|
Nơi ra đời bài thơ “Thần” - Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Đại
Việt
Nơi ấy là đền Xà trên khu vực ngă ba Xà (nay thuộc xă Tam Giang - Yên
Phong - Bắc Ninh) nơi hội lưu sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu. Đền Xà thờ
Thánh Tam Giang - thượng tướng Trương Hống, phó tướng Trương Hát (là em).
Hai anh em ngài đều là bậc tướng, chí dũng song toàn, pḥ Triệu Việt
Vương, cầm quân đánh thắng quân Lương vào năm Canh Ngọ (550), giải phóng
đất nước Vạn Xuân khỏi ách áp bức của vua quan nhà Lương phương Bắc. Hai
anh em ngài là bậc đại nhân “sinh vi dũng tướng, tử vi minh thần”.
Công đức của anh em ngài rất lớn, nên được nhiều triều đại tặng phong mỹ
tự: “Đại vương thượng đẳng thần”. Hơn 300 làng ven các triền sông Cầu,
sông Cà Lồ, sông Thương có đ́nh đền thờ Đức Thánh Tam Giang. Riêng các
làng bên ven triền sông Cầu kể từ thượng nguồn Đu Đuổm xuống hạ lưu Lục
Đầu, hầu như đều tôn thờ Thánh Tam Giang làm Thành hoàng.
Vào đầu triều đại Lư Nhân Tông thế kỷ thứ XI, nhà Tống lăm le xâm lược
nước ta lần thứ 2. Tổng binh Lư Thường Kiệt thấu hiểu tâm đen của nhà
Tống, ông xây dựng pḥng tuyến Như Nguyệt, dài theo bờ nam sông Cầu (từ
ngă ba Xà trở xuống) để chặn bước tiến của quân xâm lược, khi chúng liều
lĩnh sang đánh nước ta. Quả nhiên năm 1076 (năm thứ 5 triều đại Lư Nhân
Tông) nhà Tống sai tướng Quách Quỳ, Triệu Tiết hợp binh với quân Chiêm
Thành, Chân Lạp hùng hổ sang đánh chiếm nước ta. Đến bờ sông Cầu, chúng
bị chặn đứng, phải lập trại đóng quân bên bờ Bắc, củng cố lực lượng, chờ
thời cơ vượt sông Cầu chọc thủng pḥng tuyến của quân ta, tiến về kinh
đô Thăng Long.
Một lần, Lư Thường Kiệt dẫn quân đi kiểm tra chiến tuyến, khi đến Phương
La, thấy có ngôi đền lớn bên ngă ba Xà, hỏi ra mới biết đây là đền Xà,
thờ nhị vị Đại Vương Tôn Thần họ Trương - Đức Thánh Tam Giang Trương
Hống, Trương Hát. Lư Thường Kiệt bèn truyền quân sửa lễ vào đền thắp
hương bái yết, cầu xin âm phù hộ quốc. Truyền thuyết về sự kiện lịch sử
này, dân trong vùng kể rằng:
Đêm ấy, nằm nghỉ ở đ́nh Xà - Ngọt, đang lúc chập chờn nửa tỉnh, nửa mơ,
Lư Thường Kiệt thấy hai vị thần nhân, mũ áo chói loà hiện ra. Lư Thường
Kiệt vội đứng dậy bái chào. Hai vị thần nhân cao lớn lẫm liệt khác
thường. Một vị mặt đen, mắt xanh, mặc áo bào trắng. Một vị mặt trắng,
râu dài, ḿnh khoác bào đỏ, bảo rằng: Mới tới thăm nhau buổi sáng mà đă
vội quên! Lũ giặc Tống kia, chỉ cần làm bạt hồn vía chúng, th́ chúng sẽ
tan. Anh em chúng tôi xin mang thần binh đến giúp ngài quét sạch lũ giặc...
Dứt lời liền ngâm bài thơ:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bấy giờ Lư Thường Kiệt mới biết, đấy là hai vị thần thờ ở đền Xà. Tiếng
ngâm vừa dứt, bỗng hai vị thần nhân hoá thành đôi rắn có mào, trườn về
phía sông Cầu.
Lư Thường Kiệt liền truyền quân đốt đèn, lấy bút nghiên và ông ngồi trầm
ngâm tự chép lại bài thơ Thần trong trí nhớ. Chép đi chép lại nhiều lần
mới nhớ đúng được lời của bài thơ. Lư Thường Kiệt đắc ư khẽ cất tiếng
ngâm. Mấy tỳ tướng chầu hầu nghe được, phấn chấn hẳn lên cũng lẩm nhẩm
học theo. Lư Thường Kiệt sai quân chép bài thơ Thần làm nhiều bản, gửi
tới tướng sĩ khắp chiến tuyến.
Hôm sau ông bí mật đưa đại quân vượt sông sang bờ Bắc, mở trận tập kích
vào đồn lũy giặc Tống. Lư Thường Kiệt đứng trước cửa đền Xà, bỗng nghe
từ trên không trung có tiếng ḥ reo, ngựa người rầm rập, khí giới loảng
xoảng cùng âm vang tiếng chiêng, tiếng trống theo nhịp bước quân đi. Ông
ngửa mặt nh́n lên, th́ thấy hai vị thần họ Trương, áo mũ xanh đỏ tề
chỉnh, ngự trên đám mây trắng, quân sĩ đứng hai bên giáo mác tua tủa.
Biết có thần binh trợ giúp, quân sĩ đều háo hức muốn xông ngay vào đồn
giặc. Liền đó, từ trên cao xanh trước cửa đền vọng xuống tiếng ngâm bài
thơ Thần “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư...” ngâm đi ngâm lại nhiều lần. Càng
về sau tiếng ngâm càng sang sảng. Nghe tiếng thơ rền vang, tinh thần
quân ta phấn chấn ào ạt xông lên giết giặc. Bên kia bờ Bắc, quân Tống
nghe tiếng thơ ngâm mà hoảng sợ, bạt vía kinh hồn. Trước sức tiến công
như vũ băo của quân ta, quân giặc tan vỡ thành từng mảng, bỏ chạy toán
loạn, dẫm đạp lên nhau. Xác giặc ngổn ngang trên cánh đồng Mai Thượng
(nay vẫn c̣n dấu ấn lịch sử là cánh đồng Xác và ngôi chùa Xác, sau đổi
lại là An Lạc Tự). Quân Tống đại bại, sau trận ấy vội vàng rút quân về
nước.
Đền Xà, nơi thờ vị Đại Vương Tôn Thần họ Trương – Thánh Tam Giang Trương
Hống, Trương Hát, nơi bài thơ Thần - bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của
nước Việt Nam ta được công bố đă được tu bổ lại. Trước cửa đền Xà, năm
2000 Nhà nước đă xây dựng một nhà bia h́nh tứ giác hai tầng mái. Bên
trong dựng một tấm bia lớn đặt trên ḿnh con rùa. Đầu rùa đặt một b́nh
hương. Mặt trước bia nh́n vào đền khắc bài thơ Thần bằng chữ Hán. Mặt
sau, phần trên dịch âm, phần dưới dịch nghĩa bài thơ Thần.
Bài thơ Thần - bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước ta, ra đời
trong bối cảnh lịch sử đặc biệt như vậy. Bài thơ có sức công phá vào
tinh thần và ư chí xâm lược của quân Tống; khích lệ tinh thần quyết
chiến, quyết thắng của quân ta, góp phần làm nên chiến thắng hào hùng
của quân dân thời nhà Lư đánh tan 10 vạn quân Tống bên bờ sông Như
Nguyệt.
Dương Quang Luân
|