| |
Hoa hải đường
(Malus spectabilis)(pommier
sauvage)
Hoa Trà Mi (camellia/camélia )
Cho tới ngày nay , hầu hết người Việt đều lầm Hoa Hăi Đường và Hoa Trà Mi ...Ngay
că tự điển Anh – Việt Việt-Anh cũng xem, Hoa Hăi Đường là Hoa Trà Mi .
Nhưng trong truyện Kiều cũa Nguyễn Du th́ hoa Hai Đường và Hoa Trà Mi khác nhau
một trời một vực .
Ngay că ngày xưa ...lúc Dương quư Phi c̣n ngũ trưa th́ vua Đường Minh Hoàng nhẹ
gót hơi cung nữ : “ Hải Đường thụy vị túc da ? “ ( nghĩa là Hải Đường ngủ chưa
đũ sao ? )
Chúng tôi xin nhường lời lại cho anh Vĩnh Sính ( hiện ở Edmonton ) , anh là
người Huế - từng đi du học tại Nhật .
Vĩnh Sính ngày xưa cũng thắc mắc giống như chúng tôi là “ Hoa nào là hoa Trà Mi
? “ và hoa nào là hoa Hải Đường ...Trong khi đó hầu hết mọi người ViêtNam tụng
đọc thuộc ḷng như cháo toàn bộ Đoạn Trường Tân Thanh mà lại c̣n lầm lẩn Hoa hải
Dường và hoa Trà Mi ...
Ngay cả khi qua Mỹ...nhà lối xóm trồng rất nhiều Hoa Trà Mi ...Hoa tàn rớt đầy
sân nhà chúng tôi ...quét riết phát bực...hoa ǵ không có mùi hương ...nhưng nó
là Hoa Trà Mi ...
...........
“ Hải đường lả ngọn đông lân ”
Vĩnh Sính
Ở miền Bắc và miền Trung có một loài hoa đẹp nở vào đầu Xuân ; thân và cành cây
cứng cáp, cao vừa phải ; hoa năm cánh màu trắng, đỏ thắm hay hồng tươi ; nhuỵ
hoa màu vàng đậm nhưng không có hương thơm. Dân gian quen gọi loài hoa này là
hoa “ hải đường ”. Trong Từ điển tiếng Việt (1997) cây “ hải đường ” được định
nghĩa là “ Cây nhỡ cùng họ với chè, lá dày có răng cưa, hoa màu đỏ trồng làm
cảnh ”. Từ điển Việt-Anh và Việt-Pháp thường dịch “ hải đường ” là camellia/camélia.
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo 1 nặng cành xuân la đà.
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.
Sự cách biệt giữa một cây mang tên là “ hải đường ” có thân và cành cây cứng cáp
mà tôi hằng thấy trong những khu vườn cổ ở Huế, với ấn tượng về một cây hải
đường mảnh khảnh như đă được miêu tả qua những vần thơ trên đă khiến tôi thắc
mắc trong một thời gian khá lâu. Không lẽ Tiên Điền tiên sinh lại miêu tả cây
hải đường thiếu chính xác đến thế ? Niềm hoài nghi đó được giải toả khi chúng
tôi t́nh cờ được thấy tận mắt cây hải đường đúng như tiên sinh đă miêu hoạ trong
Kiều.
Một sáng mùa Xuân cách đây đă có hơn 30 năm (ngày đó tôi c̣n là một du học sinh
ở Nhật), khi đang đi bách bộ quanh khu cư xá du học sinh ở một vùng khá yên tĩnh
ở Đông Kinh, tôi chợt thấy một cây hoa mảnh khảnh, cành trĩu hoa màu hồng tươi.
Loài hoa này tôi chưa bao giờ thấy ở Việt Nam. Nhân có người đi qua, tôi hỏi hoa
ấy tên ǵ. Ông ta bảo : “ Kaidô desu yo ” (Hải đường đấy mà !). Không hiểu linh
tính nào đó đă cho tôi biết kaidô đích thị là loài hoa hải đường “ lả ngọn đông
lân ” mà Nguyễn Du đă nhắc đến trong Kiều ! Cho đến bây giờ khi ngồi viết những
ḍng này, tôi vẫn chưa quên được cảm giác khoan khoái nhẹ nhàng lúc đó khi vừa
vỡ lẽ một điều thắc mắc đă ám ảnh tôi khá lâu.
Đại từ điển tiếng Nhật Nihongo daijiten định nghĩa cây hải đường ở Trung Quốc (haitang)
và ở Nhật (kaidô) như sau :
Hoa hải đường (pommier sauvage)
“ Cây nhỡ rụng lá, thuộc họ tường vi (rose) trồng làm cây kiểng trong vườn. Hoa
nở vào tháng 4 dương lịch, sắc hồng nhạt. Loại có trái giống như quả táo tây, có
thể ăn được. Cao từ 2 đến 4 mét ”. Cuốn từ điển này c̣n chua thêm là hoa hải
đường dùng để ví với người con gái đẹp, đặc biệt khi muốn nói lên nét gợi cảm
hay vẻ xuân t́nh. Theo “ Dương Quư Phi truyện ” trong Đường thư, một hôm Đường
Minh Hoàng ghé thăm Dương Quư Phi, nghe nàng c̣n chưa tỉnh giấc, nhà vua bảo : “
Hải đường thuỵ vị túc da ? ”, nghĩa là “ Hải đường ngủ chưa đủ sao ? ” Trong văn
học cổ Trung Quốc, cảnh hoa hải đường trong cơn mưa thường dùng để ví với dáng
vẻ người con gái đẹp mang tâm trạng u sầu. Tên khoa học của cây hải đường là
Malus spectabilis; tiếng Anh gọi là flowering cherry-apple (hay Chinese
flowering apple, Japanese flowering crab-apple và nhiều tên khác nữa), tiếng
Pháp gọi là pommier sauvage
Như vậy tên tiếng Việt của cây camellia/camélia mà từ trước đến nay ta thường
gọi lầm là “ hải đường ” đúng ra phải gọi là ǵ ? Có người gọi camellia/camélia
là hoa trà, hay trà hoa. Chẳng hạn, tiểu thuyết La Dame aux camélias của
Alexandre Dumas (Dumas fils) trước đây có người dịch là “ Trà hoa nữ ” hay “ Trà
hoa nữ sử ”, và từ điển Việt Anh của soạn giả Bùi Phụng cũng dịch “ trà hoa ” là
camellia. Tuy dịch camellia là trà hoa (hay hoa trà) nghe có lư hơn là “ hải
đường ”, nhưng theo thiển ư cũng chưa được ổn cho lắm v́ hoa trà chỉ có màu
trắng, trong khi đó camellia/camélia không chỉ có màu trắng mà c̣n có màu hồng
và màu đỏ. Ta thử xem người Nhật và người Trung Quốc gọi camellia/camélia là ǵ.
Tiếng Nhật gọi cây này là tsubaki, chữ Hán viết là “ xuân ”, gồm chữ bộ “ mộc ”
bên trái và chữ “ xuân ” là mùa Xuân bên phải. Chữ “ xuân ” dùng trong nghĩa này
nghe quá lạ tai đối với người Việt. Người Trung Quốc gọi camellia/camélia là
shancha (sơn trà), sơn trà nghe cũng thuận tai và khá sát sao v́ cây này cùng họ
với cây chè (trà) và sơn trà nên hiểu là cây “ trà dại ” hay một biến thể của
cây trà.
Đang phân vân chưa biết dùng từ nào trong tiếng Việt để dịch camellia/camélia
cho thật sát nghĩa, chúng tôi lướt xem Truyện Kiều một lần nữa. Nào ngờ lời giải
cho câu vấn nạn của chúng tôi đă có sẵn ngay trong đó : cụ Nguyễn Du trong tác
phẩm bất hủ của ḿnh cũng đă dùng hoa “ trà mi ” nhằm ám chỉ nàng Kiều, và trà
mi chính là từ tiếng Việt tương ứng với camellia/camélia :
Tiếc thay một đoá trà mi,
Con ong đă tỏ đường đi lối về.
Nhưng do đâu chúng ta có thể khẳng định như thế ? Việt Nam Từ điển của Hội Khai
trí Tiến đức giải thích về hoa “ trà mi ” như sau : “ Thứ cây, có hoa đẹp, sắc
đỏ, hoặc trắng, mà không thơm ”. Trà mi cùng họ với cây chè, có sắc đỏ hoặc
trắng, và không có có hương thơm – đó chính là những đặc điểm của cây camellia/camélia
mà chúng ta đă đề cập ngay ở đầu bài.
Một điều thú vị và rất đáng chú ư : “ trà mi ” là một tên gọi thuần Nôm, không
có trong chữ Hán ! Nói một cách khác, thay v́ gọi “ sơn trà ” như người Trung
Quốc, ta chọn tên “ trà mi ” là cách gọi riêng của người Việt. Trong ấn bản chữ
Nôm của Truyện Kiều (bản Lâm Nhu Phu, 1870), hai chữ “ trà mi ” được viết bằng
hai chữ Nôm như sau : chữ “ trà ” được viết với bộ “ dậu ” với chữ “ trà ” bên
phải, và chữ “ mi ” được viết với bộ “ dậu ” với chữ “ mi ” là cây kê bên phải (từ
điển của Hội Khai trí Tiến đức mượn chữ “ mi ” là lông mày trong chữ Hán để viết
chữ “ mi ” tiếng Nôm này). Trong Từ điển Truyện Kiều, học giả Đào Duy Anh trong
phần văn bản viết hai chữ “ trà mi ” là “ trà (đồ) mi ” nhằm gợi ư “ trà mi ”
cũng có thể đọc là “ đồ mi ”, tuy nhiên trong phần “ Từ điển ” lại giải thích là
“ nước ta có hoa trà mi, nhưng khác với đồ mi của Trung Quốc ”. Theo thiển ư,
hai chữ Nôm nói trên chỉ có cách đọc là “ trà mi ” chứ không thể đọc là “ đồ mi
”, v́ trong chữ Hán, loài “ cây nhỏ, cành lá có gai, đầu mùa hè nở hoa sắc trắng,
hoa nở sau các thứ hoa cây khác ” mà Đào tiên sinh đă giải thích về “ hoa đồ mi
” trong cuốn Hán Việt từ điển do tiên sinh biên soạn, chính là hoa mâm xôi (Robus
rosacfolius) trong tiếng Việt.
Qua bài viết ngắn ngủi này, chúng tôi hy vọng đă chứng minh được rằng cây hải
đường mà chúng ta thường ngỡ là tương ứng với cây camellia/camélia trong tiếng
Anh và tiếng Pháp kỳ thực là một loài cây có hoa khác, có tên khoa học là Malus
spectabilis. Mặt khác, tên gọi tiếng Việt của hoa camellia/camélia đúng ra phải
là trà mi.
Trong Truyện Kiều, cụ Tiên Điền Nguyễn Du – nhà thơ muôn thuở của dân tộc Việt
Nam – đă dùng tên của hai loài hoa này chính xác và tách bạch. Tiên Điền tiên
sinh mượn hoa hải đường nhằm nói lên những nét yểu điệu gợi cảm của nàng Kiều
qua bóng dáng của một Dương Quư Phi kiều diễm. Khi định mệnh đă đưa đẩy Kiều vào
tay của Mă Giám Sinh và Sở Khanh – những kẻ “ thương ǵ đến ngọc tiếc ǵ đến
hương ” – tiên sinh đă mượn h́nh tượng của đoá hoa trà mi nhằm nói lên kiếp hồng
nhan trước những thử thách quá ư nghiệt ngă của số phận.
Nhân thể, chúng tôi cũng xin nói rằng trong Đại Nam nhất thống chí, trong phần
nói về các loài hoa ở “ Kinh sư ” (Huế) và “ Phủ Thừa Thiên ”, có đoạn nhắc đến
hoa hải đường. V́ có liên quan đến bài viết này, chúng tôi xin trích lại nguyên
văn
“ Kính xét bài thơ ‘Vịnh hải đường’ trong Minh Mệnh thánh chế có lời chú rằng :
Theo Quần phương phả th́ hải đường có bốn loại, là chiêm cánh, tây phủ, thuỳ lục
và mộc qua, ngoài ra lại có hoa vàng loại hoa thơm, nhưng đều là cành mềm, hoa
nhỏ, hoặc sắc vàng, hoặc đỏ lợt, hoặc như yên chi, chỉ có mấy sắc ấy thôi. Hải
đường phương nam th́ cây cao, lá to vừa dài vừa nhọn, hoặc sắc đỏ tươi, ruột có
nhị, cánh to mà dày, lúc nở đẹp hơn hoa phù dung, nên tục gọi là “ sen cạn ”; so
với hoa hải đường ở đất Thục th́ đẹp hơn nhiều, tựa hồ phương Bắc không có giống
hoa hải đường này, cho nên những lời trước thuật có khác. C̣n như nói rằng ‘hoa
đẹp lá tươi, mềm mại như xử nữ, hay say như Dương Phi say, yểu điệu như Tây Tử’
thực chưa h́nh dung hết được vẻ đẹp của hoa ấy. Năm Minh Mệnh thứ 17 khắc h́nh
tượng vào Nghị đỉnh. Lại có một loại là Kim ti hải đường ”.
Đọc đoạn trích dẫn ở trên, ta có thể thấy là ngay từ thời vua Minh Mệnh đă có sự
nhầm lẫn giữa hoa hải đường và hoa trà mi. Những loại hoa có “ cành mềm ” trong
phần trích dẫn đúng là hoa hải đường, nhưng loại hoa gọi là “ Hải đường phương
nam th́ cây cao, lá vừa to vừa dài vừa nhọn, hoặc sắc đỏ tươi, ruột có nhị, cánh
to mà dày ...” th́ đúng ra phải gọi là hoa trà mi chứ không phải là hoa hải
đường.
Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước đó (dưới triều vua Gia Long), nhưng tại sao thi
hào họ Nguyễn lại có thể phân biệt hai loại hoa này rạch ṛi đến thế ? Chúng ta
có thể phỏng đoán là ngoài những kiến thức thu thập qua sách vở, chắc hẳn Nguyễn
Du đă thấy tận mắt hai loài hoa này trong lần đi sứ sang Trung Quốc vào năm
1813.
|