làng. Xưa 
																	kia, để mở 
																	hội đ́nh 
																	đám, ngay từ 
																	mồng 9 làng 
																	tổ chức rước 
																	sắc phong từ 
																	ban thờ sắc 
																	ở chùa về 
																	đ́nh để tế 
																	lễ. Ngày 
																	mồng 10 
																	chính hội, 
																	hai ông Quan 
																	đám và các 
																	giáp trong 
																	làng phải 
																	rước cỗ chay 
																	ra đ́nh để 
																	tế thần. Cỗ 
																	chay là các 
																	loại bánh, 
																	hoa quả của 
																	địa phương 
																	như oản, chè 
																	kho, bánh 
																	mật, hồng, 
																	chuối... Sau 
																	phần lễ là 
																	phần hội với 
																	nhiều tṛ 
																	dân gian vui 
																	chơi giải 
																	trí như 
																	tuồng, chèo, 
																	ảo đào, vật, 
																	chọi gà, 
																	cờ... và đặc 
																	biệt là tục 
																	hát Quan 
																	họ.  
																	
																	Giá trị nổi 
																	bật của đ́nh, 
																	chùa Thượng 
																	Đồng là c̣n 
																	bảo lưu được 
																	hệ thống cổ 
																	vật như thần 
																	tích, sắc 
																	phong, bia 
																	đá, hoành 
																	phi, câu đối. 
																	Các đạo sắc 
																	phong của 
																	các triều 
																	vua phong 
																	tặng người 
																	được thờ có 
																	các niên đại 
																	như sau: 
																	Cảnh Hưng 
																	thứ 4 
																	(1743), Cảnh 
																	Hưng 44 
																	(1783), Tự 
																	Đức 3 
																	(1850), 2 
																	đạo Thiệu 
																	Trị 4 
																	(1844), Minh 
																	Mệnh 2 
																	(1821), Đồng 
																	Khánh 2 
																	(1886), Duy 
																	Tân 3 
																	(1909), Khải 
																	Định 6 
																	(1911). Đặc 
																	biệt là tấm 
																	bia đá của 
																	đ́nh Thượng 
																	Đồng có tên 
																	là “Thượng 
																	đẳng tối 
																	linh” được 
																	dựng khắc 
																	năm Tự Đức 3 
																	(1850) cho 
																	biết lai 
																	lịch bà Chúa 
																	Lẫm và có 
																	thể tóm tắt 
																	như sau: Đức 
																	Vua Bà là 
																	người thôn 
																	Quả Cảm, 
																	sinh vào năm 
																	Thiên ứng 
																	Chính B́nh 
																	thứ 4 
																	(1235), dáng 
																	vẻ không 
																	trần tục, 
																	thái độ thật 
																	khác thường. 
																	Cha mẹ là 
																	người hiền 
																	lành nhân 
																	hậu, làm 
																	nghề nông và 
																	có thêm nghề 
																	buôn bán. 
																	Năm ông bà 
																	ngoài 30 
																	tuổi mà chưa 
																	có con, nên 
																	đi cầu tự ở 
																	chùa và được 
																	mộng Quan Âm 
																	cho một đóa 
																	mây trắng, 
																	sau đó sinh 
																	ra Đức Bà. 
																	Từ nhỏ đến 
																	lớn, Đức Bà 
																	luôn là 
																	người hiền 
																	lành nhă 
																	nhặn và tài 
																	sắc hơn 
																	người. Vào 
																	đời vua Trần 
																	Anh Tông, 
																	một hôm theo 
																	mẹ đến Tràng 
																	An bán hàng. 
																	Giữa đường 
																	bỗng gặp xa 
																	giá của nhà 
																	vua đi qua. 
																	Hai mẹ con 
																	sợ hăi liền 
																	lấp vào một 
																	bụi cây ven 
																	đường. Bỗng 
																	viên quan 
																	hầu cận vua 
																	đến bên bụi 
																	cây nói rằng: 
																	“Nơi ấy hiện 
																	lên một đóa 
																	mây trắng, 
																	mắt trời đă 
																	soi báo, 
																	người nào 
																	trốn ở đây 
																	phải mau mau 
																	ra nhận lệnh”. 
																	Mẹ con bà 
																	vội sửa áo 
																	quần để ra 
																	mắt nhà vua. 
																	Nhà vua thấy 
																	trước mặt là 
																	một cô gái 
																	đẹp tuyệt 
																	trần, liền 
																	xin mẹ già 
																	cho nàng về 
																	kinh, xuống 
																	chiếu cho mẹ 
																	hiền về quê 
																	phụng dưỡng. 
																	Đức Bà được 
																	nhà vua vô 
																	cùng yêu mến, 
																	cha mẹ được 
																	ban ân nhiều. 
																	Hầu hạ vua 
																	được 5 năm 
																	th́ Đức Bà 
																	có mang. Nhà 
																	vua ban sắc 
																	là Hoàng phi 
																	đệ tam cung, 
																	ban cho 72 
																	trang ấp làm 
																	bổng lộc 
																	riêng. Đức 
																	Bà đang mang 
																	thai th́ 
																	bỗng mang 
																	bệnh nặng 
																	rồi mất. Nhà 
																	vua vô cùng 
																	thương tiếc, 
																	đích thân 
																	làm lễ và 
																	truy tặng 
																	Hoàng hậu, 
																	lệnh cho 72 
																	trang ấp của 
																	Đức Bà phải 
																	thờ làm Phúc 
																	thần và cho 
																	quan trong 
																	triều hộ 
																	tống thi hài 
																	về an táng 
																	xây lăng tại 
																	địa đầu núi 
																	Hoàng Nghênh 
																	thuộc làng 
																	Quả Cảm (hiện 
																	nay lăng mộ 
																	vẫn c̣n). 
																	
																	Căn cứ theo 
																	văn bia đ́nh 
																	làng Thượng 
																	Đồng th́ 72 
																	trang, ấp (làng, 
																	xă) trong 
																	vùng cửa 
																	sông Ngũ 
																	Huyện Khê 
																	phải thờ Đức 
																	Vua Bà làm 
																	Phúc Thần, 
																	trong đó có 
																	thôn Thượng 
																	Đồng. Mặt 
																	khác, tại 
																	thôn Thượng 
																	Đồng c̣n có 
																	truyền 
																	thuyết kể 
																	rằng: Xưa 
																	kia bởi 
																	Thượng Đồng 
																	có núi và 
																	các dộc nước 
																	làm đường 
																	giao thông 
																	là nơi tập 
																	trung kho 
																	lương của 
																	Đức Vua Bà, 
																	các trang, 
																	ấp trong 
																	vùng là đất 
																	thực ấp phải 
																	tập trung 
																	lương thực 
																	về Thượng 
																	Đồng; cho 
																	nên núi được 
																	mang tên là 
																	“núi Lẫm”, 
																	làng mang 
																	tên là “làng 
																	Lẫm”, các 
																	cánh đồng 
																	xung quanh 
																	mang tên là 
																	đồng Thóc, 
																	đồng Gạo... 
																	Chính v́ vậy, 
																	Thượng Đồng 
																	là nơi thờ 
																	phụng Đức 
																	Vua Bà được 
																	các triều 
																	vua ban sắc 
																	phong và 
																	được lập bia 
																	đá để ghi 
																	khắc lại sự 
																	tích người 
																	được thờ, 
																	c̣n dân gian 
																	truyền tụng 
																	nhau Thượng 
																	Đồng là nơi 
																	thờ Bà Chúa 
																	Lẫm.   |