|
-
CÓ
NHỮNG
ÔNG NGHÈ
-
không đỗ Tiến sĩ. . .
- Vơ Hương-An
-
Trong tập hồi kư
Thượng tứ ngày xưa, nhớ nhớ...quên quên
, đọc thấy
có đọan Quế Chi Hồ Đăng Định viết:
-
-
“Cái thằng bạn thứ hai là thằng Rô, con bác Nghè Đăi, mở tiệm bán thuốc Bắc
hiệu Phước Thọ Đường, bác gái mạ hắn th́ chuyên cầm đồ thượng vàng hạ cám.
Tôi cứ thắc mắc mấy chục năm ni mà chưa có dịp hỏi hắn... Là thường thường
ai đậu Tiến sĩ mới được kêu là ông Nghè, rứa th́ ba hắn đậu cái chi mà cũng
cứ gọi là ông Nghè?. . . Cũng tương tự như vậy, trong xóm tôi, ngă đầu Hậu
Bổ, cũng có bác Nghè Quế, thợ may, bạn của ba tôi, không biết có Tiến sĩ
không???” (tr.43)
-
Tôi
tin rằng dẫu Quế Chi có gặp lại người bạn cũ tên Rô mà nêu thắc mắc này th́
cũng không mấy hy vọng có lời giải đáp, bởi chuyện nghe và thấy sờ sờ mà
không đơn giản. Tôi có một ông anh rể, lấy bà chị con ông bác. Ông anh này
đầu quân vào ngạch công chức Nam triều. Tôi nhớ khi anh bắt đầu sớm vác ô
đi tối vác về th́ mẹ tôi dặn từ nay phải gọi bằng anh Thừa – sau mới biết là
gọi tắt của hai chữ Thừa phái, là hạng công chức Nam triều mới tuyển dụng,
đang c̣n ở giai đọan tập sự công việc chành chánh. -- Vài năm sau, lại
nghe mẹ tôi đổi kêu là anh Nghè, và bảo anh em chúng tôi cũng gọi như thế,
v́ “anh Thừa mới lên chức”. Trẻ con, biểu sao nghe vậy, cho đến khi đi học,
nghe thầy giảng rằng người đỗ Tiến sĩ mới được gọi là ông Nghè, bèn nghĩ
trong bụng: ḿnh có ông anh rể oai thiệt. Lớn lên, mới biết có những ông
Nghè không cần đỗ Tiến sĩ, và họ cũng không phải lọai
Tiến sĩ giấy,
như trong một bài thơ châm biếm của Nguyễn Khuyến:
-
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai;
-
Cũng gọi ông Nghè có kém ai;
-
. .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
-
Ng̣ai vụ những ông Nghè như thế này, tôi c̣n thấy trong xă hội ta ngày trước,
có những ông quan mà không phải quan. Chẳng hạn ông già vợ của bạn tôi
thường được mọi người kêu là ông Hường K. Tôi đinh ninh chắc ông cụ hồi
trước có làm quan, đến chức Hường (Hồng)lô Tự khanh nên mới được gọi như
thế. Sau mới biết là ông cụ vốn là y tá thượng hạng hưu trí của ngạch Bảo
hộ. Lại một ông khác, vốn là Phán sự Ṭa Khâm sứ Huế, cũng là công chức
thuộc ngạch Bảo hộ của Pháp, ban đầu được mọi người trong xóm kêu là ông
Phán, nhưng một thời gian lâu sau, lại đổi gọi là ông Hường, dù ông vẫn c̣n
làm việc cho Ṭa Khâm và thường mặc Âu phục, chứ chẳng thấy khăn đóng áo dài,
bài ngà, ǵ cả..
-
-
Xem
ra, việc một người không học hành đỗ đạt ǵ cả nhưng vẫn được gọi là ông
Nghè, hoặc không gia nhập quan trường nhưng vẫn được gọi ông Cửu, ông Bá,
ông Hàn, và việc một công chức thuộc quyền quản lư của chính quyền Bảo hộ
Pháp lại mang chức hàm của triều đ́nh Huế, là một hiện tượng phổ biến trong
xă hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Có ba con đường dẫn đến hiện tượng
đó. Hoặc người đó được thưởng hư hàm, hoặc
mua hư hàm, hay
đối hàm.
-
-
Trong hai ông nghè mà Quế Chi nêu ra, tôi nghĩ ông Nghè Quế thuộc lọai được
thưởng hư hàm, c̣n ông Nghè Đăi có thể thuộc lọai mua hư hàm. Hư hàm nghĩa
là có chức, có danh nhưng không có thực quyền.
-
-
Ai
đă có lần vào thăm bên trong lăng Khải Định, tức bên trong điện Khải Thành,
chỗ thờ vua Khải Định, đều thấy trên nóc điện có một bức bích họa rồng mây
rất đặc sắc. Đó là tác phẩm “Long vân khế hội”của nghệ nhân Phan Văn Tánh.
Nhờ tác phẩm này, ông được thưởng hàm Cửu phẩm văn giai, và từ đó người ta
gọi là ông Cửu Tánh. Đó là một hư hàm, chỉ để vinh danh, chứ ông Cửu Tánh
không có dự trong quan trường.
-
Hễ
một người dân nào đó có công lao đặc biệt, họ có thể được quan địa phương đề
bạt để triều đ́nh thưởng phẩm hàm, và đây là một lệ có từ lâu chứ không phải
mới sau này. Tôi nghĩ rằng có thể bác Nghè Quế của Quế Chi, khi c̣n
chế độ quân chủ ( trước 1945) là một thợ may khéo, từng may áo quần cho
Ḥang gia, và cấp trên hài ḷng, nên được thưởng phẩm hàm. Đặc biệt, ông
lại được thưởng hàm Hàn Lâm viện, chắc là Hàn lâm viện Đăi chiếu, trật tùng
cửu phẩm (9/2), bậc thấp nhất trong quan trường. Hàm Hàn lâm vốn dành cho
giới không văn hay để đỗ đạt th́ cũng chữ tốt để được tuyển dụng vào làm thư
kư để sao chép giấy tờ. Mà đă có hàm Hàn lâm th́ được người ta rộng răi gọi
tâng lên là ông Nghè.
-
-
Trong quan chế Nhà Nguyễn, có hàm Hàn Lâm Viện dành cho giới chữ nghĩa.
-
Thấp nhất là Hàn lâm viện Đăi chiếu, ở trật tùng cửu phẩm (9/2). Kế đến là
Hàn lâm viện Cung phụng (9/1); Hàn lâm viện Điển bạ (8/2); Hàn lâm viện
Điển tịch (8/1); Hàn lâm viện Kiểm thảo (7/2); Hàn lâm viện Biên tu (7/1);
Hàn lâm viện Tu sọan (6/2); Hàn lâm viện Trước tác (6/1); Hàn Lâm viện Thị
giảng (5/2), Hàn lâm viện Thừa chỉ (5/2); và cuối cùng, cao nhất là Hàn lâm
viện Thị độc, ở trật chánh ngũ phẩm (5/1) , ngang hàng với Giám sát ngự sử
và Đốc học các tỉnh, cao hơn Tri phủ một bậc.
-
-
Ban
đầu, hàm Hàn Lâm Viện dùng trong việc bổ dụng những người xuất thân khoa
bảng, hoặc những người có học, chữ tốt (thư thủ) được tuyển dụng làm thư kư.
Chẳng hạn , đời Minh Mạng (1820-1841), đă bổ dụng người đỗ đầu Tiến sĩ làm
Hàn lâm viện Tu sọan (6/2), người đỗ thứ ba làm Hàn lâm viện Biên tu (7/1),
và cho người viết chữ tốt hạng Ưu làm Hàn lâm viện Cung phụng (9/1).
-
Nhưng
từ đời Tự Đức trở về sau, nguyên tắc này trở thành lỏng lẻo, nhất là từ khi
có việc tặng hư hàm cho những người có công quyên góp tiền bạc dùng vào quân
phí hay chi phí xă hội.
-
-
Đầu
tiên, lệ năm Tự Đức thứ 16 (1863) định rằng hễ ai có ḷng từ thiện , quyên
tiền hoặc lúa (qui ra tiền) cho nhà nước để giúp vào việc trợ cấp dân chúng
trong lúc khẩn cấp v́ thiên tai, dịch bệnh, th́ sẽ được thưởng phẩm hàm.
Qui định giá cả như sau:
-
-
Số tiền quyên góp
|
-
Phẩm hàm được thưởng
|
-
1,000 quan
|
-
Tùng cửu phẩm Bá hộ (9/2)
|
-
2,000 quan
|
-
Chánh cửu phẩm (9/1)
|
-
3,000 quan
|
-
Tùng bát phẩm (8/2)
|
-
4,000 quan
|
-
Chánh bát phẩm (8/1)
|
-
5,000 quan
|
-
Tùng thất phẩm (7/2)
|
-
6,000 quan
|
-
Chánh thất phẩm Thiên hộ(7/1)
|
-
7,000 quan
|
-
Tùng lục phẩm Thông phán (6/2)
|
-
8,000 quan
|
-
Chánh lục phẩm Chủ sự (6/1)
|
-
-
Vậy nếu có người chỉ có khả năng quyên dưới
1,000 quan th́ sao? Đây là giá biểu:
-
-
-
Số tiền quyên góp
|
- Quyền lợi được
hưởng
|
-
900 quan
|
-
Miễn binh dịch, thuế thân và công ích trong 14 năm
|
-
800 quan
|
-
Miễn các khỏan trên trong 13 năm
|
-
700 quan
|
-
Miễn các khỏan trên trong 12 năm
|
-
600 quan
|
-
Miễn các khỏan trên trong 11 năm
|
-
500 quan
|
-
Miễn các khỏan trên trong 10 năm
|
-
400 quan
|
-
Miễn các khỏan trên trong 8 năm
|
-
300 quan
|
-
Miễn các khỏan trên trong 6 năm
|
-
200 quan
|
-
Miễn các khỏan trên trong 4 năm
|
-
100 quan
|
-
Miễn các khỏan trên trong 2 năm
|
-
-
Thế nhưng hai năm sau, năm Tự Đức thứ 18 (1865) v́ quá
cần tiền – do thua trận Pháp và Tây Ban Nha, phải bồi thường chiến phí --
giá biểu thấy sụt xuống để quyên được nhiều hơn . Giá căn bản là 800 quan (thay
v́ 1,000), hễ cứ thêm 1,000 quan th́ được lên một trật. Đă thế lại c̣n mở
rộng ra, hễ người ủng hộ có chút học thức hay vơ nghệ th́ có thể dự một kỳ
sát hạch tại Bộ Lại (cho quan văn) hoặc Bộ Binh (cho quan vơ) và nếu đậu th́
sẽ được bổ dụng làm quan. Chưa hết, vua c̣n cho các quan có lỗi, bị cách
chức hay giáng cấp được dùng tiền để chuộc lỗi, nghĩa là phục hồi chức vụ cũ.
Đúng là cảnh mua quan bán tước. Có lẽ việc mở cửa này đă bị tràn ngập những
hệ lụy xấu xa nên qua năm sau, Tự Đức thứ 19 (1866) vua ra lệnh chấm dứt
việc đóng tiền làm quan hoặc nạp tiền để khôi phục phẩm hàm. Chỉ duy tŕ
việc thưởng hư hàm cho người quyên góp mà thôi, và chỉ quyên góp khi cần,
khi có lệnh, chứ địa phương không được tùy tiện mở ra. Hư hàm nghĩa là có
chức mà không có thực quyền.
-
-
Năm Thành Thái thứ 1 (1889) định rằng ai
quyên một ngàn quan trở lên, nếu là dân thường th́ cho tùng cửu phẩm bá hộ,
c̣n ai đă có dự thi cử, nghĩa là có chữ nghĩa, th́ cho tùng cửu phẩm văn
giai (hàm Hàn lâm thuộc văn giai). Cứ quyên hơn 1,200 quan th́ gia thêm một
bậc. Đối với những người quyên dưới số 1,000 quan th́ cứ 60 quan sẽ được
miễn binh dịch, thuế thân và công ích một năm.
-
-
Tiếng nói rằng “quyên” nhưng thực sự là việc
mua phẩm hàm để có chút địa vị trong xă hội, nhất là ở chốn hương thôn.
Trong làng xă, dù giàu có bạc vạn mà không có một chút chức vị ǵ th́ vẫn
bị coi thường. Họ bị xếp vào lọai bạch đinh, nghĩa là chân trắng, phải gánh
vác mọi nghĩa vụ trong làng, và khi ra chốn đ́nh trung phải đóng vai hầu hạ,
điếu đóm cho lớp chức sắc “ăn trên, ngồi trước”. Bởi vậy, người ta phải cố
chạy cho được một chút phẩm hàm để trở thành ông nọ ông kia, chứ không phải
là anh là thằng nữa. Những ông Cửu, ông Bá, ông Nghè ,
nếu không xuất thân bằng ngơ quan trường hay tưởng thưởng th́ chính là hạng
mua chức, mua hàm cả.
-
-
Đến cái việc
đối hàm mới là độc đáo,
mới thấy người Pháp khi đô hộ nước ta đă tỏ ra rất sành tâm lư dân Việt.
-
Đối hàm là nguyên tắc cho phép công chức
thuộc ngạch Bảo hộ - nghĩa là công chức do chính quyền Bảo hộ quản trị,
điều động và trả lương -- được xem là tương đương với phẩm hàm ǵ bên quan
lại Nam triều để được vua Việt Nam ban cho phẩm hàm đó . Đứng về mặt quyền
lợi, công chức ngạch Bảo hộ có lương bổng và phúc lợi cao hơn quan lại Nam
triều rất nhiều, nhưng tại sao họ lại thích và cần đến cái phẩm hàm đầy vẻ
phong kiến đó để làm ǵ?
-
Tôi đọc ở đâu đó có một “ông Tây” nói rằng
trong đầu óc của mỗi người Việt Nam đều có một ông quan , nghĩa là hiếu
danh. Dù làm việc cho Bảo hộ quyền lợi có cao hơn nhưng chức danh nghe
không oai , không kêu, nếu không nói là có vẻ xa lạ với xóm làng sau lũy tre
xanh. Ai có địa vị cũng muốn áo gấm về làng cả, mà làng xóm th́ không quen,
không trọng nễ ông Thông, ông Phán, ông Kư cho bằng quan Hường, quan Thị,
quan Lang, do đó, quí vị công bộc ăn lương bảo hộ nhưng vẫn cần đến cái danh
hảo mà vinh quang của triều đ́nh. Biết được điều đó, nên để khích lệ tinh
thần phục vụ của nhân viên, người Pháp thỏa thuận với Nam triều về biện pháp
đối hàm như là một h́nh thức tưởng thưởng.
-
-
Lệ năm Thành Thái 19 (1907) định rằng những
người Việt làm việc cho chính quyền Bảo hộ lúc đến tuổi về hưu, hoặc v́ lư
do ǵ đó muốn rời bỏ quan trường, có thể căn cứ vào mức lương bổng để cho
phẩm hàm. Tiêu chuẩn đối hàm như sau:
-
Bảo hộ
|
-
Nam triều
|
-
Tham biện hạng nhất
|
-
Chánh tứ phẩm (4/1)
|
-
Tham biện hạng nh́
|
-
Tùng tứ phẩm (4/2)
|
-
Phán sự , Kư lục hạng nhất
|
-
Tùng ngũ phẩm (5/2)
|
-
Phán sự , Kư lục hạng nh́
|
-
Chánh lục phẩm (6/1)
|
-
Thông sự , Kư sự hạng nhất
|
-
Tùng lục phẩm (6/2)
|
-
Thông sự, Kư sự thí sai hạng nhất và nh́
|
-
Chánh cửu phẩm (9/1)
|
-
Thông sự, Kư sự thí sai hạng ba và tư
|
-
Tùng cửu phẩm (9/2)
|
-
-
Chánh tứ phẩm th́ có thể được các hàm như Hồng (Hường) lô tự khanh, Lang
trung, Thị độc học sĩ, từ đó có quan Hường, quan Thị, quan Lang.
-
Tùng tứ phẩm có thể được các hàm như Quang lộc tự thiếu khanh, Thị giảng học
sĩ; Chánh ngũ phẩm th́ có Hồng lô tự thiếu khanh, Hàn lâm viện Thị độc, Đốc
học, Phó Quản đạo. Tùng ngũ có Hàn lâm viện Thị giảng, Tri phủ. Chánh lục
phẩm có Đồng Tri phủ, Tri huyện. Đến như đẳng trật thấp nhất là tùng cửu
phẩm cũng có hàm rất kêu là
-
Hàn lâm viện đăi chiếu để được gọi là ông Nghè.
-
Kèm
theo cái bằng sắc
của
triều đ́nh c̣n có áo gấm bài ngà (nếu phẩm hàm cao), ra chốn đ́nh trung
trông vẫn oai hơn thầy kư hay ông Phán, ông Tham mặc đồ tây.
-
-
Việc đối hàm này, ban đầu chỉ giới hạn trong ngạch hành chánh khi nghỉ việc,
nhưng sau mở rộng sang các ngành chuyên môn khác như công chánh, y tế, giáo
dục, và vào bất cứ lúc nào đương sự bày tỏ nguyện vọng muốn được đối hàm.
Bởi vậy một ông y tá hay một ông giáo về hưu, có thể có phẩm hàm đă đành,
mà một ông Phán sự đang làm việc tại dinh Công sứ cũng có thể có phẩm hàm và
bài ngà, nếu hợp lệ. Nam kỳ lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp, không có chế
độ đối hàm như ở Trung và Bắc kỳ, và mặc dầu đă thiết lập một hệ thống viên
chức mới để giúp việc cai trị, họ vẫn chấp nhận cách gọi cũ, ít ra cũng
trong thời gian đầu, như Tổng đốc ( Tổng đốc Phương, Tổng đốc Lộc), Phủ (Tôn
Thọ Tường), Huyện (Huyện Của), v́ biết dân Việt sính gọi như thế. Cụ Vương
Hồng Sễn trong hồi kư Hơn nửa đời hư có kể chuyện ông Diệp Văn Cương,
sau khi ra Huế giữ chức thông ngôn cho Ṭa Khâm sứ Huế, có được phẩm hàm của
triều đ́nh, khi trở về Nam dạy học, vẫn thích học tṛ “bẩm quan” hơn là
“thưa thầy”.
-
-
VƠ
HƯƠNG-AN
-
San
Jose, 8/05
|